ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
----------
PHÁT TRIỂN NÔNG THƠN
CHỦ ĐỀ : PHÂN TÍCH VAI TRỊ CỦA CÁC THÀNH PHẦN
KINH TẾ TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG THÔN
GVHD
: Huỳnh Viết Thiên Ân
Lớp
: 44K20.2_Nhóm 8
Thành viên: Nguyễn Phương Duyên
Bùi Nhật Long
Dương Thị Mỹ
Lê Nhật Minh
Trần Thị Nga
Noy Panyathip
Đà Nẵng, 09/2021
Phát triển nơng thơn_44K20.2_Nhóm 8
MỤC LỤC
1. Giới thiệu các thành phần kinh tế trong phát triển nơng thơn..................................3
1.1
Hộ gia đình.......................................................................................................3
1.2
Hợp tác xã........................................................................................................4
1.3
Doanh nghiệp Nhà nước...................................................................................4
1.4
Khu vực tư nhân...............................................................................................4
2. Vai trò của các thành phần kinh tế trong phát triển nông thơn.................................5
2.1
Hộ gia đình.......................................................................................................5
2.2
Hợp tác xã........................................................................................................8
2.3
Doanh nghiệp Nhà nước.................................................................................12
2.4
Khu vực tư nhân.............................................................................................13
3. Liên hệ thực tiễn...................................................................................................15
3.1
Thực tiễn trong nước......................................................................................15
3.2
Thực tiễn nước ngoài......................................................................................22
Tài liệu tham khảo.......................................................................................................27
Bảng đánh giá thành viên.............................................................................................28
2
Phát triển nơng thơn_44K20.2_Nhóm 8
1. Giới thiệu các thành phần kinh tế trong phát triển nơng thơn
1.1 Hộ gia đình
Khái niệm
a. Hộ gia đình
Có rất nhiều khái niệm về hộ gia đình được đưa ra:
The Haris, ở viện nghiên cứu phát triển trường Đại học tổng hợp Susex (London-Anh)
cho rằng: “Hộ là một đơn vị tự nhiên tạo nguồn lao động”.
Theo Raul Iturna, giáo sư trường đại học tổng hợp Liơbon khi nghiên cứu cộng đồng
nơng dân trong q trình quá độ ở một số nước châu Á đã chứng minh “Hộ là một tập
hợp những người cùng chung huyết tộc có quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình
sáng tạo ra vật phẩm để bảo tồn chính bản thân họ và cộng đồng”
Qua các quan điểm khác nhau về khái niệm hộ trên, có thể rút ra một số đặc trưng về
hộ:
Một hộ có thể chỉ bao gồm một cá nhân hay nhiều thành viên có hoặc khơng có quan
hệ huyết thống với nhau. Hộ có thể là gia đình hạt nhân, một gia đình mở rộng hay
một đại gia đình, Tóm lại, một hộ có thể có nhiều gia đình hoặc khơng có một gia đình
nào cả, ngược lại, một gia đình có thể trải rộng thành nhiều hộ. Thơng thường, gia đình
và hộ trùng lên nhau, tạo thành tên gọi “Hộ gia đình”. Mỗi hộ gia đình ở Việt Nam
hiện nay đều có sổ đăng ký hộ khẩu, trong đó ghi rõ số nhân khẩu, chủ hộ và quan hệ
giữa các thành viên với chủ hộ.
b. Kinh tế hộ gia đình
Kinh tế gia đình nói chung, hay kinh tế hộ gia đình nơng nghiệp ở nơng thôn được
thực hiện quyền tự chủ và được quan tâm, khuyến khích phát triển dưới hình thức hợp
tác xã và các hình thức liên kết khác.
