Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tiểu luận An Toàn Bức Xạ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (303.88 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH
KHOA VẬT LÝ

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN AN TỒN BỨC
XẠ
Trình bày về các sự cố tai nạn hạt nhân ở Việt Nam. Qua đó rút
ra bài học kinh nghiệm trong cơng tác an toàn bức xạ tại nước ta

GVBM: Trương Trường Sơn

Sinh viên thực hiện: Vũ Nhật Quang
MSSV: 44.01.105.049

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 9/2021


Mục lục

2


Lời mở đầu
Trong thời hiện đại của nền khoa học kỹ thuật đã và đang đem lại cho con người
nhiều thành tựu trong nhiều lĩnh vực trong đời sống như cơng nghiệp, nơng nghiệp, y
học,… Việc tìm ra và phát triển năng lượng hạt nhân là một bước tiến lớn của nhân loại,
giúp ích rất lớn cho sự phát triển của con người. Tuy nhiên bên cạnh sự phát triển này là
sự tác động không nhỏ đến môi trường sống của các sinh vật trên thế giới. Trong đó,
nguy hiểm nhất là rị rỉ phóng xạ ra mơi trường sống.

Bảo đảm an toàn bức xạ được cơ quan quản lý nhà nước đảm bảo về an tồn và


kiểm sốt bức xạ là sự cần thiết khi tiến hành công việc bức xạ; đưa ra giải pháp tối
ưu về việc bảo đảm an toàn bức xạ; xác định các điều kiện bảo đảm an toàn cho
nhân viên bức xạ, dân cư khu vực có cơ sở bức xạ và mơi trường trong mức giới
hạn cho phép về an toàn bức xạ. Thủ tục xây dựng phải bảo đảm an toàn bức xạ và
các mức giới hạn cho phép về an toàn bức xạ do Chính phủ quy định.
Tuy nhiên, trong quá trỉnh vận hành, làm việc thì khơng thể nào hồn toàn tránh được
những vấn đề gặp sự cố, tai nạn và ngay cả khi thiếu trách nhiệm trong công việc dẫn tới
những hậu quả khó lường sau này. Nhưng xảy ra những vấn đề nguồn phóng xạ thì hậu
quả càng nguy hiểm hơn không chỉ vấn đề tổn thất tài sản mà còn ảnh hưởng rất lớn đến
sức khỏe của con người. Nên qua những sự cố về hạt nhân cụ thể tại Việt Nam, chúng ta
cần phải nhìn nhận, rút ra bài học kinh nghiệm một cách nghiêm túc để làm sao có thể
giảm tối đa tổn thất về người và của. Là một sinh viên khoa Vật lý học trường Đại học Sư
phạm TP. Hồ Chí Minh nay em xin chọn và thực hiện đề tài: “Trình bày về các sự cố tai
nạn hạt nhân ở Việt Nam. Qua đó rút ra bài học kinh nghiệm trong cơng tác an tồn bức
xạ tại nước ta” để từ đó có thể đưa ra được ý kiến của cá nhân mình trong việc đảm bảo
an tồn bức xạ qua những sự cố hạt nhân tại Việt Nam.

3


CHƯƠNG 1. ẢNH HƯỞNG CỦA BỨC XẠ
1.1 Ảnh hưởng của bức xạ tới mơi trường
Chất phóng xạ trong mơi trường có nhiều dạng như dạng lỏng, rắn, khí. Khi khơng
cẩn thận, các chất phóng xạ rị rỉ ra bên ngồi mơi trời gây nên ơ nhiễm phóng xạ trong
mơi trường. Những chất phóng xạ này nếu khơng được những dụng cụ chun dụng thì
rất khó có thể biết được rằng chất đó đang phát ra các tia phóng xạ với năng lượng cao.
Từ đó các chất phóng xạ có mặt trong đất, nước, khơng khí, sinh vật.
Bụi phóng xạ có mang theo rơi xuống các đồng cỏ và thấm vào đất canh tác rồi bị
gia súc ăn phải. Sau đó con người lấy thịt từ đàn gia súc đó dẫn tới các chất phóng xạ
theo thịt vào bên trong con người.

Các hạt phóng xạ hình thành được tung vào khí quyển, bị mưa, gió kéo theo sự
phán tán trong khí quyển rồi rơi xuống mặt đất. Gây ra những loại cây đột biến, chết cây
cối. Các chất phóng xạ này theo dòng nước đổ ra biển gây hại cho các sinh vật biển như
cá, phù du biển, san hô…

1.2 Ảnh hưởng của bức xạ tới con người
Những chất phóng xạ này khi vào cơ thể người cũng là hiện tượng ơ nhiễm phóng
xạ. Khi lượng chất phóng xạ thốt ra khỏi những nhà máy, lò phản ứng và cả việc khai
thác các khống sản đất hiếm ra mơi trường bên ngồi cũng được gọi là tình trạng ơ
nhiễm chất phóng xạ.
Khi con người bị tác động bởi các bức xạ ion ở mức thấp thì việc gây hại khơng thể
nhận biết ngay được, phải sau một thời gian các biểu hiện của căn bệnh mới xuất hiện.
Tuy nhiên, khi chiếu lên cơ thể một liều lượng rất lớn thì chỉ sau 7 đến 10 ngày sẽ xuất
hiện những dấu hiệu của căn bệnh đó. Căn bệnh nguy hiểm nhất đó chính là các bệnh ung
thư.
Các chất phóng xạ trong mơi trường có rất nhiều con đường để xâm vào trong cơ thể
con người. Từ đó gây ra những nguy hiểm đến sức khỏe con người, gây ra những căn
bệnh quái ác, các dị tật bẩm sinh, các căn bệnh khó trị và nguy hiểm nhất là có thể gây
chết người. Nhiễm bẩn phóng xạ có thể tồn tại trong dạng lỏng, khí hay dạng bột (hoặc
bụi) và chất phóng xạ này có thể xâm nhập vào cơ thể bằng một vài cách. Bốn con đường
xâm nhập là:





Hô hấp - bụi, khí
Ăn uống
Xâm nhập qua vết thương hở
Hấp thụ qua da


Nếu chất phóng xạ bị phát tán ra mơi trường sẽ có rất nhiều chất gây hại cho cơ thể con
người nhưng hai chất gây nguy hiểm nhất là I-131 và Cs-137. I-131 với nồng độ cao khi
đi vào cơ thể sẽ tích tụ trong tuyến giáp trạng (là một tuyến nội tiết quan trọng trong cơ
4


thể, nằm phía trước cổ) lâu ngày sẽ gây ung thư tuyến giáp trạng. I-131 có thời gian bán
hủy ngắn (trong vịng một tuần) nên khoảng 20 ngày có thể tan hết trong không gian.
Chất Cs-137 phát ra các tia Gamma có thời gian bán hủy dài (nhiều chục năm vẫn cịn
trong mơi trường) và tác dụng đến nhiều cơ quan chức năng trong cơ thể như gây ung thư
máu (hay còn gọi là bệnh bạch cầu) và ung thư xương, làm cho cấu tạo của DNA bị hư
hại hoặc bị phá hủy, từ đó gây đột biến DNA. Dạng đột biến này rất có tác hại đối với cơ
thể trẻ em. Người mẹ đang mang thai bị đột biến DNA khi sinh con dễ bị dị dạng, quái
thai, chậm phát triển trí nhớ… Đặc biệt nguy hiểm là đột biến DNA mang tính chất di
truyền và gây hậu quả lâu dài cho thế hệ tương lai.

Triệu chứng
Liều chiếu (Sv)
Thời gian khởi phát
Buồn nôn, biếng ăn, ỉa chảy
1 -2
Vài giờ đến 2 ngày
Nôi ban đỏ ở da
6
2 – 3 tuần
Rụng lơng, tóc
3
2 – 3 tuần
Sạm dạ

10 – 15
2 – 3 tuần
Tróc da (khơ)
15
2 – 4 tuần
Tróc da (ướt)
20 – 25
2 – 4 tuần
Hoại tử bức xạ
50
Nhiều tuần – nhiều năm
Bảng 1. Các triệu chứng gây haị cho con người

5


CHƯƠNG 2. AN TỒN BỨC XẠ
2.1 An tồn hạt nhân, sự cố hạt nhân và phóng xạ
An tồn hạt nhân là bao gồm các hành động nhằm ngăn chặn các sự cố bức xạ và hạt
nhân hoặc để hạn chế hậu quả do các sự cố này gây ra. An toàn hạt nhân áp dụng cho các
nhà máy điện hạt nhân cũng như tất cả các cơ sở hạt nhân khác và còn bao gồm cả việc
vận chuyển vật liệu hạt nhân, sử dụng và lưu giữ các vật liệu hạt nhân để sử dụng trong
ngành y tế, ngành điện lực, ngành công nghiệp và quân sự. Ngành công nghiệp điện hạt
nhân đã, đang, sẽ tiếp tục chú trọng nâng cao độ, cải thiện an toàn và hiệu suất của các lị
phản ứng hiện có và đã đề xuất nhiều mẫu thiết kế lò phản ứng tiên tiến với mức độ an
tồn hơn.
Lượng phóng xạ được đo bằng đơn vị Sievert – Sv (là đơn vị theo tiêu chuẩn đo lường
quốc tế - SI, đặt theo tên nhà khoa học người Thụy Điển Rolf Sievert). Để theo dõi chính
xác lượng phóng xạ, người ta thường sử dụng đơn vị milliSieverts – mSv hoặc
microSieverts - µSv.


2.2 Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA)
Theo IAEA, an toàn hạt nhân là việc đạt được các điều kiện vận hành hợp lý, ngăn ngừa
tai nạn hay giảm thiểu hậu quả tai nạn, bảo vệ người vận hành, người dân và môi trường
xung quanh bởi những nguy hiểm về bức xạ. Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế
(IAEA) phối hợp với các nước thành viên và nhiều đối tác trên toàn thế giới để thúc đẩy
các cơng nghệ hạt nhân an tồn, tin cậy và hịa bình. IAEA đề xuất các tiêu chuẩn về an
tồn, khuyến khích phát triển năng lượng hạt nhân và cũng giám sát việc sử dụng hạt
nhân; đây là tổ chức duy nhất trên toàn cầu 14 giảm sát ngành công nghiệp năng lượng
hạt nhân nhưng cũng phải kiểm tra sự tuân thủ Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân
(NPT). Đây là cơ quan đầu ngành xử lý bức xạ ion hóa và khơng ion hóa và xuất bản tài
liệu liên quan đến chống bức xạ.

2.3 Các quy định an tồn phóng xạ tại Việt Nam
Theo Luật Năng lượng Nguyên tử Việt Nam (điều 3), an toàn hạt nhân là việc thực hiện
các biện pháp nhằm ngăn ngừa sự cố, hoặc giảm thiểu hậu quả sự cố do thiết bị hạt nhân,
vật liệu hạt nhân gây ra cho con người và môi trường xung quanh, đặc biệt là sự phát tán
các chất phóng xạ ra mơi trường trong mọi tình huống.
Trách nhiệm quản lý nhà nước trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.
Bộ Khoa học và Công nghệ chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà
nước trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.
6


Bộ, các cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản
lý nhà nước trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử theo phân công của Chính phủ.
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh)
thực hiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực năng lượng ngun tử theo phân cấp của
Chính phủ.

