Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Báo cáo khoa học khái luận về văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.14 MB, 103 trang )

KHÁI LUẬN VỀ VĂN HÓA
GS.VS.TSKH. Trần Ngọc Thêm
(Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh)
In trong sách: Phác thảo chân dung văn hóa Việt Nam. - HN., NXB Chính trị Quốc gia,
2000.
Ngay từ thuở lọt lòng, chúng ta đã đắm mình trong chất men văn hóa: từ lời ru của mẹ, bài học của
cha, trò chơi của chị... cho đến tiếng gọi đị bên sơng, tiếng võng đưa kẽo kẹt lúc trưa hè, tiếng chuông
buông khi chiều xuống... - tất cả, tất cả những sự kiện đó, những ấn tượng đó, những âm thanh đó,
những hình ảnh đó... đều thuộc về văn hóa. Cái tinh thần như tư tưởng, ngơn ngữ... là văn hóa; cái vật
chất như ăn, ở, mặc... cũng là văn hóa. Chính văn hóa đã ni chúng ta lớn, dạy chúng ta khơn. Người
ta nói: văn hóa ẩm thực, văn hóa trang phục, văn hóa ứng xử, văn hóa tiêu dùng, văn hóa kinh doanh,
văn hóa chính trị, văn hóa Đơng Sơn, văn hóa Hịa Bình, văn hóa rìu vai... Từ "văn hóa" có biết bao
nhiêu là nghĩa, nó được dùng để chỉ những khái niệm có nội hàm hết sức khác nhau.
Tuy được dùng theo nhiều nghĩa khác nhau, nhưng suy cho cùng, khái niệm văn hóa bao giờ cũng
có thể quy về hai cách hiểu chính: theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng.
Theo nghĩa hẹp, văn hóa được giới hạn theo chiều sâu hoặc theo chiều rộng, theo không gian hoặc
theo thời gian... Giới hạn theo chiều sâu, văn hóa được hiểu là những giá trị tinh hoa của nó (nếp sống
văn hóa, văn hóa nghệ thuật...). Giới hạn theo chiều rộng, văn hóa được dùng để chỉ những giá trị trong
từng lĩnh vực (văn hóa giao tiếp, văn hóa kinh doanh...). Giới hạn theo khơng gian, văn hóa được dùng
để chỉ những giá trị đặc thù của từng vùng (vănhóa Tây Nguyên, văn hóa Nam Bộ...). Giới hạn theo thời
gian, văn hóa được dùng để chỉ những giá trị trong từng giai đoạn (văn hóa Hồ Bình, văn hóa Đơng
Sơn...)...
Theo nghĩa rộng, văn hóa thường được xem là bao gồm tất cả những gì do con người sáng tạo ra.
Năm 1940, Hồ Chí Minh đã viết: "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng
tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những
sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng
với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và địi hỏi
của sự sinh tồn"[1][1]. Federico Mayor, Tổng giám đốc UNESCO, cho biết: "Đối với một số người, văn
hóa chỉ bao gồm những kiệt tác tuyệt vời trong các lĩnh vực tư duy và sáng tạo; đối với những người
khác, văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm


tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động. Cách hiểu thứ hai này
đã được cộng đồng quốc tế chấp nhận tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hóa họp năm
1970 tại Venise"[2][2].
Chính với cách hiểu rộng này, văn hóa đã trở thành đối tượng của văn hóa học (culturology,
culture studies, science of culture) - khoa học nghiên cứu về văn hóa. Trong lĩnh vực này, khởi đầu từ
định nghĩa của E.B.Tylor trong cuốn Văn hóa nguyên thuỷ (Primitive culture) xuất bản ở London năm
1871, đến nay đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau. Vào năm 1952, hai nhà nhân học người Mỹ là A.
Kroeber và C. Kluckhohn đã viết một cuốn sách chuyên bàn về các định nghĩa văn hóa nhan đề: Văn hóa
- tổng luận phê phán các quan niệm và định nghĩa (Culture: a critical review of concepts and definitions),
trong đó đã dẫn ra và phân tích 164 định nghĩa về văn hóa. Trong lần xuất bản thứ hai của cuốn sách
này, số định nghĩa văn hóa đã tăng lên đến trên 200. Cịn hiện nay thì số lượng định nghĩa về văn hóa
khó mà biết chính xác được: có người bảo là 400, có người nói là 500, lại có người quả quyết rằng
chúng lên đến con số nghìn...
Sẽ khơng phải là xa sự thật, nếu nói rằng có bao nhiêu nhà nghiên cứu văn hóa thì có bấy nhiêu
định nghĩa về văn hóa. Song, lại cũng có một sự thật khác là dù số lượng định nghĩa văn hóa có nhiều
bao nhiêu đi nữa thì, chung quy lại, chúng vẫn chỉ xoay quanh một số khuynh hướng cơ bản.
Xét theo cách thức thì ta thấy có hai loại - định nghĩa miêu tả và định nghĩa nêu đặc trưng.
Định nghĩa miêu tả liệt kê các thành tố của văn hóa, ví dụ như theo E.B.Tylor (1871), văn hóa là
"một phức thể bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán, cùng mọi khả
năng và thói quen khác mà con người như một thành viên của xã hội đã đạt được".
Trong loại định nghĩa nêu đặc trưng thì có thể gặp ba khuynh hướng lớn:


Khuynh hướng thứ nhất coi văn hóa là những kết quả (sản phẩm) nhất định. Đó có thể là những giá trị,
nhữngtruyền thống, những nếp sống, những chuẩn mực, những tư tưởng, những thiết chế xã hội, những biểu trưng, ký
hiệu, những thông tin... mà một cộng đồng đã sáng tạo, kế thừa, và tích luỹ.
Khuynh hướng thứ hai xem văn hóa như những q trình. Đó có thể là những hoạt động sáng tạo,
những cơng nghệ, những quy trình, những phương thức tồn tại, sinh sống và phát triển, cách thức thích ứng với mơi
trường, phương thức ứng xử của con người...
Khuynh hướng thứ ba xem văn hóa như những quan hệ, những cấu trúc... giữa các giá trị, giữa con

người với đồng loại và mn lồi.
Tất cả các khuynh hướng định nghĩa khác nhau ấy đều có hạt nhân hợp lý của mình, sự khác biệt
giữa chúng chủ yếu là do các tác giả đã quá nhấn mạnh vào khía cạnh này hay khía cạnh khác của khái
niệm mà thôi. Dù theo khuynh hướng nào, mọi định nghĩa văn hóa đều chứa một nét nghĩa chung là "con
người", đều thừa nhận và khẳng định mối liên hệ mật thiết giữa văn hóa với con người.

VĂN HĨA VÀ CON NGƢỜI
Văn hóa và con người là hai khái niệm khơng tách rời nhau. Con người xuất hiện từ lúc nào thì văn
hóa xuất hiện từ lúc ấy.
Con người là chủ thể sáng tạo ra văn hóa. Trong suốt lịch sử hình thành và phát triển của mình, con
người ln sáng tạo không ngừng để làm nên các giá trị văn hóa. Một trong số những giá trị văn
hóa được con người sáng tạo ra ấy chính là bản thân con người - con người có văn hóa. Con người
sáng tạo ra văn hóa, đồng thời chính con người cũng là sản phẩm của văn hóa.
Với tư cách là sản phẩm của văn hóa, con người là một vật mang văn hóa tiêu biểu. Các giá trị văn hóa
vật chất có thể mất đi, nhưng nếu con người - vật mang văn hóa cịn thì nền văn hóa vẫn tiếp tục tồn tại
và phát triển. Trong một ngàn năm Bắc thuộc và 20 năm quân Minh xâm lược, kẻ thù đã chủ ý tàn phá
một cách không thương tiếc các giá trị văn hóa Việt Nam vĩ đại được tạo nên vào các giai đoạn Văn Lang
- Âu Lạc và Lý-Trần, hịng xóa khỏi ký ức người Việt Nam mọi dấu vết của một nền văn minh rực rỡ[3][3].
Chùa Diên Hựu vừa độc đáo vừa kỳ vĩ với hồ vuông ở trong và hồ trịn Linh Chiểu ở ngồi dựng năm
1049, với quả chuông đồng nặng vài vạn cân đúc năm 1101 (đúc rồi không treo lên được), qua biết bao
lần tàn phá, các đời sau mỗi lần làm lại mỗi thu nhỏ và giản lược bớt đi, đến nay chỉ cịn là một mơ hình
nhỏ bé (mà ta quen gọi là "chùa Một Cột") gây cho du khách biết mấy ngạc nhiên về sự thiếu tương xứng
của nó với tầm vóc của văn hóa dân tộc. Mặc dù vậy, như ta đã thấy, nhờ có con người Việt Nam mà
đến nay văn hóa Việt Nam vẫn trường tồn cùng năm tháng.
Trong lịch sử nhân loại, những giá trị văn hóa cơ bản đã tạo nên Con Người, đã làm cho lồi "homo
sapiens" (người thơng minh) trở nên khác biệt hẳn so với các đồng loại của mình trong giới tự nhiên là:
a) Biết tạo ra và sử dụng lửa và cơng cụ lao động (khỉ chỉ có thể sử dụng những cơng cụ thơ sơ có sẵn
nhưđoạn cành cây để chọc quả).
b) Có tiếng nói (ngơn ngữ) để diễn đạt các tư tưởng, tình cảm phong phú của mình (động vật chỉ có
thể phát ra những âm thanh đơn giản thể hiện những thông báo riêng lẻ như "nguy hiểm", "có mồi" hoặc

nhại lại vài ba từ mà khơng hiểu nghĩa).
c) Có khả năng chế ngự bản thân mình bằng hệ thống kiêng kỵ, luật pháp... (chó, mèo chỉ có thể biết
kiềm chế có mức độ nhờ phản xạ có điều kiện, chẳng thế mà tục ngữ Việt Nam có câu: "Chó treo mèo
đậy").
d) Biết tạo ra các nhóm xã hội (từ những nhóm nhỏ cho đến quốc gia...) mà trong đó con người ý thức
được ý nghĩa của nó (động vật chỉ tập hợp thành bầy đàn một cách tự phát theo bản năng).
Trong bốn loại giá trị đó thì lao động và ngơn ngữ là hai loại giá trị quan trọng nhất.
Đối với từng cá nhân, vai trò của văn hóa lại càng rõ. Văn hóa là cái mơi trường có sẵn mà đứa trẻ
sau khi lọt lịng mẹ được "nhúng" vào. Nếu sau khi ra đời, đứa trẻ bị ném vào rừng, bị bứt khỏi cái nôi
văn hóa, nó sẽ lớn lên như một con thú. Chỉ có sống trong mơi trường văn hóa, nó mới trở thành Người.
Tuỳ thuộc vào chỗ được "nhúng" vào môi trường văn hóa nào, ở đứa bé sẽ hình thành nhân cách văn
hóa ấy. Một đứa trẻ do một bà mẹ Việt Nam sinh ra và được lớn lên ở Việt Nam, nó sẽ mang trong mình
dịng máu văn hóa Việt Nam; nhưng nếu lại được nuôi dưỡng và lớn lên trong một gia đình Mỹ ở Mỹ, nó
sẽ trở thành người Mỹ.
Trên phương diện con người, những "sản phẩm" văn hóa tiêu biểu nhất là các danh nhân. Họ ln
xuất hiện ở mọi dân tộc, mọi thời đại. Các danh nhân văn hóa là những đại diện xuất sắc nhất cho nền
văn hóa của dân tộc mình, trong thời đại của mình; đồng thời, họ cũng là những người góp phần quan
trọng nhất vào việc phát triển, nâng nền văn hóa của dân tộc mình lên một tầm cao mới. Trong lịch sử
Việt Nam, Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh... từng là những con người như thế.


sinh

Mối quan hệ mật thiết giữa văn hóa với con người, với cuộc sống của con người chỉ ra tính
của nó.

nhân

VĂN HĨA VÀ XÃ HỘI
Như đã nói, một trong những giá trị văn hóa cơ bản đã tạo nên Con Người, đã làm cho loài "homo

sapiens" trở nên khác biệt hẳn so với các đồng loại của mình trong giới tự nhiên là khả năng tạo ra
các nhóm xã hội mà trong đó con người ý thức được ý nghĩa của nó. Trong khi động vật chỉ mới biết tập
hợp thành bầy đàn một cách tự phát theo bản năng thì con người biết tập hợp lại thành thị tộc, bộ lạc,
làng xã, đô thị, dân tộc, quốc gia, khu vực...
Văn hóa tạo nên các nhóm xã hội đó và, đến lượt mình, các nhóm xã hội đó đã tác động mạnh mẽ
tới sự bảo tồn và phát triển của văn hóa. Nhóm xã hội (subculture) nào cũng đồng thời góp phần vừa bảo
tồn vừa phát triển văn hóa của mình, song tuỳ theo tính chất của từng loại nhóm xã hội mà vai trò của
chúng trong việc bảo tồn và phát triển văn hóa có khác nhau.
Các nhóm xã hội nào có tính đồng nhất cao thì khả năng bảo tồn tốt, cịn nhóm xã hội nào có tính đa
dạng cao thì khả năng phát triển tốt.
Thị tộc có tính đồng nhất cao hơn bộ lạc (do cùng huyết thống), làng xã có tính đồng nhất cao
hơn đơ thị, dân tộc có tính đồng nhất cao hơn quốc gia..., chính bởi vậy mà thị tộc, làng xã, dân tộc có
khả năng bảo tồn văn hóa tốt hơn; ngược lại, bộ lạc, đơ thị, quốc gia có khả năng phát triển văn hóa
nhanh hơn. Trong nội bộ cộng đồng thì tính đồng nhất cao hơn, cịn trong quan hệ với các cộng đồng
khác thì tính đa dạng cao hơn, bởi vậy mà tổ chức cộng đồng có chức năng bảo tồn văn hóa tốt hơn, cịn
việc giao lưu với các dân tộc khác, các nền văn hóa khác có khả năng nhanh chóng làm giàu thêm nền
văn hóa của mình.
Trên thế giới, đâu đâu con người cũng tiến đến những tổ chức xã hội tương đồng, nhưng mỗi cộng
đồng dân tộc lại có những nét đặc thù riêng trong cách tổ chức của mình. Các cộng đồng làm nơng
nghiệp khép kín hơn, có tính đồng nhất cao hơn nên các nền văn hóa nơng nghiệp bền vững hơn, cũng
có nghĩa là trì trệ hơn; cịn các cộng đồng sống bằng chăn ni, bn bán, sản xuất cơng nghiệp... thì
quan hệ giao lưu rộng hơn, do vậy dễ thay đổi hơn, phát triển nhanh hơn, dễ đồng hóa kẻ khác và cũng
dễ bị kẻ khác đồng hóa.
Liên quan đến mối quan hệ giữa văn hóa và xã hội cịn là hàng loạt vấn đề thu hút sự quan tâm của
dư luận như tính cách dân tộc, vai trị của nhà nước đối với văn hóa, văn hóa đại chúng (culture
populaire, culture de masse) và văn hóa thượng lưu (grande culture, culture de élite)...