Kinh tế gia đình là một hình thức sản xuất có sớm, xuất hiện từ khi gia đình được hình
thành. Ngày nay, hình thức sản xuất này đang chịu nhiều tác động và cũng đang tự
chuyển mình để trở thành một thành phần kinh tế của xã hội phát triển – xã hội công
3
Phát triển nơng thơn_44K20.2_Nhóm 8
nghiệp và xã hội hậu cơng nghiệp. Vì lẽ đó, cần tìm hiểu quyền tồn tại để nhận diện vị
trí và vai trị của nó trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế
thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.2 Hợp tác xã
Khái niệm
"Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 07
thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất,
kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự
chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã.
Liên hiệp hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do
ít nhất 04 hợp tác xã tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu chung của hợp tác xã thành viên,
trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý liên hiệp
hợp tác xã.
Khi hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phát triển đến trình độ cao hơn thì sẽ hình thành
các doanh nghiệp của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; doanh nghiệp của hợp tác xã,
liên hiệp hợp tác xã hoạt động theo Luật doanh nghiệp" (Theo Luật Hợp tác xã năm
2012)
1.3 Doanh nghiệp Nhà nước
Khái niệm
Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ
hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức cơng ty nhà nước,
cơng ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. Doanh nghiệp Nhà nước thường phải
chịu trách nhiệm của xã hội, hoạt động vì lợi ích của người dân, được thành lập để đối
phó với những thất bại của nền kinh tế.
1.4 Khu vực tư nhân
Khái niệm
4
Phát triển nơng thơn_44K20.2_Nhóm 8
Khu vực tư nhân là khu vực kinh tế gồm các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh
không dựa trên sở hữu nhà nước về các yếu tố của quá trình sản xuất, mà thuộc sở hữu
tư nhân, tồn tại dưới các hình thức như: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty cổ phần và các hộ kinh doanh cá thể…
2. Vai trò của các thành phần kinh tế trong phát triển nơng thơn
2.1 Hộ gia đình
Trong hình thức kinh tế tự nhiên, sản phẩm làm ra chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu thiết
yếu trong nội bộ những người sản xuất; người sản xuất tự quyết định về loại hình sản
phẩm, số lượng sản phẩm. Sự trao đổi sản phẩm chỉ bó hẹp trong phạm vi những
người cùng sản xuất dưới hình thức đơn giản nhất. Của cải vật chất có dự thừa đều
phải thực hiện nghĩa vụ đóng góp cho cộng đồng, xã hội dưới các hình thức khác nhau
của mỗi chế độ.
Tính thị trường của nền kinh tế tự nhiên tuy có, nhưng hết sức mờ nhạt, chủ yếu vẫn
mang tính trao đổi đơn giản. Phân cơng lao động xã hội trong hình thức sản xuất tự
nhiên chưa phát triển, vì thế cũng chưa xuất hiện tình trạng cạnh tranh. Trong nền kinh
tế sản xuất hàng hóa, sản phẩm được sản xuất ra không chỉ để đáp ứng nhu cầu cho
người sản xuất, mà còn để trao đổi nhằm thỏa mãn nhu cầu không ngừng gia tăng của
người tiêu dùng, của xã hội.
Sự trao đổi sản phẩm dần dần được tách ra, độc lập với quá trình sản xuất và được
thực hiện thơng qua thị trường. Vì lẽ đó, việc sản xuất cái gì? Sản xuất phục vụ ai? Sản
xuất bao nhiêu và như thế nào? Đều do cơ chế thị trường quyết định với sự can thiệp
của các quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị và giá cả thị trường.
Phát triển kinh tế hộ gia đình ở Việt Nam thực hiện bước chuyển đổi từ nền kinh tế tự
cung tự cấp hàng thế kỷ nay, nhưng tiến trình diễn ra rất chậm chạp và sự chuyển tiếp
là việc thực hiện nền kinh tế kế hoạch tập trung theo cơ chế bao cấp kéo dài suốt mấy
chục năm qua.