Cơ quan an tồn bức xạ và hạt nhân thuộc Bộ Khoa học và Cơng nghệ có trách nhiệm
giúp Bộ trưởng thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
Xây dựng dự thảo văn bản quy phạm pháp luật về an toàn bức xạ, an tồn hạt nhân;
Tổ chức việc khai báo chất phóng xạ, thiết bị bức xạ, vật liệu hạt nhân, thiết bị hạt nhân
và việc cấp giấy phép tiến hành công việc bức xạ theo thẩm quyền;
Thẩm định và tổ chức thẩm định an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân;
Kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm về an tồn bức xạ, an tồn hạt nhân, tạm dừng cơng
việc bức xạ theo thẩm quyền; kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền tạm dừng vận
hành lị phản ứng hạt nhân nghiên cứu, vận hành nhà máy điện hạt nhân khi phát hiện các
yếu tố khơng an tồn;
Tổ chức thực hiện hoạt động kiểm soát hạt nhân theo quy định của pháp luật;
Tham gia ứng phó sự cố bức xạ, sự cố hạt nhân theo thẩm quyền;
Xây dựng và cập nhật hệ thống thông tin quốc gia về an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân;
Tổ chức và phối hợp tổ chức việc đào tạo, bồi dưỡng, hướng dẫn chun mơn, nghiệp vụ
về an tồn bức xạ, an tồn hạt nhân;
Tổ chức thực hiện hoạt động hợp tác quốc tế về an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân.

7


CHƯƠNG 3. CÁC TAI NẠN HẠT NHÂN TẠI VIỆT NAM
23.12.2003: Nhà máy xi măng Việt Trung
Công ty Cổ phần Xi măng Việt Trung (thôn Cổ Động, xã Thanh Hải, huyện Thanh Liêm,
tỉnh Hà Nam) là một đơn vị sản xuất xi măng theo cơng nghệ lị đứng, dây chuyền sản
xuất đồng bộ được nhập khẩu từ Trung Quốc. Dây chuyền sản xuất này có sử dụng nguồn
phóng xạ Cs - 137 để đo và phục vụ việc xả tự động clinke. Nguồn phóng xạ Cesium Cs
-137 này là một thành phần quan trọng nhất của một bộ phát tia gamma được dùng để đo
mức Clinke phục vụ việc xả tự động. Nguồn Cs -137 có chu kỳ bán rã 30,17 năm (dài
gấp hơn 5 lần chu kỳ bán rã của Co-60) và phát tia gamma với năng lượng 0,6617 MeV
(bằng ½ năng lượng bức xạ của Co-60). Ngày 23.12.2003, nguồn phóng xạ nói trên của

cơng ty đã bị mất. Hộp chứa nguồn phóng xạ nói trên được sản xuất năm 1990 tại nước
Nga, có dạng hình hộp chữ nhật với kích cỡ (100 x 120 x 100) mm. Vỏ ngồi hộp được
sơn màu ghi xám, cả ba mặt hộp đều có ký hiệu phóng xạ.

Hình 1. Nguồn phóng xạ bị thất lạc tại Nhà máy thép Pomina 3, Bà Rịa - Vũng Tàu
Ngồi ra. cịn hộp bảo vệ an tồn bao bọc hộp chứa nguồn phóng xạ khi khơng sử dụng
có 5 mặt với kích thước khoảng (200 x 200) mm. Vỏ ngồi là một lớp tơn đen sơn màu
nâu chống gỉ, bên trong thành hộp có bọc tấm chì bốn mặt dày khoảng 5-6 mm. Riêng
hộp bảo vệ an tồn này có trọng lượng khoảng 5-7 kg. Sau khi phát hiện bị mất hộp chứa
nguồn phóng xạ phát tia Gamma nói trên, Cơng ty đã thực hiện ngay các thủ tục: Lập
biên bản và tổ chức tìm kiếm trong tồn Cơng ty. Lập cơng văn báo cáo với Cơ quan
Cơng an Phường Tân Hồ, Cơng An thị xã Hồ Bình. Đến 17 giờ chiều 13/8, tức một
8


tuần sau khi phát hiện mất nguồn phóng xạ, Cơng ty có báo cáo gởi cho Cục Kiểm sốt
và An toàn bức xạ thuộc Bộ KH&CN. Nhưng cho đến nay các cuộc tìm kiếm đều khơng
mang lại kết quả và nguồn phóng xạ cho đến nay vẫn được xem là bị mất.
Cho đến nay, việc tìm kiếm, thu hồi nguồn phóng xạ này vẫn chưa đạt kết quả. Theo báo
cáo của đồn khảo sát, tìm kiếm nguồn trong các ngày 7 và 8.7.2004, nguồn phóng xạ
khơng cịn được cất giấu trong khu vực nhà máy của công ty và các khu vực lân cận; mơi
trường tại các khu vực đó và 9 cơ sở thu mua phế liệu kim loại, sản xuất, chế biến sắt
thép tại huyện Thanh Liêm chưa bị nhiễm bẩn phóng xạ.

26.5.2004: Viện Cơng nghệ Xạ hiếm (Hà Nội)
Ngày 26.5.2005, tại Viện Công nghệ Xạ hiếm (ở giữa nội thành Tp. Hà Nội) thuộc Viện
Năng lượng Nguyên tử Việt Nam (trực thuộc Bộ KH&CN), trong quá trình sửa chữa tại
Viện Công nghệ Xạ hiếm Hà Nội, ngày 26.5.2004 một công nhân đã lấy trộm một chiếc
hộp sắt đem bán cho cửa hàng phế liệu trên đường Bạch Đằng (Hà Nội). Chiếc hộp sắt
chứa đồng vị phóng xạ Europium Eu-152. Một lượng đồng vị phóng xạ Eu-152 ở dạng

bột trắng chứa trong hộp sắt, có hoạt độ phóng xạ 14 mili Curi, khối lượng 54,8 mg và
được sản xuất tại Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt vào tháng 10.1995.
Chiếc hộp chứa phóng xạ Eu-152 trên đã bị đập vỡ ra để lấy phế liệu. Tiếp theo, một cơn
mưa xảy ra ở khu vực này kéo theo và làm tiêu tán lượng phóng xạ Eu-152. Nhận được
thơng tin xảy ra ở Viện Công nghệ Xạ hiếm, Bộ KH&CN đã chỉ đạo các đơn vị trực
thuộc phối hợp với Cục Bảo vệ An ninh Kinh tế (Bộ Công an) xác định đối tượng lấy cắp
hộp sắt. Đồng thời các đơn vị kỹ thuật của Viện Khoa học và Kỹ thuật hạt nhân, Viện
Viện Công nghệ Xạ hiếm, Viện NLNT Việt Nam và Cục Kiểm sốt & An tồn bức xạ hạt
nhân đã tiến hành đo đạc và đánh giá độ nhiễm bẩn mơi trường tại địa điểm rị rỉ nguồn
phóng xạ là khơng đáng kể…Từ đó đến nay, sau hơn 1 năm, vẫn khơng có dấu vết gì
thêm về nguồn phóng xạ bị mất cắp và “khơng thu hồi lại được” này.