VĂN HĨA VÀ TỰ NHIÊN
Quan hệ văn hóa với con người và xã hội là một phần của quan hệ bộ ba "con người - văn hóa - tự
nhiên". Trong quan hệ giữa văn hóa và tự nhiên, tự nhiên là cái có trước, tự nhiên quy định văn hóa. Văn

hóa thường được định nghĩa như một "tự nhiên thứ hai".
Khơng có tự nhiên sẽ chẳng có văn hóa. Điều này đúng vì hai lẽ.
Thứ nhất, tự nhiên tạo nên con người; con người, đến lượt mình, lao động khơng ngừng để tạo nên
văn hóa; như vậy, văn hóa là sản phẩm trực tiếp của con người và sản phẩm gián tiếp của tự nhiên. Văn
hóa là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người.
Thứ hai, trong quá trình sáng tạo văn hóa, con người vẫn phải sử dụng các tài nguyên phong phú
của tự nhiên và năng lực tự nhiên tiềm tàng của chính mình. Các giá trị văn hóa khơng thể tồn tại được
nếu khơng có tự nhiên làm mơi trường và chất liệu cho nó: mọi sản phẩm vật chất đều chế tạo từ các vật
liệu tự nhiên hoặc có nguồn gốc từ tự nhiên, và mọi sản phẩm tinh thần đều không thể tồn tại ngoài bộ
não là cái vật chất tự nhiên sinh ra chúng.
Ranh giới giữa văn hóa và tự nhiên khơng phải lúc nào cũng rõ ràng, dễ thấy. Ngay cái cây trồng
ngồi vườn, con vật ni trong nhà... thoạt nhìn cứ tưởng là những đối tượng tự nhiên thuần tuý, ấy thế
nhưng chúng thuộc về văn hóa đấy: chúng là những động thực vật đã được con người thuần dưỡng,
nuôi nấng, chăm sóc. Con người ln quan tâm đến chúng và, ngược lại, chúng không thờ ơ với con
người: "người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ" (Nguyễn Du). Một ngọn núi, một dịng sơng, một tảng đá tự nhiên thuần tuý đấy, nhưng một khi được con người biết đến, đặt tên cho: núi này là "Hàm Rồng", vịnh
này là "Hạ Long", đá kia là "hòn Vọng Phu"... - tất cả bỗng có linh hồn, bỗng trở thành sống động, thân
thương, tất cả đã trở thành văn hóa!
Nói như vậy khơng có nghĩa là ranh giới giữa văn hóa và tự nhiên đã bị xóa nhịa. Tuỳ theo mức độ
tỷ lệ "chất văn hóa" / "chất tự nhiên" trong mỗi đối tượng mà ta có thể nói rằng đối tượng này thuộc về tự
nhiên, còn đối tượng kia thuộc về văn hóa: Vịnh Hạ Long tuy có được con người đặt cho một cái tên, gắn


cho một truyền thuyết, nhưng nếu khơng có cái chất văn hóa đó thì tự thân thiên nhiên nơi đây cũng đã
là một cảnh đẹp phi thường và là một khu vực địa chất có giá trị rồi - do vậy vịnh Hạ Long là một di sản
tự nhiên. Kinh thành Huế thì khác: tuy được xây dựng từ các vật liệu tự nhiên, trong một khung cảnh tự
nhiên, nhưng nếu khơng có sự sáng tạo của những kiến trúc sư và những người thợ tài ba thì đất đá đó
chỉ là những vật liệu tự nhiên thơng thường, khung cảnh đó chỉ là một vùng đồi núi thơng thường - vậy thì
kinh thành Huế thuộc về văn hóa.
Văn hóa và tự nhiên khác nhau nhưng chúng không đối lập với nhau mà tồn tại trong mối liên hệ
mật thiết với nhau thông qua con người và hoạt động của con người. Khơng có tự nhiên sẽ chẳng có văn

hóa, nhưng mặt khác, nếu thiếu văn hóa thì ta khơng thể có được những hình ảnh của tự nhiên đa dạng
và phong phú như ta vẫn có. Trước khi có nhận thức khoa học và bên cạnh nhận thức khoa học, tự
nhiên luôn được con người tiếp nhận thông qua lăng kính văn hóa, được chuyển đổi thành dạng văn
hóa: "ngôi sao" trên bầu trời được người Việt nhận thức không phải như một hành tinh, mà là như một
vật thể nhiều cánh phát sáng; "con dơi" được người Nga nhận thức như một con chuột biết bay (ëåịó÷àÿ
ìûøü); quả dưa hấu đối với người Nam Bộ là thứ trái cây ruột đỏ, tượng trưng cho sự may mắn (nên
được thờ vào dịp tết), cịn đối với người Anh thì đó là thứ dưa nhiều nước (water-melon)... Tự nhiên tồn
tại trong nhận thức của con người dưới dạng những biểu trưng (biểu trưng - khái niệm, biểu trưng - từ
ngữ...) do văn hóa tạo ra. Tính biểu trưng là một đặc điểm quan trọng của văn hóa.

VĂN HĨA VÀ HOẠT ĐỘNG
Khơng chỉ có con người và tự nhiên được biến đổi bởi con người thuộc về văn hóa, mà bản thân
hoạt động, phương thức hoạt động, công nghệ hoạt động của con người để tạo ra các sản phẩm ấy cũng
thuộc về văn hóa. Hoạt động là mắt xích nằm giữa con người với tự nhiên và xã hội: hoạt động tạo ra
văn hóa, và bản thân hoạt động cũng là văn hóa.
Song khơng phải mọi loại hoạt động đều có tính chất này.
Ở các lồi sinh vật cư trú trên trái đất có hai loại hoạt động: hoạt động sinh học - bản năng và hoạt
động xã hội - sáng tạo.
Hoạt động sinh học - bản năng là loại hoạt động đặc thù cho động vật, nó tuân theo những khn
mẫu mà động vật có được một cách bẩm sinh nhờ di truyền, thông thường phù hợp một cách chặt chẽ
với điều kiện tự nhiên xung quanh tại một địa bàn nhất định. Song, khơng nên vì thế mà nghĩ rằng hoạt
động sinh học - bản năng là loại hoạt động giản đơn. Trải qua hàng triệu năm chọn lọc tự nhiên trên
cơ sở sự tương tác với nhau và với môi trường, cơ chế hoạt động của động vật đã trở nên rất tinh tế và
phức tạp.
Chẳng hạn, ta đều biết rằng loài dơi hoạt động trong đêm tối, chúng nhận biết được con mồi nhờ
các sóng siêu âm; gần đây người ta đã phát hiện ra rằng ở một số loại côn trùng (một loại bướm) đã hình
thành một cơ chế phức tạp nhiều tầng bậc cho phép không chỉ nhận biết được sự va chạm của sóng siêu
âm mà cịn gây nhiễu khiến cho dơi lâm thời bị mất khả năng định hướng trong không gian. Thế nhưng
cái năng lực "chống siêu âm" ấy của loài bướm khơng phải trong chốc lát mà có được - đó là kết quả của
những q trình thích nghi và biến đổi lâu dài hàng chục vạn năm, hàng triệu năm.

Nhiều lồi sinh vật có thể làm một số việc giống như con người và tạo ra những sản phẩm giống
như văn hóa: hoa nắp ấm bắt mồi bằng cách đậy nắp xuống tạo thành cái bẫy không thua kém cái bẫy
tinh vi của con người; cây xấu hổ biết cụp lá lại mỗi khi đụng chạm; loài ong biết xây dựng những cái tổ
với độ chính xác và tinh tế không thua kém những kiến trúc sư tài giỏi; loài kiến biết hợp tác với nhau để
nâng và di chuyển những con mồi nặng hơn bản thân chúng nhiều lần; con nhện biết dệt nên cái lưới
(mạng nhện) để bắt mồi; con vẹt biết nói; con khỉ biết bắt chước... Thế nhưng, hoa nắp ấm chỉ biết đậy
nắp xuống chứ không biết cụp lá lại, và chỉ biết bắt mồi bằng đúng một cách ấy; con nhện chỉ biết dệt
lưới chứ không biết xây tổ, và chỉ biết dệt lưới theo đúng một mẫu mà thơi... Nói khác đi, sinh vật chỉ có
thể thực hiện những hoạt động đã được lập trình sẵn trong bản năng di truyền của chúng.
Ngược lại, con người là một loài động vật cao cấp hồn hảo, nó khơng bị giới hạn bởi khơng gian
cư trú mà có thể tồn tại ở bất cứ nơi nào trên trái đất; trong một thời gian ngắn, nó có thể học hỏi và tiếp
thu bất cứ loại hoạt động phức tạp nào. Bên cạnh những chương trình được lập sẵn có trong bản năng,
con người cịn vừa có thể tự lập trình, vừa có thể hành động một cách linh hoạt và sáng tạo không theo
bất kỳ một chương trình nào. Con người có thể hoạt động một cách tự do vượt qua khỏi cái giới hạn bản năng do
tự nhiên quy định. Những hoạt động sáng tạo này chỉ có thể củng cố và phát triển trong môi trường xã
hội, trong sự giao tiếp thường xuyên với đồng loại. Đó là hoạt động xã hội - sáng tạo. Chỉ có loại hoạt động
này của con người mới có khả năng tạo ra văn hóa và là văn hóa.


Đến lượt mình, trong số các hoạt động xã hội - sáng tạo của con người, chỉ có những hoạt động
mang tínhnhân bản, vì lợi ích của con người, mới tạo ra văn hóa và là văn hóa[4][4]. Những hoạt động
như trộm cướp, tham nhũng..., hoạt động của những người như Hitler... khơng những khơng tạo ra văn
hóa và khơng phải là văn hóa, mà cịn làm cho văn hóa tổn hại nặng nề - đó là những hoạt động phản
văn hóa, kéo lùi bánh xe lịch sử của nhân loại.

VĂN HĨA VÀ GIÁ TRỊ
Đến đây, khái niệm "văn hóa" kéo theo khái niệm "giá trị, tính giá trị". Khơng phải mọi cái do con người
sáng tạo ra đều là văn hóa, mà chỉ có những gì có giá trị mới thuộc về văn hóa. Trong từ "văn hóa" thì,
trong truyền thống phương Đông,"văn" là khái niệm đối lập với "võ", "văn" có nghĩa là "vẻ đẹp", là giá trị;
văn hóa có nghĩa là "trở thành đẹp, thành có giá trị". Văn hóa chỉ chứa cái đẹp, chứa các giá trị. Nó là

thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người.
Quan niệm coi văn hóa là giá trị đôi khi chỉ được xem như một trong những khuynh hướng định
nghĩa về văn hóa; nói đến giá trị văn hóa, người ta thường nghĩ ngay đến những sản phẩm (vật chất
hoặc tinh thần).
Thực ra, "giá trị" là một khái niệm có ngoại diên khá rộng. Giá trị là kết quả thẩm định dương tính đối
tượng trên các thang độ "lợi-hại" (giá trị sử dụng), "tốt-xấu" (giá trị đạo đức), "đẹp-xấu" (giá trị thẩm mĩ).
Giá trị sử dụng có thể cụ thể hóa bằng các thang độ như giàu-nghèo (phú), sang-hèn (q), sống lâu chết sớm (thọ), khơn-dại (trí)... Giá trị đạo đức có thể cụ thể hóa bằng các phạm trù như trung, hiếu, thảo,
hiền, nhân, lễ, nghĩa... Giá trị thẩm mỹ có thể cụ thể hóa bằng các thang độ như đẹp-xấu, hay-dở, thíchchê... Như thế, khơng chỉ các đồ vật, sách vở, tác phẩm nghệ thuật mới là giá trị, mà cả truyền thống, nếp
sống, chuẩn mực, tư tưởng, thiết chế xã hội, biểu trưng, thông tin... đều là giá trị. Không chỉ các sản phẩm vật chất /
tinh thần mới là giá trị, mà cả các hoạt động, cơng nghệ, quy trình,phương thức, quan hệ... đều có thể xác định
như các giá trị.
Lại có ý kiến cho rằng coi văn hóa là giá trị là đã thu hẹp giới hạn của nó, loại ra ngồi phạm vi xem
xét các hiện tượng như tội ác, bất công, nô lệ, maphia, v.v., cho nên, đối lập với cách tiếp cận giá trị học,
người ta nêu ra cách tiếp cận nhân loại học. Nhưng nói như vậy thực ra là chưa hiểu hết cái tinh tế của
khái niệm "giá trị".
"Giá trị" là khái niệm có độ bao quát rất lớn bởi nó mang tính tương đối. Chủ nghĩa Mác coi giá trị là
hiện tượng xã hội đặc thù, là một số biểu hiện của các quan hệ xã hội và của mặt tiêu chuẩn đánh giá
trong ý thức xã hội. Mặt tiêu chuẩn đánh giá của ý thức xã hội phản ánh tính chất thế giới quan của ý
thức đó, nhưng khơng vạch ra một cách đầy đủ thế giới quan ấy. Nói cách khác, khơng nên quy thế giới
quan vào một quan điểm giá trị nào.
Giá trị phụ thuộc vào không gian: cùng một đối tượng - chẳng hạn như nước mắm - có giá trị ở Việt
Nam nhưng khơng có giá trị ở phương Tây. Nó phụ thuộc vào thời gian: cùng một hiện tượng - chẳng
hạn như chế độ phong kiến - có giá trị vào thời xưa nhưng khơng có giá trị vào thời nay. Nó cịn phụ
thuộc vào chủ thể định giá: cùng một việc - chẳng hạn như sự kiện NATO đưa quân vào Nam Tư - được
một số người này (những người gây ra) coi là hành động "bảo vệ nhân quyền", nhưng đối với nhiều
người khác thì đó lại là sự can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của một quốc gia có chủ quyền.
Tuy nhiên, nói vậy khơng có nghĩa là "ba phải". Tính tương đối của khái niệm "giá trị" đòi hỏi ta khi
xem xét một sự vật, hiện tượng, hoạt động... phải luôn luôn đặt nó vào bối cảnh "khơng gian - thời gian chủ thể" cụ thể. Không thể đánh giá, chẳng hạn, một phong tục hoặc tập quán của người Việt Nam bằng
con mắt của người nước ngồi, khơng thể đánh giá một phong tục tập quán của thời xưa đơn thuần
bằng con mắt của người thời nay... Tính giá trị cho phép phân biệt văn hóa với hậu quả của nó hoặc

những hiện tượng phi văn hóa, phản văn hóa; loại ra những cách hiểu quá rộng, quy về văn hóa mọi
hoạt động của con người.
Tính tương đối của khái niệm "giá trị" còn cho phép ta phân biệt các giá trị theo thời gian thành giá
trị vĩnh cửu và giá trị nhất thời. Trong các giá trị nhất thời lại có thể phân biệt giá trị đã lỗi thời, giá trị hiện
hành và giá trị đang hình thành. Sự phân biệt các loại giá trị theo thời gian cho phép ta có được cái nhìn
biện chứng và khách quan trong việc đánh giá tính giá trị của sự vật, hiện tượng; tránh được những xu
hướng cực đoan - phủ nhận sạch trơn hoặc tán dương hết lời.
Nhờ vậy mà, về mặt đồng đại, cùng một hiện tượng có thể có giá trị nhiều hay ít tùy theo góc nhìn,
theo bình diện được xem xét. Chẳng hạn, ơ-tơ, máy bay, cơng trình thủy điện... trong khi đem lại lợi ích rõ
rệt cho con người thì đồng thời cũng làm ơ nhiễm mơi trường, mất cân bằng sinh thái... (có phần phi giá
trị!). Ngược lại, ngay cả việc chửi nhau hoặc chiến tranh cũng thuộc số những biện pháp giải quyết xung
đột, tuy rằng với những mức xấu khác nhau (có phần giá trị!). Muốn kết luận một hiện tượng, sự vật có


thuộc phạm trù văn hóa hay khơng phải xem xét mối tương quan giữa mức độ "giá trị" và "phi giá trị"
trong chúng.
Về mặt lịch đại, cùng một hiện tượng vào những thời điểm lịch sử khác nhau sẽ có thể có hay khơng
có giá trị tùy thuộc vào chuẩn mực văn hóa của từng giai đoạn. Chẳng hạn, chế độ chiếm hữu nơ lệ với
tính dã man của nó quen được xem là phi giá trị. Song, chính F. Engels trong "Chống Đuyrinh" đã từng
nói rằng "nếu khơng có chế độ nơ lệ cổ đại thì khơng thể có chủ nghĩa xã hội hiện đại", bởi lẽ nhờ nó tạo
ra sự phân công lao động trên một quy mô rộng lớn mà nền văn minh Hi Lạp được hình thành. Mà như F. Engels giải thích - "nếu khơng có cơ sở văn minh Hi Lạp và đế quốc La Mã thì khơng thể có châu
Âu hiện đại được". Áp dụng vào Việt Nam, việc đánh giá chế độ phong kiến, vai trò của Nho giáo, triều
đại nhà Hồ, nhà Nguyễn... đều đòi hỏi một tư duy biện chứng như thế. Bởi vậy, không thể áp đặt một
quan niệm về phẩm chất của giá trị cho mọi không gian, mọi thời gian.