Do nhưng đặc điểm địa lý tự nhiên và thiếu trình độ, kiến thức, kinh nghiệm quản lý
nền kinh tế thị trường nên mặc dù trong những năm qua kinh tế đất nước tuy có tăng
trưởng, nhưng phát triển khơng đồng đều giữa các vùng. Bên cạnh sự phát triển kinh tế
5
Phát triển nơng thơn_44K20.2_Nhóm 8
sản xuất hàng hóa đang diễn ra ở các đô thị và các tỉnh đồng bằng, vẫn tồn tại các hình
thức sản xuất cịn biểu hiện của nền kinh tế tự cung tự cấp (kinh tế tự nhiên) ở các
vùng cao, vùng sâu, vùng xa.
Thực chất sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường không chỉ là sự thay đổi hình thức
kinh tế vĩ mơ mà còn thay đổi cả hệ thống kinh tế vi mơ. Đó là sự thay đổi phương
thức hoạt động, thay đổi hình thức tổ chức của các đơn vị kinh tế, trực tiếp sản xuất ra
của cải, vật chất của xã hội.
Trước đây, các tổ chức kinh tế mang các tên gọi khác nhau: nhà máy, xí nghiệp, cơng
ty, cửa hàng, hợp tác xã, cá thể, tư nhân,… Ngày nay trong cơ chế thị trường, các đơn
vị tham gia vào hoạt động sản xuất, kinh doanh đều được thống nhất chung với tên gọi
là Việt Nam.
Hiện nay ở nước ta có các loại hình doanh nghiệp với các thành phần chủ sở hữu như
sau: cá nhân, nhóm kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân, công ty (công ty trách nhiệm
hữu hạn, cơng ty cổ phần), hợp tác xã, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi và kinh
tế hộ gia đình. Kinh tế hộ gia đình là một loại kinh tế tương đối phổ biến và được phát
triển ở nhiều nước trên thế giới. Có vai trị quan trọng trong việc phát triển kinh tế,
nhất là nông nghiệp ở Việt Nam, kinh tế hộ gia đình lại càng có ý nghĩa to lớn, bởi vì
nước ta bước vào nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị
trường trên nền tảng gần 75% dân số đang sinh sống ở nông thôn (căn cứ vào báo cáo
của tổng cục thống kê năm 2015) và điểm xuất phát để tạo cơ sở vật chất tiến hành
cơng nghiệp hóa hiện đại hóa lại đi từ nền kinh tế chủ yếu dựa vào sản xuất nông
nghiệp, quản lý theo kế hoạch hóa tập trung, bao cấp.
Mặc dù khơng phải là một thành phần kinh tế nhưng kinh tế hộ đình là một loại hình
để phân biệt với các hình thức tổ chức kinh tế khác. Một trong các thành viên của kinh
tế hộ gia đình đồng thời là chủ hộ. Trong hoạt động kinh tế, gia đình có thể tiến hành
tất cả các khâu của quá trình sản xuất và tái sản xuất. Chủ hộ điều hành tồn bộ mọi
q trình sản xuất kinh doanh và chịu trách nhiệm vô hạn về mọi hoạt động của mình.
Ở nước ta, kinh tế hộ gia đình phát triển chủ yếu ở nơng thơn, thường được gọi là kinh
tế hộ gia đình nơng dân, ở thành thị thì gọi là các hộ tiểu thủ cơng nghiệp. Hiện nay, tại
một số địa phương đã hình thành các trang trại gia đình có quy mơ sản xuất và kinh
6
Phát triển nơng thơn_44K20.2_Nhóm 8
doanh tương đối lớn. Xu hướng này đang có nhiều hướng phát triển và mở rộng ra trên
phạm vi tồn quốc. Các cá nhân và nhóm kinh doanh trong các lĩnh vực như vận tải,
xây dựng, thương mại dịch vụ và các ngành nghề tiểu thủ cơng nghiệp, kinh doanh.