9.2014: Cơng ty Apave
Người dân TP.HCM từng có một phen hốt hoảng khi hay tin một nguồn phóng xạ chứa
đồng vị Ir-192 bị mất cắp vào tháng 9.2014. Một thiết bị chụp ảnh với nguồn phóng xạ
Iridium Ir-192 có hoạt độ 42,45 Curie (Ci) của Cơng ty Apave bị mất cắp trong nhà trọ có
địa chỉ số 521/67/60A, đường Nguyễn Đình Khơi, Phường 4, Quận Tân Bình, Tp.Hồ Chí
Minh. Nguồn phóng xạ này được sử dụng trong một thiết bị chụp ảnh xuyên thấu của
công ty Apave.

9


Hình 2. Thiết bị chụp ảnh xun thấu có chứa chất phóng xạ, được Sở Khoa học và Cơng
nghệ TP.HCM cung cấp để kêu gọi tìm kiếm sau khi bị mất cắp.
Sau 6 ngày truy tìm, từ nguồn tin của quần chúng, thiết bị được phát hiện tại một phòng
trọ nằm trong hẻm 111 đường Vườn Lài, phường Phú Thọ Hịa, quận Tân Phú, TP.HCM.
May mắn là nguồn phóng xạ vẫn giữ nguyên, chất đồng vị phóng xạ nguy hiểm Iridium
Ir-192 vẫn nằm nguyên trong hộp đựng bảo vệ bằng kim loại nặng, chưa tác động đến
những người tiếp xúc. Các cơ quan chức năng đã phong tỏa, thu hồi được thiết bị an toàn

trong sự mừng vui của hàng nghìn người dân xung quanh.
Theo lời khai của hai kẻ trộm thiết bị chứa chất phóng xạ, do tưởng là máy bơm nước nên
trộm về bán lấy tiền. Sau khi đem bán tại một vựa phế liệu gần nhà mà khơng được giá
thì cả hai mang về lại phịng trọ cất giấu.

3.2015: Nhà máy Xi măng Pomina 3
Về vụ mất nguồn phóng xạ gần đây nhất ở Nhà máy thép Pomina 3 - chi nhánh của POM
ở Bà Rịa-Vũng Tàu, các con số về ngày và thậm chí cả về tháng bị mất đều chưa biết thật
chính xác. Chỉ biết nguồn có thể mất vào tháng 11 năm 2014 (và cũng khơng loại trừ xảy
ra trước đó nữa, tận tháng 9/2014) nhưng mãi đến ngày 25/03/2015 Ban Tổng giám đốc
Nhà máy thép Pomina 3 - chi nhánh của POM mới biết tin về việc nguồn phóng xạ bị mất
cắp trong kho lưu giữ và ngày 1/4/2015 mới báo lên Sở Khoa học & Công nghệ và Công
an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Như vậy, thời gian từ khi mất nguồn cho đến nay có thể lên
đến 3-4 tháng hay thậm chí có thể đến cả nửa năm.
10


Đây cũng là một vụ mất nguồn phóng xạ làm xôn xao dư luận. Vụ việc xảy ra tại Nhà
máy Xi măng Pomina 3 (huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu). Cụ thể, khoảng giữa
tháng 3.2015, khi bàn giao tài sản do thay đổi nhân sự phụ trách an tồn bức xạ, nhà máy
phát hiện một nguồn phóng xạ chứa đồng vị Co-66 dùng để đo mức thép bị thất lạc.
Nguồn bị mất chứa đồng vị phóng xạ Cobalt Co-60 với hoạt độ phóng xạ khoảng 2,5mCi.
Đồng vị Co-60 có chu kỳ bán rã 5,272 năm và phát hai loại tia gamma với cường độ gần
như nhau với năng lượng 1,1732 MeV và 1,3325 MeV. Nguồn này được lắp trong máy đo
công nghiệp để đo mức thép trong q trình luyện và về mức độ an tồn bức xạ có thể
xếp vào loại IV (số 4). Ngay lập tức, một cuộc tìm kiếm quy mơ lớn đã được triển khai
với sự tham gia của Sở Khoa học và Công nghệ, Cơ quan An ninh Điều tra (Công an tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu), Cục An toàn bức xạ,… Phạm vi tìm kiếm thậm chí được mở rộng
sang các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương và TP.HCM. Nhưng đến lúc này nguồn phóng xạ bị
mất vẫn chưa được tìm.