VĂN HÓA VẬT CHẤT VÀ VĂN HÓA TINH THẦN
Con người có hai loại nhu cầu cơ bản là nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần, do vậy, con người
cũng có hailoại hoạt động cơ bản là sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần. Từ đó, văn hóa như một hệ
thống thường được chia làm hai dạng: văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.
Văn hóa vật chất bao gồm tồn bộ những sản phẩm do hoạt động sản xuất vật chất của con người

tạo ra: đồ ăn, đồ mặc, nhà cửa, đồ dùng sinh hoạt hàng ngày, công cụ sản xuất, phương tiện đi lại...
Văn hóa tinh thần bao gồm tồn bộ những sản phẩm do hoạt động sản xuất tinh thần của con người
tạo ra: tưtưởng, tín ngưỡng - tơn giáo, nghệ thuật, lễ hội, phong tục, đạo đức, ngôn ngữ, văn chương...
Sự phân chia này mới nhìn tưởng như khá rõ ràng và hiển nhiên, song nhìn kỹ sẽ thấy xuất hiện
hàng loạt trường hợp phức tạp. Ví dụ: các dạng hoạt động, các quan hệ sản xuất... xếp vào dạng văn
hóa vật chất hay tinh thần? Khơng ít các vật dụng sinh hoạt hàng ngày (= vật chất) lại có giá trị nghệ
thuật rất cao (= tinh thần), ví dụ nhưcái mi múc canh thời Đơng Sơn có gắn tượng người ngồi thổi
khèn, chiếc ngai vàng được chạm trổ công phu; ngược lại, các sản phẩm tinh thần thường tồn tại dưới
dạng đã được vật chất hóa, ví dụ như pho tượng, quyển sách.
Trong thực tế, văn hóa vật chất và tinh thần ln gắn bó mật thiết với nhau và có thể chuyển hóa
cho nhau: khơng phải ngẫu nhiên mà K.Marx nói rằng "Tư tưởng sẽ trở thành những lực lượng vật chất
khi nó được quần chúng hiểu rõ". Bởi vậy mà tuỳ theo những mục đích khác nhau, việc phân biệt
văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần sẽ phải dựa vào những tiêu chí khác nhau.
Với mục đích thực tế là phân loại các đối tượng văn hóa thì việc phân biệt văn hóa vật chất và tinh
thần chỉ có thể thực hiện một cách tương đối căn cứ vào "mức độ" vật chất / tinh thần của đối tượng văn
hóa. Trong trường hợp này, có thể dùng khái niệm "mục đích sử dụng" làm tiêu chí bổ trợ: những sản
phẩm làm ra trước hết để phục vụ cho các nhu cầu vật chất thì, dù có giá trị nghệ thuật cao đến mấy
(như cái mi thời Đơng Sơn có gắn tượng người ngồi thổi khèn dùng để múc canh, chiếc ngai vàng
được chạm trổ công phu dùng cho vua ngồi thiết triều) vẫn thuộc dạng văn hóa vật chất; cịn những sản
phẩm làm ra trước hết để phục vụ cho các nhu cầu tinh thần thì, dù được vật chất hóa (như pho tượng,
quyển sách mua về để trưng, để đọc), chúng vẫn thuộc dạng văn hóa tinh thần.
Cịn với mục đích phân loại các giá trị, làm rõ bản chất của chúng, đưa ra một bức tranh khoa học
về văn hóa vật chất và tinh thần thì có thể dựa hẳn vào chất liệu để phân biệt: theo đó, văn hóa vật chất
liên quan đến sự biến đổi mang tính sáng tạo thiên nhiên quanh mình thành những sản phẩm có dạng
chất liệu vật thể; cịn văn hóa tinh thần thì chỉ liên quan đến sự biến đổi thế giới bên trong, thế giới tâm
hồn của con người, sản phẩm của nó là tư tưởng thuần tuý, "phi vật thể". Với cách này, cùng một đối
tượng có thể vừa có phần giá trị vật chất, vừa có phần giá trị tinh thần của nó.
Riêng về các hoạt động thì, thơng thường, người ta xếp hoạt động sản xuất vật chất vào dạng
văn hóa vật chất (vì loại hoạt động này phải sử dụng nhiều năng lực cơ bắp, mồ hơi...), cịn hoạt động
sản xuất tinh thần được xếp vào văn hóa tinh thần (vì loại hoạt động này chủ yếu sử dụng năng lực trí

tuệ).

VĂN HĨA VÀ HỆ THỐNG
Nếu mọi giá trị văn hóa đều phải xếp vào loại văn hóa vật chất hay tinh thần thì các loại hoạt động
có thể được phân đơi như vừa xét; tuy nhiên, như đã nói, hoạt động là mắt xích nằm giữa con người với
tự nhiên và xã hội, cho nên tự thân mình thì, dù là sản xuất vật chất hay tinh thần, mọi hoạt động đều
mang tính phi vật thể. Bởi vậy, đứng dưới góc độ chất liệu triệt để thì phải nói rằng con người và các sản
phẩm vật chất là những giá trị văn hóa vật thể, cịn hoạt động và các loại sản phẩm tinh thần thuộc loại
giá trị văn hóa phi vật thể.


Các sản phẩm, dù là vật chất hay tinh thần, một khi đã hình thành, đều mang tính ổn định nhất định,
cịn con người và hoạt động của nó thì có tính biến động cao hơn. Xét theo mức độ tĩnh/động thì ta có
cấp hệ các giá trị với độ động tăng dần như sau: sản phẩm vật chất < sản phẩm tinh thần < con người <
hoạt động (dấu "<" đọc là "tĩnh hơn").
Như vậy, các giá trị văn hóa có thể chia làm bốn loại: con người, hoạt động, sản phẩm vật chất, sản
phẩm tinh thần. Bốn loại giá trị văn hóa đó có thể xem xét theo ba phương diện: tĩnh / động; văn hóa vật
chất / văn hóa tinh thần; văn hóa vật thể / văn hóa phi vật thể. Mối quan hệ giữa các loại giá trị văn
hóa đó có thể trình bày trong bảng 1.

VĂN HÓA
VẬT THỂ

VĂN HÓA PHI
VẬT THỂ

TĨNH
Sản phẩm vật chất
(đồ vật, tiện nghi...)
Sản phẩm tinh thần

(tưtưởng,
khoa học,
nghệ thuật...)

ĐỘNG
Con người (chủ thể sáng tạo &
vật mang văn hóa)

Hoạt
động

Hoạt động tạo sản
phẩm vật chất
Hoạt động tạo sản
phẩm tinh thần

VĂN HÓA
VẬT CHẤT

VĂN HÓA
TINHTHẦN

Bảng 1: Các loại giá trị văn hóa
Bức tranh vừa nêu cho thấy rõ rằng mọi giá trị văn hóa đều có liên quan mật thiết với nhau, tạo
thành một hệ thống chặt chẽ. Văn hóa là một khái niệm mang tính hệ thống. Nhược điểm lớn nhất của
nhiều định nghĩa văn hóa lâu nay là ở chỗ coi văn hóa như một phép cộng đơn thuần của những tri thức
bộ phận. E.B. Taylor (1871) định nghĩa văn hóa như một "phức hợp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ
thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, cũng như mọi khả năng và thói quen khác...". Định nghĩa văn hóa
trong các loại từ điển, các cơng trình nghiên cứu... thường mở đầu bằng câu: "Văn hóa là một tập
hợp (hoặc phức hợp) của các giá trị...". Quan niệm cảm tính này là sản phẩm của lịch sử, của thời kì chia

tách các khoa học - khi mà văn hóa chưa được coi là đối tượng của một khoa học độc lập.
Với tư cách là một khoa học lí luận, văn hóa học có nhiệm vụ nghiên cứu văn hóa như một đối tượng
riêng biệt trên cơ sở những tư liệu do các ngành khác (dân tộc học, sử học, ngôn ngữ học, tôn giáo
học...) cung cấp với mục đích phát hiện các đặc trưng, những quy luật hình thành và phát triển. Nghiên
cứu văn hóa dân tộc theo lối này khơng chỉ là tìm hiểu "Cái gì?", mà chủ yếu là tìm hiểu "Tại sao ?" và
"Như thế nào?" Nhờ đi vào bề sâu, tìm những mối liên hệ có tính bản chất giữa các sự kiện, văn hóa học
sẽ cho phép ta, chẳng hạn, nếu biết được một dân tộc sống ở đâu, ăn như thế nào, có thể nói được rằng
dân tộc đó mặc và ở ra sao, suy nghĩ và ứng xử như thế nào... Từ đó, người đọc có thể suy ngẫm và lí
giải các tư liệu văn hóa mà anh ta bắt gặp.

VĂN HÓA VÀ VĂN MINH
Để làm rõ khái niệm "văn hóa", cần phải phân biệt nó với một khái niệm có liên quan mật thiết là
"văn minh" (civilization, civilisation). Lâu nay, khơng ít người vẫn sử dụng "văn minh" như một từ đồng
nghĩa với "văn hóa". Thực ra, như viện sĩ D. Likhachov (1990) từng nhận xét, "đây là những khái niệm
gần gũi, có liên quan mật thiết với nhau, song khơng đồng nhất. Văn hóa giàu tính nhân bản, nó hướng
tới những giá trị mn thuở; trong khi đó thì văn minh hướng tới sự hợp lí, sắp đặt cuộc sống sao cho
tiện lợi". Nói đến văn minh, người ta chủ yếu nghĩ đến các tiện nghi vật chất. Như vậy, văn hóa và văn
minh khác nhau trước hết là ở tính giá trị: trong khi văn hóa là một khái niệm bao trùm, chứa cả các giá
trị vật chất lẫn tinh thần, thì văn minh thiên về các giá trị vật chất - kỹ thuật mà thôi.
Tuy nhiên, nếu chỉ xét trên phương diện tính giá trị thì "văn minh" khá gần với một khái niệm đặc thù
của truyền thống Việt Nam và phương Đông là "văn vật". Các từ điển tiếng Việt thường định nghĩa văn
vật là "truyền thống văn hóa biểu hiện ở nhiều nhân tài và nhiều di tích lịch sử", "cơng trình, hiện vật có
giá trị nghệ thuật và lịch sử"; còn vănhiến được định nghĩa là "truyền thống văn hóa lâu đời". So sánh các
định nghĩa này, ta thấy "văn hiến" và "văn vật" thực ra chỉ là những khái niệm bộ phận của "văn hóa",
chúng chỉ khác văn hóa ở độ bao quát các giá trị: Văn hiến là văn hóa thiên về "truyền thống lâu đời", mà
truyền thống lâu đời cịn lưu giữ được khơng bị chiến tranh và thời gian hủy hoại chính là các giá trị tinh
thần; còn văn vật là các nhân tài, di tích, cơng trình, hiện vật, tức là văn hóa thiên về các giá trị vật chất.


Chính vì vậy mà ơng cha ta thường nói đất nước 4000 năm văn hiến (chứ khơng nói "văn vật", vì trải qua

4000 năm, phần lớn các giá trị vật chất đã bị tàn phá), nhưng lại nói Hà Nội - Thăng Long ngàn năm văn
vật (vì trong 1000 năm trở lại đây, từ khi Lý Công Uẩn định đô ở Thăng Long, các giá trị vật chất còn lưu
giữ được nhiều).
Văn vật và văn minh tuy cùng thiên về giá trị vật chất, nhưng lại rất khác xa nhau. Sự khác biệt giữa
một bên là văn hóa và văn vật với bên kia là văn minh chính là ở tính lịch sử: Trong khi văn hóa, văn vật
ln ln có bề dày củaq khứ thì văn minh chỉ là một lát cắt đồng đại, nó chỉ cho biết trình độ phát triển của
văn hóa; từ "văn minh" có thể có nhiều cách định nghĩa trong các từ điển khác nhau, song chúng thường
có chung một nét nghĩa là nói đến "trình độ phát triển". Văn minh ln là đặc trưng của một thời đại: nếu
như vào thế kỉ 19, chiếc đầu máy hơi nước đã từng là biểu tượng của văn minh thì sang thế kỉ 20, nó trở
thành biểu tượng của sự lạc hậu, nhường chỗ cho tên lửa vũtrụ và máy vi tính. Một dân tộc mới hình
thành vẫn có thể có trình độ văn minh rất cao trong khi truyền thống văn hóa là rất nghèo nàn; ngược lại,
một dân tộc lạc hậu vẫn có thể có một nền văn hóa lâu đời và phong phú.
Sự khác biệt vừa nêu giữa một bên là văn hóa và văn vật với bên kia là văn minh dẫn đến sự khác
biệt về phạm vi: Văn hóa mang tính dân tộc, bởi lẽ nó có giá trị tinh thần và tính lịch sử, mà cái tinh thần và
tính lịch sử là của riêng, khơng dễ gì mua bán hoặc thay đổi được; cịn văn minh thì có tính quốc tế, nó đặc
trưng cho một khu vực rộng lớn hoặc cả nhân loại, bởi lẽ nó chứa giá trị vật chất, mà cái vật chất thì dễ
phổ biến, lây lan.
Và sự khác biệt thứ tư, về nguồn gốc: Văn hóa gắn bó nhiều hơn với phương Đơng nơng nghiệp, cịn
văn minh gắn bó nhiều hơn với phương Tây đơ thị. Các nền văn hóa cổ đại như văn hóa Lưỡng Hà (Tây
Á), văn hóa sơng Nile (Ai Cập), văn hóa sơng Ấn (Indus, nay thuộc Pakistan), văn hóa sơng Hồng Hà
(Trung Hoa) đều đã hình thành ở phương Đơng từ 2-3 ngàn năm trước cơng ngun. Trong khi đó thì
nền văn hóa phương Tây sớm nhất là văn hóa Hi Lạp - La Mã cũng chỉ mới hình thành từ tk 8 trCN trên
cơ sở tiếp thu những thành tựu của các nền văn hóa phươngĐơng gần nó nhất là Ai Cập và Lưỡng Hà.
Các nền văn hóa phương Đơng đều hình thành ở vùng lưu vực các con sơng lớn là những nơi sản
xuất nông nghiệp. Ở các ngôn ngữ phương Tây, từ "văn hóa" bắt nguồn từ chữ cultura tiếng Latinh có
nghĩa là "trồng trọt". Từ trồng trọt phát triển ra nghĩa chăm sóc (cây cối), từ chăm sóc (cây cối) dẫn đến
nghĩa khái qt là "hồn thiện". Trong một thời gian dài, cultura đi cùng với danh từ nào thì có nghĩa là sự
hồn thiện đối tượng thể hiện bằng danh từ đó (ví dụ: cultura juris = hoàn thiện quy tắc ứng xử, cultura
linguage = hoàn thiện năng lực ngôn ngữ). Mãi cho đến tk 18, cultura mới bắt đầu được dùng độc lập trong
các ngôn ngữ châu Âu với nghĩa là chăm sóc, giáo dục con người (= văn hóa). Trong khi đó thì từ "văn

minh" trong các ngôn ngữ phương Tây đều bắt nguồn từ chữ civitas tiếng Latinh có nghĩa là "thành phố".
Nghĩa gốc này kéo theo mình hàng loạt từ và nghĩa phái sinh trong các ngôn ngữ châu Âu: "thị dân",
"công dân" (civilis)..., từ đó đến civilisation là "làm cho trở thành đô thị", đầy đủ tiện nghi như đô thị (= văn
minh).
VĂN HÓA
VĂN HIẾN
VĂN VẬT
Chứa cả các giá trị vật
Thiên về giá trị
Thiên về giá trị
chất lẫn tinh thần
tinh thần
vật chất
Có b ề d à y l ị c h s ử
Có tính d ân tộc

VĂN MINH
Thiên về giá trị vật chất kĩthuật
Chỉ trình độ phát triển
Có tính quốc tế
Gắn bó nhiều hơn với
Gắn bó nhiều hơn với phương Đơng nông nghiệp
phương Tây đô thị
Bảng 2: So sánh các khái niệm văn hóa, văn minh, văn hiến, văn vật
Như vậy, VĂN MINH (văn = vẻ đẹp, minh = sáng) là khái niệm có nguồn gốc từ phương Tây đơ thị
chỉ ra trình độ phát triển của con người về phương diện vật chất - kĩ thuật và mang tính quốc tế.
Sự phân biệt các khái niệm văn hóa, văn minh, văn hiến, văn vật vừa trình bày được tóm tắt trong
bảng 2.