Như trên đã phân tích, kinh tế hộ gia đình tập trung chủ yếu ở khu vực sản xuất nông
nghiệp. Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2015 theo giá so sánh 2010
ước tính đạt 858,4 nghìn tỷ đồng, tăng 2,6% với năm 2014, bao gồm: Nơng nghiệp đạt
637,4 nghìn tỷ đồng, tăng 2,3%; lâm nghiệp đạt 26,6 nghìn tỷ đồng, tăng 7,9%; thủy
sản đạt 194,4 nghìn tỷ đồng, tăng 3,1% (theo báo cáo của tổng cục thống kê). Vì vậy,
chính sách khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình của Đảng và Nhà nước ta thực
chất là việc thực hiện phát triển một cách hợp lý các hình thức sản xuất và kinh doanh
trong nơng nghiệp.
Đây là loại hình kinh tế phổ biến nhất ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Tùy theo đặc
điểm, tính chất của từng khu vực, từng địa bàn, cần phân loại các hộ gia đình theo
trình độ sản xuất hàng hóa, khả năng tự chủ trong kinh doanh, mức độ đa dạng hoa
trong hoạt đông kinh tế để có những biện pháp hỗ trợ thích hợp. Hộ gia đình có nhiều
ưu thế, nhưng cũng có nhiều khó khan, hạn chế về nhiều mặt. Việc tác động của nhà
nước, kết hợp với sự liên kết hỗ trợ hướng dẫn của các doanh nghiệp nhà nước, các
hợp tác xã… là cần thiết.
Xem xét đến vấn đề kinh tế nói chung, hay kinh tế hộ gia đình nói riêng không thể
không đề cập đến vấn đề tiêu dùng. Tiêu dùng là hành vi tất yếu và thường xuyên của
con người nhằm thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần của cá nhân, cộng
đồng, của toàn xã hội. Mức độ tiêu dùng có thước đo và được chi phối bởi yếu tổ thu
nhập thực tế tính theo đầu người. Do kết quả của sự chi phối, giao lưu kinh tế quốc tế
trong việc thực hiện chính sách mở cửa, những năm qua nền kinh tế thị trường đa
thành phần ở nước ta có những bước tăng trưởng đáng kể, nhưng đồng thời cũng kéo
theo sự gia tăng nhu cầu tiêu dùng cả về vật chất lẫn tinh thần.
Sự gia tăng về nhu cầu tiêu dùng là quy luật tự nhiên và đáng khuyến khích. Tuy
nhiên, trong trường hợp kinh tế kém phát triển như ở nước ta, chưa thể có mức tiêu
dùng bình qn cao được. Hiện nay, có hiện tượng một bộ phận hộ gia đình thu nhập
cao, tập trung ở thành thị, mức sống và nhu cầu tiêu dùng chênh lệch cao gấp nhiều lần
7
Phát triển nơng thơn_44K20.2_Nhóm 8
so với những hộ dân sống ở nông thôn. Đây là vấn đề cần được quan tâm để giải quyết
thực hiện tính cơng bằng trong phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Xóa đói giảm nghèo, tình trạng thất nghiệp, phân công lao động và giải quyết
việc làm, thực tế hộ gia đình là những vấn đề cần được đề cập trong nghiên cứu về
chính sách liên quan tới lĩnh vực gia đình.
2.2 Hợp tác xã
Về mặt chính trị
HTX nơng nghiệp về bản chất là một tổ chức kinh tế của người dân thuần tuý chứ
không phải là một tổ chức chính trị, xã hội. Nó khơng theo đuổi các mục tiêu chính trị
và cũng khơng có nhiệm vụ chính trị. Nó chỉ theo đuổi thuần tuý mục tiêu lợi ích kinh
tế của các thành viên. Tuy nhiên vì nó là một tổ chức gồm nhiều thành viên, số lượng
có thể lên tới vài nghìn người tại một địa bàn nên trên thực tế có vai trị to lớn ở địa
phương và do vậy cũng có ý nghĩa chính trị nhất định. Thêm nữa, đó là một tổ chức
dân chủ. Do vậy, nếu tổ chức này hoạt động và phát triển tốt, nó góp phần tích cực
quan trọng vào việc ổn định trật tự, an ninh chính trị, xã hội. Cịn ngược lại, nó cũng sẽ
có những tác động xấu tới ổn định trật tự, an ninh chính trị, xã hội, đặc biệt khi các
HTX nông nghiệp này tan rã sẽ làm mất ổn định trật tự chính trị xã hội. Mặc dù khơng
mang nhiệm vụ chính trị nhưng do ý nghĩa chính trị của nó mà chúng ta cần phải tạo
điều kiện để các HTX nông nghiệp này hoạt động tốt, lành mạnh, góp phần thực hiện
thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của Nhà nước.