Ngày 17 tháng 11 năm 1992
Ở Việt Nam, trường hợp nhiễm phóng xạ đầu tiên xảy ra vào ngày 17 tháng 11 năm 1992
trên máy gia tốc Microtron MT-17 (lắp đặt năm 1984) tại Viện Khoa học, Hà Nội. Do lỗi
vận hành, một nhà nghiên cứu đang điều chỉnh hình chiếu khi máy gia tốc bật, dẫn đến
việc cả hai tay bị chiếu xạ, gây bỏng và hoại tử một phần. Cụ thể là cách đây gần 30 năm,
Viện khoa học Vật lý cùng gia đình những tưởng đã phải chia tay với GS Trần Đức Thiệp
khi ông đang thử nghiệm nghiên cứu bị chiếu xạ vì máy gia tốc trục trặc. GS Thiệp đã bị
thương rất nặng, mất hẳn bàn tay phải và bàn tay trái cũng khơng cịn ngun vẹn.
Thử máy X-quang trên đùi, nhiều kỹ thuật viên nhập viện: Theo thơng tin bệnh nhân
(BN) cung cấp, trung bình mỗi tháng, một bệnh nhân bắn khoảng 2.000 - 3.000 lần tia X
vào đùi để thử máy và thử liên tục trong nhiều tháng, thì xảy ra tình trạng viêm loét. Bác
sĩ Trương Văn Tài, Đơn vị phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ, Bệnh viện quốc tế Minh Anh,
cho biết 4 bệnh nhân đến trong tình trạng đau do viêm loét đùi mạn tính khơng lành, diện
tích vết thương 4 x 5 cm và sâu gần 2 cm. Trước đó, các bệnh nhân đã đi một số bệnh
viện chữa trị, được cho uống thuốc và chăm sóc vết thương nhưng khơng khỏi nên rất lo
lắng. “Chúng tôi tiến hành cắt lọc vết thương, trong đó có 2 ca nặng hơn phải thực hiện vi
phẫu xoay vạt da che vào vết thương. Khoảng sau 2 tuần vết thương sẽ lành. Vết thương
dạng này tế bào sẽ không tăng sinh được do tia X phá hủy (giống như xạ trị). Có 1 ca cắt
lọc xoay vạt da chừa viền thì vết thương lành khơng tốt bằng việc cắt lọc triệt để.
Ơ nhiễm phóng xạ trong hoạt động khai thác quặng titan
Ơ nhiễm phóng xạ từ việc khai thác quặng titan: Vùng ven biển Nam Trung bộ, ở khu mỏ
sa khoáng quặng titan, việc khai thác mỏ sa khống titan (cịn gọi là cát đen) đã gây ơ
nhiễm phóng xạ. Trong quặng ilmenit, zircon có các khống vật chứa các chất phóng xạ
có hàm lượng phóng xạ cao, rất nguy hiểm cho sức khỏe con người.
11


Ô nhiễm môi trường từ khai thác titan đã đến mức báo động, năm 2009, Sở KH-CN tỉnh
Bình Thuận đã phân tích đánh giá mức độ tác động ảnh hưởng mơi trường tại khu vực

Thiện Ái, huyện Bắc Bình - nơi có 4 cơng ty được cấp phép khai thác tận thu sa khống
titan.
Kết quả phân tích 8 mẫu nước biển ven bờ gần khu vực khai thác titan cho thấy hoạt độ
phóng xạ anpha cao hơn từ 2,49-8,88 lần; beta cao hơn từ 5,43-10,35 lần so với với quy
chuẩn Việt Nam (QCVN). Kết quả phân tích 10 mẫu nước giếng gần khu vực khai thác
và 4 mẫu nước thải cũng cho thấy hoạt độ phóng xạ anpha và beta cũng cao hơn ngưỡng
cho phép.
Cụ thể tại mỏ Bàu Dòi, thời điểm khảo sát, mỏ đã khai thác xong và được hồn thổ, kết
quả đo 63 điểm, suất liều phóng xạ trung bình của tồn khu mỏ là 121,3 nanoSieverts/giờ
(nSv/h) (tạo nên liều chiếu ngoài ~1,06 miliSievert/năm, tương đương mức trung bình
của thế giới là 1,1 mSv/năm).
Tuy nhiên, có 3/63 điểm có phơng phóng xạ cao đột biến (phạm vi khoảng 30m²), có thể
dự đốn đây là nơi tập kết sa khống nhưng khơng được dọn dẹp vệ sinh kỹ nên để sót sa
khống có chứa monazit có hàm lượng phóng xạ cao gây ơ nhiễm phóng xạ cho vùng
này.
Đo hàm lượng khí radon trong khơng khí và khí sinh ra trong đất trên tồn bộ khu vực
mỏ Bàu Dịi, hầu hết hàm lượng radon trong khơng khí cao hơn 30 Becquerel/m3 (mức
trung bình trên thế giới) nhưng chưa tới mức “hành động” (theo quy định của Mỹ, mức
hành động là 148 Becquerel/m³).
Tuy nhiên, khi đo hàm lượng radon trong khí sinh ra từ đất ở độ sâu 0,5m, kết quả hầu
hết các điểm đo đều có hàm lượng Radon ~100 Becquerel/m³ (Bq/m³). Có một điểm đo
hàm lượng radon lên đến 1180 Bq/m³, có thể đây là nơi tập kết sản phẩm hay là nơi chôn
lấp cát thải sau khi tách monazit (vẫn cịn hoạt độ phóng xạ cao) sau đó chưa được hồn
thổ đúng cách, phần cát thải có hoạt độ phóng xạ cao chưa được chơn sâu vẫn cịn gây
ảnh hưởng tới phơng phóng xạ mơi trường.
Đo 114 điểm tại mỏ Thiện Ái, kết quả cho thấy phông phóng xạ trung bình tại đây là
142,3 nSv/h (tạo ra liều chiếu ngồi trung bình hàng năm là 1,24 mSv/năm, cao hơn mức
trung bình của thế giới). Có tới 11/22 điểm đo có hàm lượng radon trong khơng khí ở
mức “hành động”. Tại các điểm cịn lại đều có hàm lượng radon trong khơng khí cao hơn
mức bình thường.