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VĂN HĨA VÀ VĂN MINH

Từ tự nhiên qua con người, tới văn hóa là cả một quá trình lịch sử.
Giống người đầu tiên xuất hiện cách đây 2 triệu năm (sơ kỳ thời đồ đá cũ) ở Tanzania (Đơng Phi),
do lồi vượn cổ phương Nam (Australopithecus, có mặt ở Hadar, Đơng Phi từ 1 triệu năm trước đó) tiến
hóa thành. Những con người đầu tiên này đã đi bằng hai chân, biết chế tạo các công cụ lao động bằng


đá, lập nên nền văn hóa đá cuội (pebble culture) nổi tiếng, bởi vậy mà họ được các nhà khoa học đặt tên
là homo habillis (người khéo léo).
Phải đợi thêm 1 triệu năm tiếp theo, con người mới biết chế tạo nên những dụng cụ tinh xảo hơn
như rìu cầm tay, cuốc, rựa..., phát hiện ra lửa, sống trong hang, biết sử dụng các tín hiệu và âm thanh
đơn giản, bước đầu săn mồi tập thể và đã đứng thẳng hoàn toàn. Họ được khoa học đặt tên là homo
erectus (người đứng thẳng). Họ có mặt ở cả Đơng Nam Á (Vân Nam, Java) lẫn châu Âu, hình thành nên hai
trung tâm nhân chủng lớn là Phi-Âu và Á-Úc.
Đến đây, con người đã sáng tạo nên những giá trị vật chất cơ bản.
Cách đây 10 vạn năm (trung kỳ thời đồ đá cũ), con người đã thực sự trở thành khôn ngoan (homo
sapiens) khi họ đã sống thành xã hội, biết dựng lều ở, tính tập thể cao đã dẫn đến sự hình thành ngơn ngữ
với lời nói chia thành âm tiết, đã có những nghi thức mai táng với quan niệm về thế giới "bên kia" (tín
ngưỡng).
Cách đây 4 vạn năm (hậu kỳ thời đồ đá cũ), cư dân chủng Australoid từ Đông Nam Á đã di cư tới
Úc. Con người thời này đã tạo nên các bức vẽ hang động, các pho tượng đất sét... và được khoa học gọi
là ngƣời khôn ngoan hiện đại (homo sapiens sapiens).
Đến đây, khơng chỉ tơn giáo tín ngưỡng, mà cả nghệ thuật cũng đã hình thành, và cùng với nghệ
thuật nhưnhững giá trị tinh thần bậc cao, văn hóa đã hồn thiện.
Tiếp theo, cách đây trên dưới 1 vạn năm (thời đồ đá giữa), nghề trồng trọt và chăn nuôi đã xuất hiện
ở nhiều nơi: cư dân Tây Á đã thuần dưỡng lúa mì, cư dân vùng Đơng Nam Á với nền văn hóa Hịa
Bình đã có nghề trồng trọt rau củ, cừu được thuần dưỡng ở vùng Irắc, lợn được thuần dưỡng ở vùng
Thổ Nhĩ Kỳ. Cư dân chủng Mongoloid đã vượt qua eo biển Bering tới cư trú ở châu Mỹ. Khắp các châu
lục đã có người ở.
Cách nay khoảng 8.000 năm (thời đồ đá mới), xuất hiện những thị trấn đầu tiên (Catal Huyuk ở vùng
Thổ Nhĩ Kỳ và Jerico ở vùng Israel). Cách nay khoảng trên 5.000 năm, tức là trên 3.000 năm trCN, chữ

viết hình nêm và bánh xe xuất hiện ở Sumer, chữ tượng hình xuất hiện ở Ai Cập. Vào khoảng 3-2.000
năm trCN, hàng loạt nền văn minh cổđã ra đời ở lưu vực các con sông: văn minh Lưỡng Hà ở lưu vực
sông Tiger và Eufrat, văn minh Ai Cập ở lưu vực sông Nile, văn minh Ấn Độ ở lưu vực sông Indus, văn
minh Trung Hoa ở lưu vực sơng Hồng Hà. Cũng trong khoảng này - 3.500 năm trCN, cây ngô được
trồng ở Mêhicô; 2.000 năm trCN, cây lúa được trồng ở Đơng Nam Á.
Q trình hình thành văn hóa và văn minh được trình bày trong bảng 3.


Bảng 3: Q trình hình thành văn hóa và văn minh

ĐỊNH NGHĨA VĂN HÓA. CÁC ĐẶC TRƢNG VÀ CHỨC NĂNG CỦA VĂN HĨA
Mặc dù văn hóa là một khái niệm có nội hàm hết sức phong phú và phức tạp, với nhiều đặc trưng
(do vậy mà có nhiều cách hiểu, cách định nghĩa khác nhau), ta vẫn có thể thấy ở văn hóa nổi lên bốn đặc
trưng cơ bản nhất là tínhnhân sinh, tính giá trị, tính hệ thống và tính lịch sử - đây là những đặc trưng cần và đủ
cho phép phân biệt văn hóavới những khái niệm có liên quan.
Trên cơ sở bốn đặc trưng này, có thể định nghĩa văn hóa như sau: VĂN HĨA là một hệ thống hữu
cơ các giá trị (vật chất và tinh thần, tĩnh và động, vật thể và phi vật thể...) do con người sáng tạo
ra và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác với mơi trường tự nhiên và xã
hội của mình. Cách định nghĩanày khơng những có khả năng bao qt được khá nhiều cách tiếp cận
khác nhau, cách hiểu khác nhau về văn hóa, mà cịn có thể cho phép ta nhận diện được một hiện tượng
văn hóa và phân biệt nó với những hiện tượng khác khơng phải là văn hóa - từ những hiện tượng phi giá
trị, những giá trị tự nhiên thiên tạo, cho đến những giá trị nhân tạo chưa có tính lịch sử... (xem bảng 4).


Bảng 4: Nhận diện khái niệm văn hóa
Văn hóa có những chức năng nhiệm vụ gì?
Trước hết, văn hóa có chức năng tổ chức. Xã hội loài người được tổ chức theo những cách thức đặc
biệt thành những làng xã, quốc gia, đơ thị, hội đồn, tổ nhóm, v.v. mà giới động vật chưa hề biết tới - đó
là nhờ văn hóa. Làng xã, quốc gia, đơ thị... của mỗi dân tộc lại cũng mỗi khác nhau - cái đó cũng do sự
chi phối của văn hóa. Chính tính hệ thống của văn hóa là cơ sở cho chức năng này.

Thứ hai, văn hóa có chức năng điều chỉnh. Mọi sinh vật đều có khả năng thích nghi với mơi trường
xung quanh bằng cách tự biến đổi mình sao cho phù hợp với tự nhiên qua cơ chế di truyền và chọn lọc
tự nhiên. Con người thì hành xử theo một cách thức hồn tồn khác hẳn: dùng văn hóa để biến đổi tự
nhiên phục vụ cho mình bằng cách tạo ra đồ ăn, quần áo, nhà cửa, vũ khí, máy móc, thuốc men... Tính
giá trị là cơ sở cho chức năng điều chỉnh của văn hóa. Nhờ có chức năng điều chỉnh, văn hóa trở
thành mục tiêu và động lực của sự phát triển trong xã hội loài người.
Thứ ba, văn hóa có chức năng giao tiếp. Một trong những đặc điểm khu biệt con người với động vật
là ở sự hợp quần thành xã hội, mà xã hội khơng thể hình thành và tồn tại được nếu thiếu sự giao tiếp.
Văn hóa tạo ra những điều kiện và phương tiện (như ngôn ngữ và các hệ thống ký hiệu) cho sự giao tiếp
ấy, văn hóa là mơi trường giao tiếp của con người. Đến lượt mình, văn hóa cũng là sản phẩm của giao
tiếp: các sản phẩm của văn hóa thì cịn có thể được tạo ra bằng hoạt động của các cá nhân riêng rẽ chứ
bản thân văn hóa thì chỉ có thể là sản phẩm của hoạt động xã hội mà thơi. Tính nhân sinh là cơ sở cho
chức năng giao tiếp của văn hóa.
Thứ tư, văn hóa có chức năng giáo dục. Văn hóa thực hiện được chức năng giáo dục trước hết là do
nó có năng lực thơng tin hồn hảo. Ở động vật, thơng tin được mã hóa trong cấu trúc tế bào và thần kinh và
truyền đạt bằng con đường di truyền; ngồi ra, ở động vật cao cấp, thơng tin cịn được truyền đạt bằng
cách quan sát và bắt chước hành vi của cha mẹ, công việc này mỗi thế hệ mới lại bắt đầu lại từ đầu.
Trong cả hai trường hợp, từ thế hệ này sang thế hệ khác, lượng thơng tin khơng tăng lên. Con người thì
khơng thế. Nhờ văn hóa, thơng tin được mã hóa bằng những hệ thống ký hiệu tạo thành những sản
phẩm nằm ngoài cá nhân con người, do vậy mà nó được khách quan hóa, được tích luỹ, được nhân bản
và tăng lên nhanh chóng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Sự tích lũy và chuyển giao những giá trị
tương đối ổn định (những kinh nghiệm tập thể) thể hiện dưới những khuôn mẫu xã hội trong cộng đồng
người qua không gian và thời gian và được cố định hóa dưới dạng ngôn ngữ, phong tục, tập quán, nghi
lễ, luật pháp, dư luận... từ thế hệ này sang thế hệ khác tạo nên truyền thống văn hóa trên cơ sở tính lịch sử
của nó chính là chức năng giáo dục của văn hóa. Nhưng văn hóa thực hiện chức năng giáo dục không
chỉ bằng những giá trị đã ổn định (truyền thống), mà cịn bằng cả những giá trị đang hình thành. Các giá
trị đã ổn định và những giá trị đang hình thành tạo thành một hệ thống chuẩn mực mà con người hướng
tới. Nhờ nó mà văn hóa đóng vai trị quyết định trong việc hình thành nhân cách ở con người, trồng
người (dưỡng dục nhân cách), tạo nên nền tảng tinh thần của xã hội. Văn hóa đưa con người gia nhập vào
cộng đồng xã hội; bởi vậy mà có người gọi chức năng này của văn hóa là chức năng xã hội hóa[5][5].

Như một thuộc tính quan trọng bậc nhất, văn hóa chi phối tồn bộ q trình hình thành và phát triển
của con người nói riêng và nhân loại nói chung. Văn hóa tổ chức và điều chỉnh xã hội, giúp con người
giao tiếp và thông tin, văn hóa giáo dục và đưa con người gia nhập vào cộng đồng xã hội. Văn hóa vừa
là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu và động lực phát triển của xã hội xuyên suốt thời gian và
khơng gian. Văn hóa là chất men gắn kết con người lại với nhau.


[1][1] Hồ Chí Minh: Tồn tập. - NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 3, tr. 431.
[2][2] Tạp chí "Người đưa tin UNESCO", số 11-1989, tr. 5.
[3][3] Chỉ dụ của vua Minh Thành Tổ gửi các tướng Chu Năng và Trương Phụ tháng 9 năm 1406 nhắc nhở: "Nhiều lần đã bảo các ngươi rằng phàm An Nam có tất
thảy sách vở văn tự gì, kể cả các câu ca lí dân gian, các sách dạy trẻ, và tất cả các bia mà xứ ấy dựng lên, thì dù một mảnh, một chữ, hễ trông thấy là phải phá
huỷ ngay lập tức, chớ để sót lại".

[4][4] Hoạt động văn hóa của con người có thể chia làm hai dạng: hoạt động tái tạo và sáng tạo (theo nghĩa hẹp). Hoạt động sáng tạo (theo nghĩa hẹp) có tác dụng
làm phát triển vốn văn hóa của dân tộc, của con người: trong lịch sử nhân loại, ta từng biết đến những sáng tạo cực kỳquan trọng như việc phát minh ra lửa, bánh xe,
thuần dưỡng súc vật, sáng chế ra chữ viết, kim la bàn, công nghệ in ấn, v.v. và v.v. Hoạt độngtái tạo tuy không phát triển, nhưng có tác dụng bảo tồn và phổ biến các
giá trị văn hóa. Viết ra một cuốn sách - đó là hoạt động sáng tạo, còn việc in, nhân bản cuốn sách ấy - đó là hoạt động tái tạo.

[5][5] Ngồi những chức năng cơ bản trên, cịn có thể nói đến các chức năng khác của văn hóa như chức năng nhận thức, chức năng thẩm mỹ, chức năng giải trí,
v.v.


BẢN CHẤT CỦA VĂN HÓA
DAVID HICKS - MARGAZET A. GWYNNE
Diễn dịch văn hóa
Đây là một nhiệm vụ khó khăn và khơng có kết thúc đối với cơng việc điền dã. Về nhà, người đi
điền dã phải diễn dịch tài liệu đã thu thập được, bằng cách nào đó khiến cho văn hố đã khảo sát, được
các thành viên của chính nền văn hoá này hiểu thấu. Trong nhân học, việc cố gắng giải thích nền văn
hố khác, có khi được gọi là diễn dịch văn hoá , khi nhà nhân loại học phải diễn dịch tư tưởng, giá trị,
biểu tượng và cơ chế của một nền văn hoá cho các thành viên của một nền văn hố khác.


Sẽ khơng đơn giản việc trình bày những sự kiện, qua đó một nền văn hố được phân tích, định
nghĩa và diễn dịch ra nhiều hơn là các sự kiện đó. Nhà nhân loại học người Anh, Eduard Evans Pritchard
,1902 - 1974) quan niệm rằng nhân học xã hội -văn hoá thân thuộc với khoa học nhân văn hơn là khoa
học kỹ thuật. Ông nhấn mạnh sự quan trọng việc diễn dịch khá sớm, vào 1950: "Nhân học xã hội là một
loại triết học hoặc nghệ thuật, ngụ ý rằng nó quan tâm đến mục đích hơn là q trình, và rằng vì vậy nó
chú ý đến tiêu chuẩn mà khơng phải là luật khoa học, và diễn dịch hơn là giải thích" (Evans - Pritchard
1962: 26).
Các nhà nhân học có thói quen sáng tạo ra những cụm từ mới để xây dựng tư tưởng của mình.
Vào những năm 70 (thế kỷ 19), 20 năm sau khi Evans - Pritchard biện luận về "phiên dịch hơn là giải
thích", Clifford Geert (1973) phổ biến rộng quan niệm này bằng cách sáng tạo ra thuật ngữ nhân học diễn
dịch để chuyển tải tư tưởng: công việc của nhà nhân học không chỉ là miêu tả nhưng cũng là diễn dịch
văn hoá, để phát hiện ra cách những thành viên của nền văn hoá được nghiên cứu, đã làm sáng tỏ ý
nghĩa và chỉ rõ tại sao. Geert đã nói , một nền văn hố phải được coi là một bài đọc mà các thành viên
thường xuyên đọc và những nhà dân tộc học phải diễn dịch chúng.
Trong khi tìm kiếm để xác định ý nghĩa của một xã hội đang vận hành, nhà nhân học phải phân
biệt rõ 4 góc độ tiếp cận sau đây:
Một là trong nhiều nền văn hố có những ngun tắc chỉ đạo cho lý tưởng ứng xử. Đó là một số
lý tưởng văn hoá được các thành viên của xã hội hiểu, nhờ vậy họ đồng tình vận hành đời sống tập thể
của mình. Những lý tưởng này khơng cho phép tiên đốn việc gì sẽ xẩy ra.
Ngồi một số khái niệm mà những người khác trơng chờ vào nó, trong một số hoàn cảnh đặc
biệt, đời sống xã hội thường là lẫn lộn. Vì vậy, nhà nhân học có thể u cầu những thơng tín viên địa
phương giải thích các lý tưởng xã hội.
Hai là, cách xa với văn hố người máy, các cá nhân có nhân cách, nguyện vọng và mục đích
riêng. Vì vậy, họ có thể chấp nhận những lý tưởng văn hoá như là những tiêu điểm để nhằm tới nhưng
họ không cần thiết phải tuân phục chúng. Nếu một nhà dân tộc học phi Âu Tây yêu cầu anh, một người
phương Tây, miêu tả một đám cưới trong nền văn hố của anh, anh có thể nói một số điểm như sau:
"Vâng, một nam và một nữ u nhau, cưới nhau, lập gia đình, đơi khi có con, và sống chung với nhau.
Khi một người qua đời, lễ cưới coi như hết vai trò". Nhưng đó chỉ là lý tưởng, hiện nay sự thật khơng
đúng như vậy. Thực tế là hầu như một nửa của các đám cưới ở Mỹ đều đi đến ly dị. Sự mâu thuẫn giữa

lý tưởng (cái sẽ xẩy ra) với thực tiễn (cái đang xẩy ra) cung cấp cho nhà nhân học một góc độ tiếp cận
thứ hai về văn hoá: hiện nay nhân dân làm như thế nào.
Ba là, nhà nhân học, giống như một thành viên của nền văn hoá được nghiên cứu, cũng là một
cá nhân, với một cá tính nhất định, sự đốn biết nhất định, những nguyện vọng và mục đích nhất định.
Khơng thể tránh khỏi việc nhà nhân học áp đặt "sự giải thích" của mình trên cái cần phải đọc về một nền
văn hoá. Bất chấp việc người điền dã gắng trở thành tuyệt đối và khách quan, cuối cùng kết quả của
công việc điền dã luôn luôn phản ánh người điền dã và khơng có hai nhà điền dã khảo sát cùng một nền
văn hố trong cùng một thời gian, cùng có thể đưa ra những điều giải thích chính xác như nhau. Vậy góc
độ tiếp cận thứ ba là tư tưởng của nhà nhân học về điều đang tiếp diễn của một nền văn hoá.
Cuối cùng, các cá nhân trong mọi xã hội sẽ có ý kiến riêng về những điều đang diễn tiến.
Thường là về lý tưởng, họ có thể cảm thấy sự chệch hướng khỏi lý tưởng này đã được lý giải từng lúc
hoặc là thậm chí họ khơng thể thực hiện do khơng nhận biết được nó. Vậy góc độ tiếp cận thứ tư từ đó
để hiểu một nền văn hoá là bản thân người dân nghĩ về việc thực tế nền văn hố đó tiếp diễn như thế
nào.


Mỗi góc độ trong 4 góc độ tiếp cận - lý tưởng (điều mà người dân nói là nó sẽ tiếp diễn), thực
tiễn (điều mà thực tế đang tiếp diễn), ý kiến của nhà nhân học (điều mà nhà nhân loại học nghĩ rằng nền
văn hoá đang tiếp diễn), và ý kiến của người dân (điều mà bản thân người dân nghĩ nó đang tiếp diễn - là
quan trọng đối với nhà nhân chủng học trong việc phải phấn đấu để tìm ra ngữ nghĩa trong một nền văn
hố (khác văn hố bản tộc). Chỉ có chấp nhận và hiểu rõ 4 góc độ tiếp cận trên, nhà nhân học mới có thể
đạt đến trình độ ý thức được bản chất, nếu như sự giàu có đầy đủ của một nền văn hoá, trong tất cả các
sắc thái, ngữ nghĩa được đánh giá cao.
Tính biểu tƣợng của màu sắc
Trên thế giới, màu sắc có nhiều ngữ nghĩa biểu tượng. Ở nền văn hố phương Tây, cơ dâu
truyền thống mặc màu trắng, còn màu đen gắn liền với cái chết. Ở Ấn Độ, màu trắng là biểu tượng của
cái chết, còn cơ dâu mặc màu đỏ. Trong các nền văn hố trên thế giới, màu trắng, màu đen và màu đỏ là
những màu được dùng rộng rãi như những biểu tượng, nhưng các màu trên có những ngữ nghĩa khác
nhau (Turner 1967: 72 - 77). Hình như trong quá khứ chúng là một; các nhà khảo cổ đã phát hiện tư liệu
về việc sử dụng biểu tượng của các màu này trong một điểm mộ táng thuộc tiền sử, thời đại đồ đá ở

Nam Phi, trong đó có nửa vỏ trứng đà điểu (màu trắng) ở trong sơn đen, bên ngoài sơn đỏ đặt dưới cánh
tay của một bộ xương (78-70)
Văn hố và cá tính
Nhà phân tâm học Áo, thế kỷ XIX, Sigmund Freud đã tuyên bố rằng cái gì xảy ra vào thời ấu thơ,
kể cả những việc chúng ta khơng nhớ, đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến cá tính của chúng ta thời trưởng
thành. Tư tưởng của Freud đã có dấu ấn mạnh mẽ đáng kể đến nhân loại học đầu thế kỷ XIX. Đối với
một số nhà nhân học, hình như có thể tìm thấy một mối quan hệ chặt chẽ giữa văn hoá cá nhân và sự
cấu thành tâm lý. Họ giả thiết rằng, khơng chỉ có bối cảnh văn hoá của một người ảnh hưởng đến cá tính
người đó; mà cá tính của cá nhân cũng giúp cho việc khn đúc nên một nền văn hố.
Tư tưởng trên thuyết phục những môn đệ vào mấy thập kỉ đầu thế kỉ 19 và đến những năm
1930, các thành viên của trường phái nhân học "văn hoá và cá tính" đã sẵn sàng đi vào thử nghiệm các giả
thiết của họ. Những người sớm tán thành phương pháp tiếp cận để hiểu văn hoá này, tin tưởng rằng mỗi
nền văn hố có thể quy định đặc điểm về những thuộc tính văn hố đặc biệt và một kiểu cá tính điển hình
và hơn nữa họ tin rằng những thuộc tính và những cá tính điển hình đó có thể so sánh xuyên văn hoá
(qua nhiều nền văn hoá).
Những thành viên có ảnh hưởng mạnh nhất của trường phái văn hố và cá tính là Ruth Benedict
và sinh viên của bà là Margeret Mead, Benedict đã viết, từ trong những khả năng vô hạn, mọi xã hội
chọn những thuộc tính văn hố mà chúng quy định tại điểm của nền văn hoá này, khác với những nền
văn hoá khác. Tiền bạc có quan trọng đối với văn hố khơng? Tuổi thành niên được xử lý như thế nào?
Chấp nhận động viên tham gia chiến tranh, hay không tham gia gì? (Benedict 1989: 35). Những sự lựa
chọn văn hố của một xã hội cho nó một thị hiếu riêng biệt. Benedict đã tuyên bố rằng, ví dụ như người
Zuni ơ New Mexico là người dân bình tĩnh , khiêm tốn , điềm đạm, có phần sùng đạo, khơng bạo lực, biết
tự kiềm chế, họ đặt những điều tốt lành của xã hội bên trên cá nhân họ. Theo Benedict người Kwakiut,
trái lại, hầu hết đối lập với đặc điểm của người Zuni. Nhiều thành viên của trường phái văn hoá và cá tính
rất quan tâm đến kết quả kinh nghiệm của tuổi ấu thơ và việc thực hành nuôi dậy trẻ trở thành cá tính
trưởng thành. Một trong những người đó là Cora DuBois (1903 - 1991). Bà bảo vệ luận án tiến sĩ về nhân
học năm 1932. Vào mùa xuân năm 1936 DuBois tổ chức một xêmina ở trường đại học. Việc này đã thay
đổi cuộc đời của bà. Xêmina được sự lãmh đạo của Abram Kardiner, một nhà phân tâm học nổi tiếng,
ông ta tin rằng, những người lớn xử sự như thế nào đối với trẻ con trong một xã hội nhất định - người ta
nuôi nấng chúng bao lâu, người ta dạy nó sử dụng toa lét như thế nào và những việc khác - ảnh hưởng

đến cá tính của chúng khi trở thành người lớn. Và như vậy là đã cung cấp một cơ sở "cấu trúc cá tính"
cho xã hội (Kardiner, 1945).
DuBois quyết định đưa giả thiết này vào thực nghiệm ở thực địa. Năm 1937 bà đi đến Alor, một
hịn đảo ở Đơng Inđơnêxia, ở đó bà đã sống gần một năm rưỡi trong khi nghiêm cứu cá tính của người
Alor (DuBois,1961). Hơn nữa để thu thập những điều lúc bấy giờ trở thành phong tục tiêu biểu của tư liệu
nhân loại học, bà cũng điều hành những cuộc thực nghiệm tâm lý học đối với những người chủ Alor. Bà
đã thu thập một số tranh vẽ của trẻ con, và ghi lại những giấc mơ của chúng một cách chi tiết.
Bằng tư liệu, DuBois đưa ra một hình ảnh của xã hội Alor làm một số người Mỹ ngạc nhiên.
Những người mẹ Alor tiếp tục một cách đặc trưng, công việc làm vườn bận rộn sau một thời gian ngắn
sinh đẻ, để lại con cái cho người khác chăm sóc, như bà hoặc dì (Dubois 1961: 34). Nếu có thể, những
người ni trẻ này cho trẻ con bú khi mẹ chúng đi vắng. Ngoài ra họ cho trẻ con ăn thức ăn mềm hoặc
lỗng "cẩn thận nhiều hoặc ít", nhưng theo DuBois, việc cho ăn này "hoặc khơng có hiệu quả mấy hoặc


không thỏa mãn". Như vậy những đứa trẻ cứ lớn lên, hình như chúng ít được chỉ dẫn thích hợp và ít sự
u thương. Nói chung là bị trêu chọc và sự trừng phạt thường khắc nghiệt.
Kết quả của kiểu nuôi dạy trẻ con này của người Alor như thế nào? DuBois đã tuyên bố rằng xu
hướng của người lớn là không thân thiện, đa nghi, hay ghen tỵ, đi đến hay nổi giận. Tình vợ chồng hình
như ít đầm ấm. Dân chúng rất thích việc phá đám, trêu chọc người này người khác, người ta hình như có
thái độ lãnh đạm với nhau. DuBois kết luận những điều này là kết quả của việc nuôi dạy trẻ con của
người bản xứ. Bà đi đến gợi ý rằng một số đặc tính của một số xã hội như thù địch và đa nghi một cách
phổ biến, có thể giải thích với sự tham khảo cá tính điển hình của xã hội này (DuBois, 1961 xix). Theo
thống kê đây là kiểu cá tính chúng nhất của xã hội này.
Các năm 1950 và các năm 1960, trường phái văn hoá và cá tính mở rộng ra, bao gồm những
nghiên cứu về đặc điểm dân tộc, nhóm cá tính, sự phân biệt giữa "bình thường" và "bất bình thường" và
những kết quả của văn hoá trên người bệnh tâm thần và trái lại. Một loạt các nghiên cứu liên văn hoá
được các nhà nhân loại học Betrice và John Whiting và Irvin Child dẫn đầu (Whiling and child 1953,
Whiting 1963). Họ phát hiện hai kiểu mẫu về dưỡng dục trẻ con, mỗi một kiểu mẫu thường tìm thấy ở
một nền văn hố nhất định. giáo dục phụ thuộc và giáo dục độc lập. Trong nền văn hoá giáo dục trẻ em
phụ thuộc, người lớn có xu hướng vâng lời, thừa lệnh và lệ thuộc vào gia đình hoặc các nhóm xã hội

khác. Trong những nền văn hoá giáo dục trẻ con tinh thần độc lập, người lớn có xu hướng tự chủ hơn,
chủ động đạt đến mục đích và có cá tính riêng. Khơng khó khăn mấy để chọn những đặc điểm nổi bật
của cá tính kiểu mẫu Bắc Mỹ.
Mặc dầu tư tưởng mà tâm lý học có thể giúp chúng ta để hiểu văn hoá tiếp tục tạo cảm hứng
nghiên cứu nhân học (Paul 1989), nhiều nhà nhân học hiện nay nghĩ rằng trường phái văn hố và cá tính
đã đi q xa trong việc giải thích. Người ta cho rằng bên cạnh những giải thích tâm lý học, cần có thêm
những giải thích khác để phát hiện sự khác biệt văn hố . Do vậy, khơng phải tất cả những nhà nhân học
hiện nay chấp nhận cách tiếp cận này là có căn cứ. Tuy nhiên, do sự nghiên cứu của Benedict, Mead,
DuBois và những người kế tục họ, mối quan hệ giữa văn hố và cá tính chiếm một khu vực trong sự
quan tâm của những nhà nhân học hiện đại.
Văn hoá, chủng tộc và chủ nghĩa đa nguyên
Thuật ngữ chủng tộc thường được dùng để nhận dạng những nhóm người dựa trên một số thuộc
tính vật lý như màu da, hình dạng tóc, đặc điểm khn mặt. Trước đây, những nhà nhân chủng học cũng
dùng thuật ngữ này theo cách nghĩ rằng lồi người có thể phân loại thành những phạm trù khác nhau
dựa trên cơ sở một số thuộc tính vật lý. Tuy nhiên, đặc điểm vật lý được tiếp tục hoà đồng và tái hoà
đồng trong các nhân chủng và không phải lúc nào cũng đồng quy để định nghĩa một cách rạch ròi về
chủng tộc. Theo phạm trù sinh học thì "chủng tộc" khơng tồn tại.
Thuật ngữ chủng tộc cũng dùng để phân biệt các nhóm người khơng chỉ trên cơ sở các thuộc
tính vật lý mà đồng thời nhất quán về văn hoá. Thuật ngữ này dùng "chủng tộc" như là một phạm trù văn
hoá. Nó là chủ đạo hiện nay, nhưng hữu dụng một cách có giới hạn bởi vì nghĩa của nó thay đổi để cho
phù hợp với bối cảnh văn hoá mà trong đó nó được ứng dụng.
Một nhà nhân học văn hoá (Pohorecky, 1992) hiện nay làm nhiệm vụ như là một chuyên gia
trong tòa án giải quyết sự phân biệt chủng tộc giữa những người da trắng và người da màu Pakistan.
Theo các nguồn "khoa học" khác nhau được dẫn trong phiên toà, người Pakistan được phân loại như là
thành viên của giống "da trắng". Điều này làm nổi lên một vấn đề pháp lý thú vị: làm thế nào "phân biệt
chủng tộc" xẩy ra giữa những thành viên cùng một chủng tộc? Nhà nhân học biện luận rằng phiên tồ sẽ
khơng dựa vào sự phân loại giả thiết theo sinh vật học rằng người Pakistan là da trắng mà dựa trên việc
sử dụng chung thuật ngữ "trắng", kể từ khi việc phiên dịch văn hoá của cộng đồng đặc biệt này (về từ da
trắng) là thích ứng với văn cảnh. Ý kiến của nhà nhân học đã thắng, và phiên tồ tìm thấy rằng việc phân
biệt chủng tộc thực tế đã xẩy ra.

Những nhà nhân học đầu ngành thời nữ hồng Victoria đã nghĩ rằng họ có thể khám phá ra mối
quan hệ nhân quả giữa "chủng tộc" và những thuộc tính văn hố như văn hố niềm tin tôn giáo và phát
triển kinh tế. Từ bấy đến nay, thế giới đã chứng kiến những cố gắng gắn liền "chủng tộc" với các thuộc
tính tinh thần, tâm lý và ứng xử, mà chỉ số thông minh (IQ) là một ví dụ. Nhưng từ khi chủng tộc là một tư
tưởng với nhiều nghĩa khác nhau, trong những bối cảnh khác nhau và từ khi những đặc điểm về trí tuệ,
tâm lý và ứng xử khơng liên quan gì đến màu da, bộ tóc, khn mặt hoặc bất kỳ thuộc tính vật lý nào,
những cố gắng này bị số phận phán quyết đổ vỡ. Lịch sử kế tiếp của nhân học văn hoá đã chỉ ra rằng
chủ nghĩa chủng tộc, niềm tin rằng một số chủng tộc được kế truyền tính thượng đẳng, đứng trên các
chủng tộc khác và vì vậy mà phán xét và bóc lột các chủng tộc hạ đẳng, là khơng có căn cứ trên bất kỳ một dữ liệu
tự nhiên và văn hoá nào.


Khi nhân dân với những đặc điểm vật lý hoặc truyền thống văn hoá khác nhau cùng tập hợp lại
trong một xã hội, thì kết quả là đa văn hố. Đó là đặc điểm của hầu hết của những xã hội có tầm cỡ rộng
lớn, hiện đại. Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, "nồi hầm" của thế giới thế kỷ XIX, là một trong những xã hội hiện
đại đa văn hoá rõ nhất. Những người Mỹ da đen, người Mỹ - Ý, người Mỹ - Irish, người WASP (tin lành
Anglo - Saxon da trắng) và những chủng tộc khác đã cùng sống, không những chỉ sống trong một bối
cảnh của một nền văn hố rộng lớn mà cịn sống thực sự trong bối cảnh tiểu văn hoá của mỗi dân tộc.
Thuật ngữ này (tiểu văn hố miêu tả những nhóm nhỏ, ln ln tìm thấy mình trong nhóm lớn hơn, để
phân biệt họ (hay được phân biệt bởi những nhóm khác) với những nhóm khác trên cùng một cơ sở, bao
gồm sự đồng nhất về sinh vật học, truyền thống văn hố hay thậm chí những quyền lợi chung.
Các xã hội đa văn hoá đã vận dụng vấn đề tách biệt từ đa nguyên văn hoá như thế nào? Trong
một số xã hội những quy tắc về chính trị hoặc tơn giáo đã kiểm soát cách ứng xử của nhân dân thuộc
chủng tộc, tơn giáo, xu hướng giới tính và giai cấp. Trong các nền dân chủ hiện đại, các lý tưởng dân chủ
có xu hướng giới hạn số lượng của các quy tắc vừa nêu. Những tư tưởng thiên vị cịn đặc điểm hố các
nền dân chủ hiện đại và chỉ ra rằng các xã hội này cịn khơng biết cách vận dụng nền văn hố đa ngun
vì vậy, chỉ ra rằng khơng có tiểu văn hố "bị khuyết tật". Một số quốc gia phương Tây có những luật lệ để
bảo vệ các thành viên của những nền tiểu văn hoá khỏi bị đối xử phân biệt, trong xã hội đơn văn hố
việc này đã hồn tồn có kết quả.
Một câu trả lời cho đa văn hoá, và một vấn đề hiện tại của việc thảo luận trong các khu đại học