Tương tự là mỏ Hịn Rơm, có 12/29 điểm đo có hàm lượng radon > 148 Bq/m3, đây là
những điểm có tiềm năng gây nên hàm lượng radon trong khơng khí trong nhà ở khá cao.
Nếu các ngôi nhà xây dựng trên khu vực này khơng được xử lý nền móng, khơng được
bố trí thơng gió đúng theo các u cầu thiết kế để phịng chống sự tích tụ radon, có hại
cho sức khỏe.
12


Tại mỏ Sơn Mỹ - Tân Thắng, hầu hết các vị trí đo đều có hàm lượng radon ở mức cao
(>50 Bq/m3). Đặc biệt có 8 điểm có hàm lượng radon trong khơng khí ở ngồi trời đã cao
hơn mức “hành động”. Tại khu vực mỏ Suối Nhum, do sa khống nặng nằm gần bề mặt,
có thể nhìn thấy rõ cát đen nên phơng phóng xạ cao hơn mức bình thường. Đặc biệt có tới
14/22 điểm đo có hàm lượng radon trong khơng khí cao hơn mức bình thường.
Cơng nghệ sử dụng trong khai thác, tuyển quặng của phần lớn các doanh nghiệp khai
thác hiện nay còn lạc hậu. Chế biến quặng titan hiện nay chủ yếu là tuyển tinh để tách các
sản phẩm ilmenit (TiO2), Rutil, Zircon và quặng đi chứa Monazit và Leucoxen. Trong
đó mới dừng lại ở việc nghiền zircon mịn và siêu mịn (theo công nghệ của Trung Quốc
và Anivi – Tây Ban Nha) và sản xuất xỉ titan (theo cơng nghệ Trung Quốc).
Trong khi đó, báo cáo của Sở tài ngun mơi trường Bình Thuận cho thấy, nhiều Báo cáo
đánh giá tác động môi trường của các dự án khai thác titan cịn mang tính hình thức, thiếu
các số liệu đo phơng bức xạ tự nhiên tại khu mỏ ngay trước thời điểm tác động để làm cơ
sở đánh giá mức độ nhiễm phóng xạ do tác động của hoạt động khai thác, chế biến;
không hoặc ít đo kiểm sốt, đánh giá mức độ ơ nhiễm phóng xạ trong q trình hoạt động
khai thác, chế biến. Ngồi ra, trong q trình khai thác, chế biến, hầu hết doanh nghiệp
đều chưa cảnh báo và có biện pháp bảo vệ sức khỏe cho công nhân và cộng đồng đối với
nguy cơ nhiễm xạ.
Theo các nhà khoa học, ô nhiễm phóng xạ là ô nhiễm mà con người không cảm nhận
được, nhưng lại rất nguy hiểm cho sức khỏe của công nhân khai thác, chế biến quặng
titan và cư dân địa phương. Trong khi đó, tình trạng ơ nhiễm nguồn nước do hoạt động
khai thác titan gây ra chỉ mới nhìn thấy ở hiện tượng, bề mặt, chứ chưa có những khảo

sát, kiểm tra tồn diện về nguy cơ ơ nhiễm phóng xạ.
Các nhà khoa học cho rằng, nguy cơ ơ nhiễm phóng xạ tại các khu vực khai thác titan là
đặc biệt nghiêm trọng, quặng sa khoáng titan không chỉ là “cát đen” vô hại, mà trong đó
có các khống vật Zircon, Monazite chứa các ngun tố phóng xạ thuộc dãy Thorium và
Uranium. Tại các cồn cát ven biển khi chưa tác động, phơng phóng xạ ở mức bình thường
so với suất liều chiếu xạ tự nhiên tồn cầu, khơng ảnh hưởng đến mơi trường và con
người vì lớp sa khống nằm ở độ sâu dưới mặt đất. Tuy nhiên các nghiên cứu cho thấy,
các thân quặng sa khoáng titan ven biển Việt Nam thường nằm trong các cồn cát ít được
cây cối, thảm thực vật che phủ, và lớp phủ thường tương đối mỏng. Đây là yếu tố khiến
quặng sa khống titan chứa chất phóng xạ dễ dàng phát tán ra môi trường xung quanh
hơn khi bị tác động.
Quá trình khai thác, tập kết, vận chuyển, tồn trữ, chế biến quặng titan làm phát tán các
chất phóng xạ rất có hại đến sức khỏe cộng đồng. Kết quả đo xạ thực tế nhiều tỉnh thành
cho thấy cường độ phóng xạ ở đống quặng tuyển ướt, đặc biệt trong xưởng tuyển tinh,
các sản phẩm sau tuyển tinh đều rất cao, vượt ngưỡng hàng trăm lần so với tiêu chuẩn an
tồn phóng xạ. Trong các chất thải phát sinh của q trình khai thác titan, nước thải từ
cơng tác tuyển quặng có ảnh hưởng lớn nhất đến mơi trường. Các hoạt động khai khoáng,
13


tác động của môi trường (môi trường thay đổi trong quá trình tuyển quặng và chế biến
sâu quặng titan) là những tác nhân khiến nước thải nhiễm phóng xạ. Lượng nước thải
sinh ra từ hoạt động tuyển quặng và chế biến titan chiếm hơn 20% lượng nước sử dụng,
theo như cơng suất khai thác hiện nay thì lưu lượng nước thải ra là rất lớn. Nước thải
chảy trực tiếp ra biển, mà không qua xử lý làm cho nước biển vùng hai cửa sơng lân cận
các khu mỏ có mức phóng xạ vượt q tiêu chuẩn an tồn quy định.