là sự chính xác có tính chính trị (xem Berman 1992). Tư tưởng đằng sau sự chính xác có tính chính trị có thể
được nghe như hợp lý: nhân dân cần phải tránh nói và làm bất kỳ điều gì làm tổn thương đến danh dự
các thành viên của các tiểu văn hoá khác. Nhưng tư tưởng này làm nẩy sinh một vấn đề khó. Liệu chúng
ta có thể ứng xử ngang bằng đối với những thành viên của mọi nền tiểu văn hoá, hay là một cách rất tế
nhị, đưa nền văn hoá Mỹ gồm nhiều mảnh khác nhau vào các tiểu văn hố; sự khẳng định khơng phân
biệt đối xử với mọi người, mọi ứng xử hay mọi ý kiến (thậm chí, tất nhiên, đáng chê tránh) và không chú
ý đến thực tế lịch sử và văn hố?
Sự chính xác có tính chính trị được ưu tiên này, biện luận rằng sự hạ phẩm giá tiểu văn hố khác
là mâu thuẫn với lý tưởng bình đẳng của nước Mỹ. Những người đối lập với quan niệm trên chỉ ra rằng
việc cư xử đặc biệt với một số nhóm, như là sự thiết lập một chương trình phổ thơng đặc biệt cho sinh
viên dân tộc thiểu số chính là hạ phẩm giá bản thân họ và rằng sự chính xác có tính chính trị, với sự ngụ
ý hướng dẫn về điều mà người ta có thể và khơng có thể nói đã hạn chế tự do ngơn luận. Sự tiếp tục
tranh luận có thể có một tác động quan trọng đối với quan niệm tiểu văn hoá trong xã hội đa ngun văn
hố của chúng ta.
Kết luận
Lồi vật khơng cần văn hố để sống. Chúng điều chỉnh mơi trường vật lý của chúng qua một thời
gian dài, bằng cách phát triển từng bước những nét vật lý có lợi thế đối với cuộc sống của chúng, ví dụ
như một bộ lông giúp cho chúng giữ ấm trong mùa lạnh, một bộ răng đặc biệt để nhai thức ăn sống hoặc
đôi mắt cho phép chúng trông thấy với ánh sáng ít ỏi. Lồi người, cũng như vậy cũng thích nghi một cách
vật lý qua thời gian, nhưng quan trọng hơn, họ cịn thích nghi văn hố, sử dụng các phương tiện văn
hố, ví dụ lửa để sưởi ấm và nấu cho mềm thức ăn sống, dùng ánh điện để nhìn trong đêm tối Chúng ta
đạt tới, khơng dễ dàng, cuộc sống lâu dài của chúng ta như là một chủng loại, nhưng cũng đạt tới một
cách có kỳ hạn những tiện nghi, an toàn, sức khoẻ và hạnh phúc như là những cá thể.
Vì vậy văn hố là uyển chuyển, nó khơng giống các loại hình khác. Chúng sống một cách đặc
biệt trong những môi trường trú ẩn thuận lợi riêng. Lồi người có thể thích nghi cho đời sống ở vùng Bắc
cực, sa mạc khơ nóng, rừng mưa nhiệt đới, và vùng khí hậu điều hồ, cũng như những nơi mà nhiệt độ,
mùa gió và thời tiết rất thay đổi mùa này qua mùa khác. Chúng tà không chỉ đơn giản tìm chỗ ẩn đặc biệt
và điều hành chiếm lĩnh cho riêng chúng ta trong thế giới tự nhiên; chúng ta cũng sử dụng hầu hết môi
trường cư trú và khai thác thế giới tự nhiên cho sự thuận lợi của chúng ta.
Như vậy, loại người là độc đáo. Vốn gốc là sản phẩm của thiên nhiên giống như mọi sinh vật

sống, bây giờ chúng ta là một chủng loại duy nhất trên hành tinh có thể tiêu dùng cho sự tồn tại tiếp tục ,
dựa vào một số sản phẩm khác ngoài tự nhiên, cái mà do chúng ta sáng tạo ra: đó là văn hố. Vì vậy, chúng
ta đã trở thành lệ thuộc vào cái phát minh của riêng mình, mà chúng ta khơng thể sống thiếu nó, như là
một chủng loại./.
PHAN ĐĂNG NHẬT
dịch từ Cultural Anthropology, Harper Collins College Publishers, 1994, New York.
Sưu tầm


MÃ VÀ MÃ VĂN HĨA
Nguyễn Thị Bích Hà
PGS. TS. Khoa Việt Nam học,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Mã và mã văn hoá là những khái niệm nằm trong lĩnh vực rộng hơn là mơi trƣờng văn
hố. Khi tìm hiểu vấn đề mã và mã văn hố chúng ta khơng thể khơng liên hệ tới khái niệm văn
hố. Tuy nhiên, văn hố là một khái niệm rộng, nó khơng phải một cái gì cụ thể, khơng có hình
khối, khơng thể sờ mó..., nó có mặt ở mọi nơi và có thể cảm nhận đƣợc khơng mấy khó khăn. Bởi
văn hố chính là khuynh hƣớng lựa chọn, ứng xử của con ngƣời trong q trình sống.
Nó được hình thành trong lịch sử, dưới tác động của môi trường tự nhiên (điều kiện địa lí, địa
hình), mơi trường xã hội (điều kiện lịch sử, điều kiện sống, tổ chức xã hội,...) mà tạo thành. Vì vậy văn
hố mang tính ổn định và tính lịch sử, làm thành một truyền thống riêng, đặc điểm riêng là cái mà người
ta dễ nhận ra, dễ so sánh khi tiếp xúc và giao lưu với những nền văn hoá khác.
Càng ngày người ta càng quan tâm tìm hiểu vấn đề văn hố thơng qua việc nghiên cứu bản chất
văn hoá, giao lưu văn hoá, đối thoại văn hoá, biểu tượng văn hoá... Hiện nay, trên thế giới có đến gần
500 định nghĩa khác nhau về khái niệm này. ở Việt Nam, nửa cuối những năm 80 và đặc biệt là những
năm 90 của thế kỉ XX các nhà văn hoá đã rất chú ý đến việc xác định khái niệm và nội hàm văn hố
(Đồn Văn Chúc, Chu Xuân Diên, Nguyễn Đăng Duy, Phan Ngọc, Trần Ngọc Thêm, Phạm Thái Việt,
Trần Quốc Vượng,...)1. Tuy nhiên, từ những góc độ quan tâm khác nhau mà khái niệm văn hố mỗi
người đưa ra vừa có những tương đồng vừa có đơi khía cạnh khác biệt. Theo chúng tơi,Văn hoá là phức thể
các giá trị vật chất, tinh thần do con người tác động đến tự nhiên, xã hội và bản thân trong quá trình lịch sử dài lâu mà tạo nên. Nó tích tụ và

thể hiện diện mạo, bản sắc của cộng đồng.

Như vậy, văn hoá là các giá trị và tổng hoà của các giá trị do con người tạo ra. Khi con người tác
động đến tự nhiên, họ tạo ra các giá trị vật chất như: ăn, mặc, ở... Khi con người tác động đến các yếu tố xã
hội, họ tạo ra cácgiá trị tinh thần như: tôn giáo, đạo đức, triết học, phong tục tập quán... Khi con người tác
động đến chính con người (theo các chuẩn mực xã hội), họ tạo nên các giá trị như: Chân (thật) – giá trị
nhân bản; Thiện (tốt) – giá trị nhân đạo; Mĩ (đẹp) – giá trị nhân văn.
Văn hố là những giá trị, giá trị đó do con người tạo ra, vì vậy các lồi động vật khác dù có cao
cấp đến đâu cũng chỉ hành động theo bản năng sinh tồn chứ không sáng tạo văn hoá. Khi con người tác
động vào tự nhiên, họ tạo ra thiên nhiên thứ hai, cái thiên nhiên không cịn hoang sơ, thơ mộc mà đã là
thiên nhiên được gọt tỉa, uốn nắn theo những mục đích mà con người đặt ra từ trước khi tác động vào
nó. Thiên nhiên đó mang tính ý thức. Cây vốn tồn tại trong tự nhiên, nhưng khi con người mang cây về
trồng, họ đã tính tốn trước xem cái cây ấy nên trồng ở đâu, để làm gì, trồng như thế nào... đó là kết quả
của tư duy, có tính mục đích. Đó là sản phẩm văn hố. Khi con người sống trong xã hội, họ tác động đến
các hoạt động xã hội, cải tạo xã hội, làm cho nó vận động và phát triển theo mục đích tác động của mình.
Vì vậy, xã hội phức tạp và về cơ bản có các hình thái khác nhau từ thấp lên cao. Chỉ có con người với tư
duy trừu tượng mới hình dung ra mơ hình xã hội, cải tạo và phát triển xã hội theo những hình thái khác
nhau như vậy.
Văn hố còn là kết quả của sự vận động, sáng tạo của con người theo quy luật của cái đẹp. Như
vậy, không phải tất cả mọi sự biến đổi do con người tạo ra đều là sản phẩm văn hoá, đều mang đặc
trưng văn hoá. Ngay khi một sản phẩm được sáng tạo, theo nghĩa hẹp, nó chưa phải là văn hố bởi nó
chưa qua thử thách, chưa được chọn lựa và chấp nhận như một giá trị. Vì vậy bên cạnh khái niệm văn
hố, chúng ta mới có khái niệm phi văn hoá, thiếu văn hoá. Xu hướng tiếp nhận của con người bao giờ
cũng hướng tới cái đẹp, cái hồn thiện. Vì vậy quy luật của văn hố ln là sự sáng tạo mang tính nghệ thuật, điều đó
phải được lựa chọn và thẩm định qua thời gian. Và sau sự chọn lựa một cách tự nhiên ấy, cái gì cịn lại
ln thể hiện tính văn hố, ln là cái đẹp mang đặc điểm quan niệm mỗi thời đại. Khi ta nói “ứng xử có
văn hố”, có nghĩa đã bao hàm cái đẹp trong lối ứng xử đó. Chúng ta đều biết, trà là thứ đồ uống được
cả thế giới ưa chuộng, cả thế giới uống nước trà, nhưng coi uống trà như một phương tiện giải khát sẽ
khác với uống trà như sự thưởng thức; một bên là nhu cầu tồn tại, còn bên kia là nhu cầu hưởng thụ;
một bên giúp người ta sinh tồn, còn bên kia giúp người ta thành nghệ sĩ. Thưởng thức nước trà chính là

một nhu cầu văn hố.
Do khái niệm và nội hàm văn hố rất rộng nên khơng ai có thể nói rằng mình đã tìm hiểu đến tận
cùng một nền văn hố, cũng khơng ai có thể khẳng định mình đã chạm đến tất cả các yếu tố văn hố. Vì


vậy, dù chính thức khẳng định hay ngầm định thì các nhà nghiên cứu văn hoá đều quan tâm đến các mã
văn hố, họ chỉ cần và cũng chỉ có thể quan tâm đến các mã trong biển văn hoá mênh mơng ấy mà thơi.
Hàng loạt mã văn hố đã hồ nhập cùng tín ngưỡng, hiển hiện ở phong tục, náu mình trong thần tích, kí
thác ở tâm linh, ẩn tàng trong văn hoá dân gian, trong nghệ thuật truyền thống mà lí giải được nó sẽ tạo
ra sự hấp dẫn vô cùng, với những giá trị khoa học và nhân văn to lớn mà nó đem lại. Mã văn hố có thể
ví như chìa khố để mở cánh cửa văn hoá mỗi cộng đồng. Dựa vào các mã văn hố để nghiên cứu và lí
giải những vấn đề văn hố, xã hội, văn học nghệ thuật, tìm hiểu các quan niệm về vũ trụ và nhân sinh
mỗi thời đại, các dấu vết văn hố được thể hiện trong tín ngưỡng, phong tục tập quán cộng đồng... là
một hướng nghiên cứu đặc trưng, mang lại nhiều hiệu quả. Đó chính là hướng tiếp cận mà chúng tơi
muốn trình bày.
Nếu quan niệm rộng, văn hố chính là tất cả những gì do con người tạo ra theo mục đích nhất
định, thì mã và mã văn hố chỉ là một, hoặc có thể nói, tất cả các mã đều là mã văn hố, vì các mã đều
do con người tạo ra, là quy ước chung của con người qua các tín - kí hiệu. Tuy nhiên, như chúng tơi đã
trình bày quan niệm của mình ở trên, thì văn hố ln mang tính nghệ thuật, và các mã được gọi là mã
văn hoá cũng phải là những mã được sáng tạo theo quy luật của cái đẹp. Như vậy, mã văn hoá trước hết
phải thể hiện những đặc trưng chung của mã, sau nữa nó mang thêm những đặc trưng văn hố.

1. Mã (code):
Là hình thức, vẻ ngồi. Mã cịn được hiểu là tín hiệu, kí hiệu riêng, phần nổi nhất, trội nhất thể hiện
tinh thần của đối tượng. Theo chúng tôi, mã có những đặc điểm sau:
Có thể cảm nhận được bằng giác quan: biển báo, đèn đường...
Phải có ý nghĩa đại diện, phổ biến: Chữ thập đỏ là tín hiệu bệnh viện; Đầu lâu xương chéo ai nhìn
cũng biết là tín hiệu chỉ sự nguy hiểm chết người...
Phải nằm trong một hệ thống nhất định: đèn đỏ phải đặt cùng đèn xanh, đèn vàng thì mỗi đèn mới
có ý nghĩa biểu trưng. Nếu tách riêng ra hoặc đặt chúng vào hệ thống khác thì ý nghĩa cũ sẽ mất hoặc bị

biến tướng đi. Chẳng hạn, cũng là đèn đỏ nhưng nếu treo trong đêm trung thu sẽ có ý nghĩa hội hè, treo
trong đám cưới sẽ có ý nghĩa hạnh phúc...

2. Mã văn hoá (cultural code)
Là những mã vừa mang đặc trưng của mã, vừa mang những đặc trưng của văn hố. Mã văn hóa
là những tín hiệu, kí hiệu có tính thẩm mĩ, tính đại diện, trong nó biểu hiện đặc điểm, giá trị văn hoá một
cộng đồng. Như vậy, Mã văn hoá là kết tinh của các giá trị văn hoá, là phần nổi trội nhất, cơ bản nhất, có tính ổn định tương đối của
cộng đồng. Nó biểu hiện ra ngồi bằng các tín hiệu văn hố, biểu tượng văn hố, chìm sâu bên trong là vơ vàn lớp nghĩa ln địi hỏi giải mã
thì mới có thể hiểu được con người và cộng đồng đó. Đầu lâu xương chéo là một mã (tín hiệu báo nguy hiểm), nhưng

chưa phải mã văn hố vì nó chỉ có giá trị thơng tin mà hầu như khơng mang tính nghệ thuật, không thể
hiện chiều sâu tư tưởng và đặc điểm văn hoá, quan niệm một cộng đồng.
Mã văn hoá theo chúng tơi quan niệm bao gồm kí tín hiệu văn hoá (cultural signs), biểu tượng văn
hoá (cultural symbols) và mật mã văn hố (secret codes of culture).
2.1. Tín hiệu, kí hiệu văn hố: là những quy ước chung, khá đơn giản. Theo chúng tơi, để được
coi là tín hiệu, kí hiệu văn hố, nó phải thoả mãn những điều kiện sau:
+ Là cái có thể cảm nhận được bằng giác quan.
+ Phải có tính thẩm mĩ (gắn với đặc trưng văn hố)
+ Có ý nghĩa, đại diện cho một yếu tố văn hố nào đó khác với chính nó.
+ Giữa tín hiệu và nội dung của nó có mối liên hệ phổ biến, liên tục, dễ nhận diện, có thể lí giải
được, thường lí giải một lần là xong. Ví dụ: Kí hiệu âm - dương, cờ lễ hội, thập ác, chữ thập ngoặc
ngược...
+ Nó phải nằm trong một hệ thống kí tín hiệu văn hố nhất định: Các tín hiệu văn hố trên có thể là
tín hiệu văn hố mang tính quốc tế (quyển sách mở và cái bút là tín hiệu của sự học tập) hoặc của riêng
văn hoá một nước (cờ cá chép được treo lên là tín hiệu ngày hội dành cho con trai ở Nhật Bản)...
2.2. Biểu tượng văn hoá: nghĩa gốc là một vật được chia làm hai nửa, mỗi bên giữ một nửa, khi khớp
lại sẽ nhận ra mối quan hệ. Biểu tượng văn hố là một loại tín hiệu riêng, có chiều sâu và phong phú hơn
tín hiệu văn hố. Biểu tượng được hình thành trong một quá trình lâu dài, có tính ước lệ và bền vững, là
cảm quan, nhận thức được lắng đọng, kết tinh, chắt lọc trải qua bao biến cố thăng trầm vẫn không bị
phai mờ mà ngược lại càng khắc sâu hơn vào tâm khảm con người. Biểu tượng là vật môi giới giúp ta tri

giác cái bất khả tri giác. Biểu tượng được hiểu như là những hình ảnh tượng trưng, được cả cộng đồng
dân tộc chấp nhận và sử dụng rộng rãi trong một thời gian dài, song giữa biểu tượng và cái được biểu


trưng nhiều khi có mối quan hệ đứt nối, gián đoạn khiến người ta khó nhận ra. Nó chính là cái nhìn thấy
được mang một kí hiệu dẫn ta đến với cái khó có thể nhìn thấy được, nhưng nếu đã là biểu tượng chắc
chắn nó đại diện cho các khía cạnh bản chất nào đó của văn hố một cộng đồng. Thời gian và không
gian làm cho cái được biểu trưng bị mờ đi, khuất lấp. Khi cái được biểu trưng xa rời quy ước ban đầu đó,
nó mở đường cho sự hình dung và giải thích chủ quan, bay bổng của con người. Phải tìm ra chìa khố
(mã) mới khai mở được biểu tượng và hầu như không thể giải mã biểu tượng một lần mà xong.
Biểu tượng dường như có xu hướng liên thơng với tín hiệu. Biểu tượng sống là biểu tượng còn
tiếp tục được giải mã, phân tích, khám phá các lớp nghĩa bên trong của nó. Sự khám phá đó khiến biểu
tượng gợi cảm đến bất tận. Biểu tượng chết là khi người ta đã lí giải được tồn bộ ý nghĩa của nó, nó trở
nên dễ hiểu, được sử dụng theo một số nghĩa nhất định nào đó và khơng được người ta dày cơng khám
phá nữa. Khi đó nó gần như tương đương với tín hiệu. Chẳng hạn, Thập ác khởi đầu có ý nghĩa biểu
tượng, đằng sau nó là nhu cầu của những người mộ đạo muốn được thể hiện sự chia sẻ nỗi đau đớn với
Chúa Jêsu khi Chúa bị đóng đinh trên thánh giá. Đeo thập ác là để không quên nỗi đau đớn của Chúa và
cùng chịu đựng nỗi đau với Chúa. Khi mọi người theo đạo đều đeo thập ác, nó khơng cần sự giải thích
nào nữa, khi đó ý nghĩa biểu tượng bị mờ đi, chỉ cịn ý nghĩa tín hiệu, ai nhìn vào thập ác cũng biết đó là
tín hiệu của người theo đạo Ki tơ.
Biểu tượng có một số đặc điểm nhất định. Đó là, tính chất sống động, khó nắm bắt, khó xác định.
Không phải ai cũng nhận ngay ra biểu tượng và hiểu được ý nghĩa mà nó biểu trưng. Bên cạnh đó, nó có
tính chất ổn định tương đối, phải ổn định mới trở thành biểu tượng, nếu nó ln thay đổi, nó sẽ khơng
cịn mang tính biểu tượng nữa, bởi giữa cái biểu tượng và cái được biểu tượng không thay đổi hoặc ít
thay đổi thì sự khám phá mới có ý nghĩa. Chẳng hạn, nếu chim là biểu tượng mặt trời thì chim trên trống
đồng (bay theo hướng từ đông sang tây), chim trong mặt trời (bay lông lả tả khi mặt trời bị dũng sĩ bắn
rụng), chim trong tên gọi mặt trời (kim ô - quạ vàng), chim trên áo lông chim... phải thống nhất và ổn định
thể hiện tính biểu tượng đó, nếu khơng người ta sẽ nghi ngờ tính chất biểu tượng chim – mặt trời.
Biểu tượng có thể lí giải được nhờ liên hệ với những yếu tố khác trong một trường liên tưởng.
Chẳng hạn, con chim là biểu tượng cho mặt trời, từ đó nó dẫn ta đến liên tưởng về con diều, quả còn,

quả cầu, đánh đu... gắn với những trò chơi mà khi chơi người ta đều phải tung cao hoặc cho bay cao lên,
gần gũi với biểu tượng chim – mặt trời. Trường liên tưởng của biểu tượng càng rộng, sự khám phá biểu
tượng càng phong phú và hấp dẫn. Người Việt thường dùng phương tiện chuyên chở dưới nước là
thuyền rồng, thần mưa (trong thần thoại) có mình rồng, thần nhiều con sơng có hình rồng... bởi con rồng
trong quan niệm của người Việt chính là biểu tượng nước.
Biểu tượng ln mang tính quan niệm, bởi nó bắt nguồn từ tư duy hình tượng. Nó có nhiều cấp độ xâm
nhập với cái được biểu trưng, các cấp độ đó phản ánh trình độ tư duy và quan niệm nghệ thuật của con người. Biểu tượng cổ nhất và đơn giản
nhất bao giờ cũng gần với thực tế. Chẳng hạn, rắn là con vật biểu tượng cho nước, giữa con rắn biểu tượng và con rắn trong thực tế không
khác nhau; đến con rồng cũng mang biểu tượng nước nhưng nó khơng cịn giống bất cứ một con vật có thực nào trong đời sống nữa, nó có
chân như thú, vẩy như cá, bờm như ngựa, có thể bay như chim... hình dáng của nó đã bay cao và thốt khỏi thực tế. Chắc chắn biểu tượng
rồng ra đời muộn hơn và trình độ tư duy của những người sáng tạo ra nó đã phát triển cao hơn trước. Giải mã biểu tượng cũng chính là bóc
tách các lớp lịch sử bồi đắp, che phủ biểu tượng, làm cho nó biến đổi.

2.3. Mật mã (Secret codes): là một mã khố bí mật, là cách duy nhất để lí giải cái khơng thể nắm
bắt bằng cách nào khác. Nó cần phải có chìa khố để lí giải và khơng bao giờ có thể giải thích một lần là
xong. Nó là một khơng gian mở cho người ta có thể khám phá liên tục mà khơng ai dám khẳng định là có
thể giải mã đúng và khám phá hết bí mật.
Tử vi có thể được coi như một loại mật mã văn hoá. Các học giả nhiều thời đại đã cố gắng giải mã
các lá số tử vi. Người ta có thể lập trình tử vi, thiết lập các lá số trên máy vi tính, nhưng để giải mã được
một lá số cần trình độ tổng hợp cao và kinh nghiệm suy đốn rộng. Tuỳ trình độ của mỗi người mà họ có
thể lí giải nó nơng hay sâu, nhưng chưa ai dám coi như đã giải mã được toàn bộ số phận con người qua
những lá số đó. Rộng hơn, kinh Dịch cũng có thể coi như một bản mật mã văn hoá.
Đối với việc nghiên cứu mã văn hoá, mật mã q bí ẩn, khó có thể giải mã được. Tín hiệu thì đơn
giản, giải mã một lần là xong. Biểu tượng phong phú và có chiều sâu hơn nhiều. Vì vậy, trong giải mã
văn hố thì giải mã biểu tượng là có ý nghĩa hơn cả. Thấu hiểu ý nghĩa của các biểu tượng, nói rộng ra là hiểu được hệ giá
trị văn hoá của một dân tộc được kết tinh lại trong biểu tượng tức là có thể hiểu đến tận cùng con người và dân tộc ấy.

Để nói về biểu tượng văn hố, chúng tơi xin trích lại lời của nhà ngơn ngữ, nhà văn hố Levis
Strauss “Mọi nền văn hố đều có thể xem như một tập hợp các hệ thống biểu tượng, trong đó xếp ở hàng đầu là ngôn ngữ, các nguyên tắc
hôn nhân, các quan hệ kinh tế, nghệ thuật, khoa học, tôn giáo” (trang XXIII, Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới, Nxb Đà Nẵng,

Trường viết văn Nguyễn Du, 1997).
Ý kiến của Levis Strauss tuy chưa hoàn toàn đầy đủ nhưng đã nêu tập trung nhất các biểu hiện
của văn hoá qua hệ thống biểu tượng. Ngôn ngữ như một loại Mã văn hố. Ngơn ngữ một cộng đồng


luôn gắn liền với đặc điểm sinh hoạt và tư duy của cộng đồng đó như hệ quả của tư duy. Hơn thế nữa,
nó cịn biểu hiện quan niệm của con người trong cộng đồng một cách hình tượng, tạo ra những đặc điểm
sử dụng ngôn ngữ riêng biệt của cộng đồng. Chẳng hạn, người Anh khi nói chuyện thường đặt sự vật
này trong tương quan với sự vật khác một cách khách quan, trong khi đó người Việt Nam thường ngầm
đặt mình vào giữa các tương quan đó, coi mình là trung tâm của sự so sánh. Nếu tơi đang ngồi dưới sàn, trên đầu tôi là cái đèn thì tơi
khơng nói “the light was hanged under the ceiling” (đèn được treo dưới trần) mà tơi nói “đèn treo trên trần”, bởi đèn đó ở trên tơi. Tương tự như
thế, các phong tục tập quán, các quan hệ kinh tế (hình thái kinh tế), các lĩnh vực nghệ thuật, khoa học, triết học và tôn giáo... của mỗi cộng đồng
cũng thể hiện đặc sắc văn hoá của cộng đồng ấy qua hệ thống biểu tượng. Các nhà nghiên cứu đều nhìn thấy mối quan hệ liên thơng, mang
tính hệ quả giữa văn hoá với các biểu tượng văn hoá. Từ đó có thể thấy, muốn hiểu văn hố, cách làm hữu ích nhất là tìm hiểu qua các biểu
tượng văn hoá, tức các mã văn hoá.

Mỗi nền văn hoá sẽ sản sinh và lưu tồn những mã văn hoá đặc trưng. Người ta hay nói đến văn
hố lúa nước ở Việt Nam và Đơng Nam á, nền văn hố này đã và đang biểu hiện ra khá đậm nét qua
một hệ thống biểu tượng về nước, mặt trời, lúa, gạo... thơng qua các cơng cụ, các trị chơi, qua tín
ngưỡng tơn giáo, phong tục tập qn, văn học nghệ thuật dân gian... Chỉ đơn cử mã văn hoá chim. Từ
hình tượng chim biểu tượng mặt trời, ta có thần thoại Hậu Nghệ bắn mặt trời (trong mỗi mặt trời xuất
hiện một con chim). Người ta gọi mặt trời là Kim Ơ (quạ vàng), người ta đúc trống đồng có hình chim bay
từ đơng sang tây theo chiều quay của mặt trời... Chim còn là biểu tượng của mùa vụ, ta có chim én: mùa
xuân, chim tu hú, chim cuốc: mùa hè, ngỗng trời: mùa thu. Chim cũng là biểu tượng của các loại người:
chim sẻ - kẻ tiểu nhân, chim ưng - người quân tử. Chim biểu tượng tình u: un ương. Chim biểu
tượng hồ bình: bồ câu. Chim biểu tượng sự cao quý: phượng hoàng. Chim biểu tượng tuổi thọ: chim
hạc... Tín ngưỡng phồn thực cũng là một mã văn hố thể hiện tính bản địa của các nước nông nghiệp.
Phồn: cơ tốt, nhiều; thực: sinh nở con cái, sinh sơi nẩy nở. Tín ngưỡng này thể hiện ra trong các hoạt
động văn hoá theo hai phương thức: nghi lễ thờ cúng sinh thực khí nam nữ và tơn sùng hoạt động tính
giao. Tín ngưỡng đó thể hiện trong Mã (tín hiệu, biểu tượng) qua các hình thức: trịn – vng; âm –

dương; chẵn – lẻ; bánh chưng (tét) – bánh dày... Nó đi vào nghệ thuật bằng hình chạm khắc các ngẫu
tượng bằng đá hay bằng gỗ; các trò chơi như trò trám, rước nõ nường, đánh phết; đi vào văn học dân
gian với thần thoại về các đôi nam nữ thần như Nữ Oa – Tứ Tượng, Ông Đùng – Bà Đà, Ông Thu Tha –
Bà Thu Thiên, Ông Đực – Mụ Cái... mà các sinh thực khí của họ được đặc tả và phóng đại về kích
thước.
Tư duy của người nơng dân trồng lúa Việt Nam ln gắn với cái ăn. Nỗi lo đói kém mất mùa, lo nhất
là thiếu ăn, đói bụng khiến cái bụng trở thành đối tượng tư duy của người Việt Nam, họ thường lấy cái bụng
(dạ, lòng, ruột)làm thước đo mọi hiện tượng đời sống từ cụ thể đến trừu tượng: tốt - xấu, yêu - ghét, vui - buồn,
ác - thiện, suy nghĩ - hành động, thông minh - ngu dốt, trạng thái lo lắng, chờ đợi... Tốt bụng - xấu bụng,
sáng dạ - tối dạ, được lòng - mất lòng, hài lòng - bằng lòng - mếch lòng, phải lịng, nghĩ bụng, đau lịng,
nóng lịng, sốt ruột, suy bụng ta ra bụng người, khác máu tanh lòng, lòng lang dạ thú,... rồi từ bụng, lòng,
dạ, được gán cho mn vật trong thế giới tự nhiên: lịng sơng, lịng biển, lòng đất, lòng hồ, lòng súng, lòng
máng,... trong khi người Trung Quốc thường dùng chữ tâm (trái tim) để diễn đạt.
Từ văn hoá đến sự thể hiện nền văn hố đó có một khoảng cách khá lớn, trải qua một số khúc xạ,
một số lựa chọn tự nhiên trong tiếp nhận và thể hiện, vượt quá những cảm nhận cá biệt. Vì vậy, hầu như
khơng bao giờ mã văn hố được thể hiện tồn bộ hay rõ rệt như sự đồ chiếu văn hoá mà chỉ một số yếu
tố nổi trội, tập trung nhất của văn hoá được kết tinh trong các mã mà thơi.
Giải mã văn hố chính là giải mã các biểu tượng văn hoá. Biểu tượng đó có thể nhận thấy ở nhiều
lĩnh vực như tơn giáo tín ngưỡng, phong tục tập quán, văn học nghệ thuật, sinh hoạt cộng đồng, ẩm thực
– trang phục - y học dân tộc..., bởi nó là sự thể hiện quan niệm, tư tưởng, thái độ, tình cảm, truyền thống
một cộng đồng thông qua hệ thống biểu tượng. Giải mã văn hố vì vậy là một thao tác đầy khó khăn
nhưng cũng hết sức thú vị và hữu ích.
Nguồn : Tạp chí văn hóa nghệ thuật
Tài liệu tham khảo
* Tiếng Việt:
1. A.Ja. Gurievich, Các phạm trù văn hoá Trung cổ, Nxb. Giáo dục, H, 1996
2. Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, Nxb. Tổng hợp Đồng Tháp, 1990
3. Chu Xuân Diên, Cơ sở văn hố Việt Nam, Tp. Hồ Chí Minh xuất bản, 1999
4. Jean Chevalier, Alain Gheerbrant, Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới, Nxb. Đà Nẵng, Trường Viết văn
Nguyễn Du, 1997

5. Konrat, Phương Đông và phương Tây, Nxb. Giáo dục, H, 1997


6. Leopold Cadiere, Về văn hố và tín ngưỡng truyền thống người Việt, Nxb. Văn hố thơng tin, 1997
7. Hữu Ngọc (chủ biên), Từ điển văn hoá cổ truyền Việt Nam, Nxb. Thế giới, 1995
8. Phan Ngọc, Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn hố thơng tin, 2004
9. Nhiều tác giả Trung Quốc, Lịch sử văn hoá Trung Quốc, 2 tập, Nxb. Văn hố thơng tin, 1995
10. Nguyễn Minh San, Tiếp cận tín ngưỡng dân dã Việt Nam, Nxb. Văn hoá dân tộc, H, 1999
11. Almanach những nền văn minh thế giới (Nguyễn Hoàng Điệp biên tập). Nxb. Văn hố thơng tin, H, 1996
* Tiếng Anh:
1. Hajime Nakamura. The ways of thinking of Eastern peoples. Yushodo co. Ltd. Tokyo. Japan. 1988.
2. Helen Bauer and Sherwin Carlquist. Japanese Festivals. Charles E. Tuttle. co. Tokyo Japan. 1985