14



CHƯƠNG 4. BÀI HỌC RÚT RA VÀ KẾT LUẬN
4.1 Bài học rút ra, giải pháp
Trước những vấn đề trên, Nhà nước hiện đang có khuynh hướng tăng cường các biện
pháp kiểm soát bảo đảm an ninh đối với các nguồn phóng xạ để ngăn chặn các hoạt động
sử dụng vào mục đích xấu và ngăn ngừa các hậu quả đến sức khỏe con người do mất
kiểm soát đối với các nguồn phóng xạ. Kiểm tra hành trang nhân viên khi ra vào làm việc
trong các cơ quan nguyên tử, hạt nhân để đảm bảo rằng khơng có sự cố mất nguồn do
nhân viên. Tăng cường tập huấn cho người dân, nhân viên làm việc liên quan đến phóng
xạ để khi gặp các sự cố về phóng xạ có thể giải quyết một cách nhanh chóng và triệt để.
Khi có sự cố rị rỉ phóng xạ cần phải nhanh chóng khoanh vùng, sơ tán người dân nếu cần
thiết, báo cho các cơ quan chức năng có thẩm quyền; nếu phát hiện được nguồn che chắn
nguồn hợp lý tùy vào nguồn của phóng xạ để các tia phóng xạ khơng gây ảnh hưởng đến
xung quanh. Người phụ trách an toàn bức xạ của cơ sở bức xạ được người quản lý cơ sở
bưc xạ bổ nhiệm, có nhiệm vụ giúp ngời quản lý cơ sở bức xạ thực hiện những nghiệm
vụ nói trên và lưu trữ các loại hồ sơ có liên quan đến an toàn bức xạ của cơ sở bức xạ.
Ngồi ra cần phải đẩy mạnh cơng tác:
1. Tăng cường công tác truyền thông giáo dục để cho mọi người hiểu tác hại của
phóng xạ và các biện pháp phịng tránh
2. Cần bố trí cơ sở làm việc có nguồn bức xạ xa khu dân cư, nhà trẻ, trường học,
công sở v.v... Cơ sở phải đặt cuối chiều gió, cuối nguồn nước khu vực trên.
3. Phòng làm việc phải bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh về kích thước, độ dầy của tương,
phải có hệ thống che chắn nguồn bức xạ. Phải thu gom các chất thải có nguồn
phóng xạ (rắn, lỏng...) để xử lý theo đúng quy phạm an toàn bức xạ ion hoá.
4. Thường xuyên tẩy xạ nơi làm việc và các thiết bị.
5. Phải sử dụng đầy đủ trang bị phịng hộ lao động thích hợp mới được làm việc.
6. Nhân viên tiếp xúc với nguồn bức xạ phải được tập huấn về an toàn - vệ sinh lao
động và phải được cấp chứng chỉ.
7. Người tiếp xúc nguồn phóng xạ phải được khám sức khoẻ định kì 6 tháng một lần
và phải có đầy đủ các xét nghiệm cần thiết có liên quan đến tác hại nghề nghiệp.
8. Phải tổ chức kiểm tra, theo dõi liều chiếu cá nhân liên tục nhắm quản lý số liệu

chiếu xạ cho từng nhân viên.
9. Phải có biện pháp quản lý nghiêm ngặt các thiết bị có nguồn phóng xạ, khi có dấu
hiệu bất thường phải báo với người có trách nhiệm hoặc ngừng hoạt động ngay.
10. Cơ sở phải có đội cấp cứu tại chỗ khi xảy ra sự cố và phải được tập huấn thường
xuyên.
11. Buồng làm việc phải được che chắn xung quanh bằng tấm chì, cao su chì; tường
trát vữa ba-rít và phải có biển báo hiệu theo quy định của nhà nước.
12. Căn cứ vào tính nguy hiểm nguồn phóng xạ bố trí các phịng làm việc thích hợp
theo từng khu vực một.
15


13. Phải có hệ thống thơng gió, lọc sạch bụi, lọc sạch khí.
14. Phải có hệ thống cấp nước và thốt nước đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh.
15. Có nhà tắm riêng cho nhân viên tiếp xúc, có chậu giặt và tủ đựng quần áo bảo hộ
riêng, tủ dán phoóc-mi - ca để hạn chế bụi bám vào.
16. Các chất thải sau khi thu gom lại phải để ở khu vực riêng trong một thời gian cho
nguồn phóng xạ bán phân rã rồi đưa đến nơi quy định, xi măng hố, chơn sâu
xuống lịng đất (tính theo phân rá của mỗi chất). Thùng chứa chất thải sơn màu
vàng, gắn nhãn phóng xạ để phân biệt, thùng phải kín.

Tn thủ các quy định của nhà nước trong công tác đảm bảo an ninh nguồn phóng
xạ như sau: Bộ Khoa học và Công nghệ nước ta đã đưa ra thông tư hướng dẫn đảm bảo
nguồn an ninh phóng xạ. Trong thơng tư này, có tổng 16 điều trong 3 chương và ta cần
chú ý đến những điều sau:
Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
Nguồn phóng xạ kín và Pu-239; tổ chức, cá nhân Việt Nam,… Điều 3. Nguyên tắc
đảm bảo an ninh nguồn phóng xạ: người đứng đầu tổ chức, cá nhân phải được cấp giấy
phép tiến hành công việc bức xạ và phải chịu trách nhiệm cao về việc đảm bao an ninh
nguồn phóng xạ. Điều 4. Mức an ninh nguồn phóng xạ: căn cứ mức độ nguy hiểm nguồn

phóng xạ và nguy cơ tiềm ẩn gây hại cho con người và môi trường.
Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân sử dụng, lưu trữ, vận chuyển nguồn phóng xạ
Thiệt lập khu vực kiểm soát an ninh.
Lắp đặt thiết bị phat hiện, báo động, sự tiếp cận trái phép.
Đặt các thiết bị quan sát, ghi nhận, lưu trữ hình anh bên trong và bên ngồi khu vực kiểm
sốt.
Lắp khóa cho các cửa lối ra vào khu vực kiểm soát an ninh.
Kiểm đếm nguồn phóng xạ hàng ngày, ghi rõ người thực hiện đếm, kết quả đếm.
Xây dựng và thực hiện chuyển giao nguồn phóng xạ trong cơ sở nội bộ.
Tổ chức lực lượng bảo vệ. Kiểm tra lý lịch của các nhân viên tham gia trong bảo quản an
ninh nguồn phóng xạ.
Và khi có sự cố về rị rỉ phóng xạ cũng phải tuân thủ theo những quy định sau:
Trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về an toàn bức xạ và hạt nhân về việc quản lý
chất thải phóng xạ và nguồn phóng xạ đã qua sử dụng được pháp luật tại Điều 16 Thông
tư 22/2014/TT-BKHCN về quản lý chất thải phóng xạ và nguồn phóng xạ đã qua sử dụng
do Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành, cụ thể như sau:
1. Cục An tồn bức xạ và hạt nhân có trách nhiệm:
16