VĂN HĨA LÀ GÌ?
Nicolas Journet
Khái niệm văn hóa đang trở thành thơng dụng, nhưng định nghĩa của nó dường như bao giờ cũng
tuột khỏi chúng ta. Dù sao sự phát triển của nó cũng gắn chặt với sự phát triển của các khoa học về con
người.
Năm 1952, hai nhà nhân học Mỹ, Alfred Kroeber và Clyde Kluckhohn, trong một nỗ lực tìm hiểu,
đã cơng bố một cuốn biên soạn về những ý đồ định nghĩa khái niệm văn hóa – hay những khái niệm gần
gũi với nó – trong khoa học xã hội: họ tìm thấy khơng dưới 164 định nghĩa. Sự khác nhau của chúng
không chỉ là ở bản chất của định nghĩa đưa ra (bởi nội dung, chức năng, các thuộc tính), mà cả ở những
cách sử dụng tương đối rộng rãi của từ này. Theo A. Kroeber và C. Kluckhon, ít ra có hai cách sử dụng.
Một cách, thừa kế triết học thời Khai Sáng, gọi di sản học thức tính luỹ từ Thời Cổ mà các dân tộc
phương Tây tin chắc là đã dựng lên nền văn minh của họ trên đó, là “văn hóa”. Cách sử dụng kia,
chuyên về nhân học hơn, thì gọi là văn hóa “tồn bộ những tri thức, những tín ngưỡng, những nghệ thuật, những giá trị,
những luật lệ, phong tục và tất cả những năng lực và tập quán khác mà con người với tư cách thành viên của xã hội nắm bắt được”, theo
định nghĩa được coi là chuẩn do Edward B. Tylor đưa ra năm 1871.
Hai nghĩa này của từ văn hóa vẫn tiếp tục cùng tồn tại khá yên ổn qua những cách dùng hàng

ngày của chúng ta. Nhưng từ đầu thế kỷ XIX, khi dự án phát triển một khoa học về con người đã hình
thành, thì những ai đảm đương gánh nặng ấy đã phải chịu những bó buộc giống nhau: tìm hiểu cả tính
thống nhất lẫn tính đa dạng của giống người. ở đây, khái niệm văn hóa chiếm một vị trí ngày càng tăng
do đã đẩy ra khỏi trường khoa học khái niệm tơn giáo “linh hồn”, khái niệm chính trị “quốc gia” hay khái
niệm theo thuyết tự nhiên “chủng tộc”. Như vậy, sự vận động của các khoa học xã hội và nhân văn, trong
trường của chúng, có thể được đồng hóa với sự vận động đi lên của khái niệm văn hóa như là đối tượng
tri thức và thực thể độc lập, và có những cách giải thích riêng của nó.
Dù rất co dãn, khái niệm văn hóa mang theo một vài giả định căn bản. Giả định thứ nhất là văn
hóa đối lập với tự nhiên. Cái văn hóa trong con người là cái dường như khơng có ở những sinh vật khác:
tiếng nói có âm tiết, năng lực tượng trưng, sự hiểu biết. Nếu những khả năng ấy tạo thành cái riêng của
con người, thì đó khơng phải chỉ là chúng khơng có ở động vật mà cịn vì chúng được truyền đi theo
những con đường khác với tính di truyền: bằng luyện tập, tiếng nói, bắt chước, tất cả những gì mong
manh, dễ biến dạng và có thể đảo ngược mà tính di truyền sinh học và mã di truyền khơng thể có.
Văn hóa chống lại chủng tộc
Mới cách đây vài chục năm, thật thông thường khi đặt tên cho một cuốn sách có tính chất tộc
người học bằng công thức „Phong tục và tập quán của…‟, tiếp theo là tên một cư dân, không kể lớn nhỏ:
một nhóm, một tộc người, thậm trí dân cư một nước hay cả một lục địa. Ngày nay, người ta có lẽ sẽ viết
“Thử bàn về văn hóa của những…”. Đây khơng chỉ là một sắc thái. Bất chấp tính co dãn của nó, khái
niệm văn hóa thật ra chuyển tải những định nghĩa khác ngoài “phong tục” và “tập quán”. Trong nhân học,
nó được dựng lên khơng chỉ như một đối tượng tư duy với nội dung thay đổi qua thời gian, mà như một
công cụ phê phán: trước hết chống lại các lý thuyết chủng tộc, rồi chống lại thuyết tiến hóa. Năm 1871,
khi E.B.Tylor đề nghị định nghĩa văn hóa bằng một cơng thức phức hợp (“một tổ hợp tồn bộ gồm những tri thức,
những tín ngưỡng, nghệ thuật, luật pháp, phong tục và những năng lực hay tập quán khác do con người có được với tư cách thành viên của
xã hội”), thì từ quan trọng trong đó là “có được”. Làm như vậy, ơng đã bác bỏ cách nhìn chung đối với những

mơ tả chủng tộc, coi nguồn gốc của “phong tục và tập quán của những dân dã man nhất là cấu tạo thể
chất của họ, là ảnh hưởng của khí hậu đối với cấu tạo này hay đối với cấu trúc đơn giản nhất mà được
giả định của bộ não họ. Ông đã dứt khốt phá bỏ sự liên kết dù cịn mờ mịt, nhưng đã cắm sâu vào đầu
những nhà nhân học “thể chất”, giữa “chủng tộc” và “phong tục”. Hơn thế nữa, chỉ riêng việc gán một nền
„văn hóa” cho tất cả các dân đáng được quan sát cũng đã phá bỏ sự phân chia thế giới thành những dân

“văn minh”. một bên, và những dân “tự nhiên”, một bên khác. Một cách đơn giản hơn, E.B.Tylor đã đặt
những cột mốc lấy văn hóa làm thuộc tính chung cho cả lồi người.
Tuy nhiên, giống với nhiều người khác vào thời ông, E.B.Tylor vốn là một người theo thuyết tiến
hóa: tính đa dạng của các văn hóa đối với ơng là một bảng danh mục những tàn tích của một lịch sử tiến


bộ lâu dài đưa tới nền văn minh hiện đại. Như vậy, tất cả các “văn hóa” khơng phải ở cùng một giai đoạn:
giống như đối với Lewis H.Morgan hay Robert Lowie, những người cùng thời với ơng, đã có những văn
hóa “hoang dã”, “man dã” và “văn minh”. Chúng không ngang nhau trước lịch sử, và sự phân chia ấy đã
trải qua một con đường dài, vượt xa cả các lý thuyết tư biện làm chỗ dựa cho chúng: khái niệm “xã hội
nguyên thuỷ” đã tiếp tục sống sau khi văn hóa tìm được khái niệm cân bằng với nó (tức “Văn hóa nguyên
thuỷ” – BT) trong động thái tiến bộ thế giới.
Tầm quan trọng của khái niệm văn hóa cịn tăng thêm khi vào năm 1896, chun gia về các xã hội
da đỏ châu Mỹ Franz Boas tấn cơng vào những cách nhìn so sánh của những người theo thuyết tiến
hóa. Ơng thấy là q đáng khi đặt các văn hóa trên một thang văn minh và thậm chí so sánh chúng với
nhau. Đối với ơng, mỗi xã hội phải được xem xét từ bản thân nó, trong số phận của nó và do đó, văn hóa
của nó chỉ có thể dựa vào tính riêng biệt của nó đối với một nhóm người nào đó, thậm chí như người ta
viết hiện nay, căn tính của nó. Và từ cách nhìn kinh nghiệm ấy đẻ ra, một cách trực tiếp nhiều hơn hay ít
hơn, hai cách dự định nghiên cứu văn hóa khác: „chủ nghĩa duy văn hóa” Mỹ và “chủ nghĩa chức năng”
Anh.
Văn hóa để làm gì?
Trong nhiều biến thể về ý nghĩa mà từ “văn hóa” gánh lấy, có một biến thể được thể hiện bằng
thành ngữ “có văn hóa”. ở thế kỷ XX, “có văn hóa” là nắm được tri thức văn học, nghệ thuật và khoa học.
Nhưng trong những bối cảnh khác, văn hóa khơng chỉ có nghĩa là tri thức. Thậm chí cịn ngược hẳn lại,
đó là một ứng xử khơng thể giải thích được, như khi người ta khẳng định rằng “đến chậm những cuộc hị
hẹn là một nét văn hóa Latin”. Tóm lại, ngay cả khi mọi văn hóa đều mang một phần tri thức, thì chủ yếu
đó là tri thức ấy là đối tượng của một niềm tin có ý thức nhiều hay ít, do nó đóng vai trị “văn hóa” và
quyết định hành động.
Như nhà nhân học Roy d‟Andrade nhấn mạnh, có một văn hóa khơng có nghĩa như có một hiểu
biết về nội dung của văn hóa ấy. Chẳng hạn, một người Âu có thể biết thế nào là “bỏ vợ” nhưng việc bỏ

vợ ấy không phải là một phần văn hóa của anh ta. Nói cách khác, mối quan hệ giữa một người với văn
hóa của anh ta không chỉ là một mối quan hệ tri thức: trong trường hợp này, nó mang một phần của sự
đánh giá, của cái đã trải qua, của thái độ đối với việc “bỏ vợ”. Mặt khác, bỏ vợ không chỉ là một qui tắc
cho phép một người đàn ông tống cổ vợ khỏi cửa. Thể chế này được bao bọc một tập hợp những biểu
tượng về các quan hệ giữa các giới tính, về sự thống trị của nam giới. Tóm lại khơng được lầm lẫn khái
niệm văn hóa với tổng số những tri thức được một nhóm người nào đó chia sẻ. Nếu hiểu như vậy thì văn
hóa là một tác động tới cái cách mà chúng ta suy nghĩ và hành động. Do đó, văn hóa có nhiều chức năng
mà về chi tiết có thể nêu lên như sau:
- Chức năng “biểu tượng”: mọi văn hóa chuyển tải tổng số quan trọng những tri thức và tín ngưỡng
đối với thế giới bao quanh ta, cũng như cái cách thế giới ấy vận hành và biến đổi;
- Chức năng xây dựng: văn hóa làm tồn tại những thể chế như hôn nhân, tiền bạc, luật pháp, ngôn
ngữ mà chúng ta chấp nhận (hay không chấp nhận) những hệ quả của chúng.
- Chức năng hướng dẫn: bằng cách nhập tâm, văn hóa thúc đẩy chúng ta tới chỗ tuân theo những
chuẩn mực hành vi. Sự tuân theo ấy gắn liền với nhiều kiểu khen thưởng: cá nhân, đạo đức, xã hội.
- Chức năng gợi ý (évocative): đối mặt với các sự kiện, văn hóa của chúng ta làm cho chúng ta
cảm nhận những tình cảm, thể hiện những thái độ, do đó, mọi yếu tố văn hóa đều mang những xúc cảm.
Những xúc cảm này có thể là tự nhiên, nhưng cái cách chúng ta sống (bằng cách che giấu chúng hay
giải thốt chúng) cũng liên hệ với văn hóa chúng ta.
Việc thử định nghĩa rất rộng này về văn hóa và về tất cả những gì được gán cho nó đưa tới chỗ
làm cho văn hóa trở thành một hiện thực tinh thần hơn là vật chất; nó khơng chỉ nằm ở các đồ vật, các
thiết bị, các tượng trưng, mà còn ở các biểu tượng cố định trong các nào chúng ta. Tuy nhiên, đó khơng
phải là những “nhận thức” đơn giản, mà là một tập hợp những biểu tượng huy động “tồn bộ đời sống tâm
thần”, từ trí tuệ đến hành động, từ suy luận đến xúc cảm, như R. d‟Andrade viết.


Điều đó có hệ quả là có nhiều góc nhìn hồn tồn thích hợp để có thể mơ tả cái chúng ta hiểu là
văn hóa: từ những đồ vật nó chứa đựng (các tác phẩm, các tri thức, các tín ngưỡng v.v…), từ những thể
chế và chuẩn mực được nó sử dụng, hoặc từ những thiết bị và những ứng xử do nó cai quản.
Nguồn: Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật



VĂN HĨA VÀ VĂN MINH
N.V.SISOVA
Hồng Vinh (dịch)

Nếu văn hóa xác định con người ở thước đo sự phát triển của nó, ở các phương thức tự
biểu hiện trong các dạng hoạt động khác nhau, thì khái niệm văn minh xác định sự tồn tại
xã hội của bản thân văn hóa. Nền văn minh của thế giới hiện đại không phải là điểm xuất
phát, mà là kết quả của quá trình tiến hóa phức tạp, lâu dài của những nền văn minh địa
phương riêng lẻ đầu tiên, trong đó có những nền văn minh đã bị hủy hoại, bị tiêu diệt một
cách thảm hại.

1. Cặp thuật ngữ văn hóa và văn minh liên quan đến một trong những khái niệm đa nghĩa nhất với nhiều
cách giải thích khác nhau. Thoạt đầu từ văn hóa xuất hiện trong tiếng La tinh, có nghĩa là vun trồng đất
đai, lao động nông nghiệp. Về sau, từ này có một nghĩa bao quát hơn. Nhà hùng biện La Mã, đồng thời là
nhà triết học M.Xixêron trong cuộc trao đổi với Tutxculan (năm 45 trước công nguyên) đã gắn văn hóa
với sự tác động đến hoạt động trí tuệ của con người, với cơng việc của nhà triết học. Ơng cho rằng: triết
học là văn hóa (sự vun trồng) tâm hồn. Tiếp đó, người ta bắt đầu hiểu từ văn hóa có nghĩa là sự khai trí,
giáo dục và trình độ học vấn của con người; theo nghĩa này từ văn hóa thâm nhập vào hầu hết ngơn ngữ
các nước ở châu Âu, trong đó có nước Nga. Trong tác phẩm Văn hóa, sự hình thành, biến đổi khái niệm,
sự thay thế khái niệm từ M.Xixêron đến Hécđerơ, I.Niđécman đã chỉ ra rằng, nghĩa của từ này đã thay
đổi. Bắt đầu từ thế kỷ XVII, trong tư tưởng Khai sáng ở nước Đức (X.Puphenđoócphơ) khái niệm văn
hóa đã được sử dụng với nghĩa rộng rãi hơn - đó là tất cả những gì do con người tạo ra, tồn tại bên cạnh
thiên nhiên trinh nguyên, chưa có sự động chạm của con người.
Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4

Vào các thế kỷ XVII-XVIII thuật ngữ văn hóa mới mang ý nghĩa của một khái niệm khoa học. Trong khoa
học thời cận đại đã ra đời một quan niệm cho rằng: giữa thiên nhiên và nhân cách tồn tại một thế giới
đặc biệt của hoạt động người, thế giới đó được gọi là văn hóa.
Ngày nay, khoa học về văn hóa đã hình thành nên hơn 300 định nghĩa, điều đó chứng tỏ rằng có nhiều

cách tiếp cận khác nhau trong nghiên cứu văn hóa.
Từ cuối thế kỷ XIX, trường phái nhân học văn hóa của Hoa Kỳ (Franz Boas, A.Kroeber, M.Mead…) đã có
ảnh hưởng rất lớn. Trong trường phái này vấn đề được đặt lên hàng đầu là động học phát triển của văn
hóa và các cơ chế truyền đạt văn hóa đi qua các thế hệ.
Trong khn khổ của nhân học văn hóa Hoa Kỳ đã sản sinh ra khái niệm phương pháp giao lưu tiếp biến
như là quá trình tiếp xúc giữa các nền văn hóa, mà kết quả của những cuộc tiếp xúc này đã làm biến đổi
các hệ thuyết (paradigms) văn hóa (F.Herskovits, J.Menvin, Ơ.ốttenbécgơ). Theo phương pháp này, sự
khác biệt văn hóa giữa các cộng đồng tộc người sẽ được san bằng qua những cuộc tiếp xúc liên tục và
trực tiếp.
Vào đầu thế kỷ XX, lý thuyết nhân học xã hội (trường phái chức năng) của các nhà dân tộc học và xã hội
học người Anh là B.Malinowski và Radeliffe Brown đề ra khái niệm cấu trúc xã hội. Malinốpxki đã phân
tích ý nghĩa của các thiết chế xã hội và ảnh hưởng của chúng đối với sự kiểm tra và điều tiết hành vi con
người. Nhờ sự hỗ trợ của phương pháp chức năng, ơng đã miêu tả những hình thái khác nhau của sự
tương tác xã hội và đã sử dụng khái niệm văn hóa như là một tổng thể thiết yếu của các hệ thống xã hội
tương liên. Nguyên lý chức năng luận cho phép xem xét văn hóa như một hệ thống chỉnh thể nội tại,
được tạo ra từ tổ hợp của những yếu tố cần thiết, gắn liền bằng các mối quan hệ phụ thuộc vào nhau về
mặt chức năng. Mỗi nền văn hóa khi trở thành bậc thang của trình độ phát triển văn hóa chung, nó sẽ
khơng cịn tương quan với các nền văn hóa khác nữa.
Thuyết chức năng đã góp phần làm giàu cho ngành dân tộc học bằng tri thức về các nền văn hóa của
các dân tộc cổ đại. Nhưng hạn chế của lý thuyết này biểu hiện ở chỗ, khi phủ nhận sự tiến hóa về xã hội


×