a. Tổ chức, giám sát thu gom chất thải phóng xạ khơng xác định được chủ nguồn
chất thải phóng xạ và nguồn phóng xạ nằm ngồi sự kiểm sốt khơng xác định
được chủ nguồn phóng xạ.
b. Hướng dẫn các tổ chức, cá nhân biện pháp quản lý chất thải phóng xạ và nguồn
phóng xạ đã qua sử dụng.
c. Thẩm định an tồn và cấp giấy phép tiến hành cơng việc bức xạ cho các cơng việc
bức xạ có phát sinh chất thải phóng xạ và cơ sở lưu giữ chất thải phóng xạ.
d. Thanh tra việc tuân thủ các quy định pháp luật về quản lý chất thải phóng xạ,
nguồn phóng xạ đã qua sử dụng trong phạm vi cả nước và xử lý đối với các vi
phạm.

2. Sở Khoa học và Công nghệ các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm:
a. Tổ chức và phối hợp với Cục An toàn bức xạ và hạt nhân thu gom chất thải phóng
xạ, nguồn phóng xạ được phát hiện trên địa bàn quản lý mà không xác định được
chủ.
b. Hướng dẫn các tổ chức, cá nhân hoạt động trên địa bàn quản lý về biện pháp quản
lý chất thải phóng xạ và nguồn phóng xạ đã qua sử dụng.
c. Tổ chức thanh tra và phối hợp với Cục An toàn bức xạ và hạt nhân thanh tra việc
tuân thủ các quy định pháp luật về quản lý chất thải phóng xạ, nguồn phóng xạ đã
qua sử dụng trên địa bàn quản lý và xử lý đối với các vi phạm.
d. Trên đây là nội dung câu trả lời về trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về
an toàn bức xạ và hạt nhân về việc quản lý chất thải phóng xạ và nguồn phóng xạ
đã qua sử dụng. Để hiểu rõ và chi tiết hơn về vấn đề này bạn có thể tìm đọc và
tham khảo thêm tại Thông tư 22/2014/TT-BKHCN.
Trường hợp sự cố bức xạ đặc biệt nghiêm trọng, Chính phủ trực tiếp chỉ đạo việc khắc
phục, ra quyết định về các biện pháp khẩn cấp, yêu cầu hỗ trợ quốc tế khi thấy cần thiết,
chỉ đạo giải quyết hậu quả sự cố bức xạ.

4.2 Kết luận
Hoạt động trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử phải bảo đảm an tồn cho sức khoẻ, tính
mạng con người, mơi trường và trật tự, an tồn xã hội. Hoạt động quản lý về an toàn, an
ninh trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử phải bảo đảm khách quan, khoa học. Sự
nghiêm ngặt về an toàn, an ninh nguồn nguồn phóng xạ, kiểm sốt bức xạ ở Việt Nam
ln được đặt hàng đầu để bảo vệ cho người dân cũng như xã hội. Các chất phóng xạ
trong mơi trường sẽ theo nhiều con đường xâm nhập vào cơ thể con người, chúng sẽ phá
hoại các kết cấu phân tử lớn thậm chí trực tiếp phá hủy các tế bào và mơ gây hại cho sức
khỏe con người. Tia phóng xạ có thể gây ra nhiều bệnh nguy hiểm vì vậy phải hạn chế sự
ảnh hưởng của nó đến sức khỏe con người. Sự cố bức xạ, hạt nhân là tình trạng mất an
17



toàn bức xạ; mất an toàn hạt nhân; mất an ninh đối với nguồn phóng xạ, vật liệu hạt nhân,
thiết bị hạt nhân, cơ sở bức xạ và cơ sở hạt nhân. Hậu quả do sự cố bức xạ, hạt nhân gây
ra là đặc biệt nghiêm trọng, làm chết và để lại nhiều di chứng, bệnh tật đối với con người,
hủy hoại môi trường sinh thái và tác động lâu dài đến đời sống xã hội. Mặc dù vậy, do
nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, một số quốc gia đã và đang đầu tư xây dựng nhiều nhà
máy điện hạt nhân làm gia tăng nguy cơ sự cố bức xạ, hạt nhân. Cùng với đó là các hoạt
động buôn bán trái phép, sở hữu bất hợp pháp chất phóng xạ, nguyên liệu hạt nhân diễn
biến phức tạp; các tổ chức khủng bố quốc tế tìm mọi cách sở hữu vũ khí phóng xạ, vũ khí
hạt nhân tự chế để tiến hành các hoạt động khủng bố,... dẫn đến nguy cơ mất an toàn bức
xạ, hạt nhân rất cao.

18


Tài liệu tham khảo
1. Trương Trường Sơn, Bài giảng An toàn bức xạ, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí
Minh, 2021
2. Trích điều 8, khoản 1 của Quyết định Ban hành hoạt động của kiểm
soát hạt nhân, do Thủ tướng chính phủ ban hành vào ngày 14 thánh 06
năm 2010.
3. LUẬT NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ CỦA QUỐC HỘI KHÓA XII, KỲ HỌP
THỨ 3, SỐ 18/2008/QH12 ,NGÀY 03 THÁNG 06 NĂM 2008
4. QCVN 6:2010/BKHCN.QUY CHUẨN KỸ THUẬT QUỐC GIA VỀ AN
TỒN BỨC XẠ - PHÂN NHĨM VÀ PHÂN LOẠI NGUỒN PHÓNG XẠ
(National technical regulation on radiation protection - Categorization
and classification of radioactive sources)
5. Cục An toàn bức xạ và hạt nhân VARANS, Một số sự cố mất an ninh
nguồn phóng xạ trên thế giới và Việt Nam, ngày 26 tháng 12 năm 2016
6. Bộ Khoa học và Công nghệ, Đánh giá mức độ nguy hại của phóng xạ, ngày 13 tahng1
4 năm 2015


19



×