Về mặt kinh tế
HTX nông nghiệp là một tổ chức kinh tế nên như mọi tổ chức kinh tế khác, nó tham
gia vào các hoạt động kinh tế và đem lại lợi ích kinh tế cho thành viên, xã hội và Nhà
nước, góp phần tích cực vào cơng cuộc phát triển kinh tế ở địa phương, đặc biệt thơng
qua hoạt động cho vay tín dụng của nó làm địn bẩy cho nền kinh tế phát triển. Với tư
cách là một HTX nông nghiệp, các HTX nông nghiệp là kênh dẫn vốn, huy động vốn
quan trọng tạo huyết mạch cho nền kinh tế, đặc biệt ở các vùng điều kiện phát triển
kinh tế còn nhiều khó khăn, hạn chế. Với ý nghĩa này, các HTX nông nghiệp xứng
đáng được Nhà nước quan tâm vun đắp, giúp đỡ để chúng làm tốt nhiệm vụ của nó,
góp phần phát huy tiền năng trong nhân dân thúc đẩy kinh tế phát triển.
8
Phát triển nơng thơn_44K20.2_Nhóm 8
Về mặt xã hội
HTX nơng nghiệp tuy không phải là một tổ chức xã hội nhưng là một tổ chức có đơng
thành viên, thu hút đa phần cá nhân và hộ gia đình tại một địa phương tham gia nên rất
có ý nghĩa về mặt xã hội. HTX nơng nghiệp phát triển góp phần duy trì và nâng cao
mức sống của thành viên – những người chịu thiệt thịi, thua thiệt trong cuộc cạnh
tranh nên có ỹ nghĩa xã hội to lớn. Nó góp phần duy trì và ổn định trật tự xã hội trên
địa bàn, đặc biệt thông qua các hoạt động kinh doanh và sinh hoạt của HTX nông
nghiệp. Các mối quan hệ xã hội trên các giá trị tinh thần đồn kết, tình làng nghĩa
xóm, tương thân tương ái, giúp đỡ lẫn nhau thơng qua HTX nơng nghiệp được duy trì,
củng cố và phát huy. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của HTX nơng
nghiệp vì thế cần được gìn giữ và tôn trọng để các giá trị về đạo đức, xã hội của HTX
nông nghiệp được bảo tồn và phát huy, góp phần tạo ra một xã hội dân chủ, cơng bằng,
văn minh và phồn thịnh.
Về mặt văn hố
HTX nông nghiệp cũng như các doanh nghiệp khác mang những nét văn hố riêng của
mình. Tuy nhiên, do HTX nơng nghiệp là tập hợp của một tập thể các cá nhân, con
người nên nó đặc biệt coi trọng sự tham gia về cá nhân của những con người và
khuyến khích sự phát huy năng lực cá nhân, sự tích cực tham gia vào hoạt động chung
của tập thể như tham gia quản lý, tham gia điều hành. Những giá trị về bình đẳng nam
nữ, bình đẳng giai cấp, khơng phân biệt đối xử… mang giá trị nhân văn cao ở các
HTX nơng nghiệp. Các giá trị văn hố, nhân văn đó được thường xun thể hiện và
duy trì trong các hoạt động của HTX nông nghiệp và các sinh hoạt của tổ chức này. Đó
là các hoạt động kinh doanh đơn thuần cũng như các hoạt động văn hoá đối ngoại, tài
trợ cho các hoạt động văn hoá của địa phương. Đó là các cuộc họp, Đại hội như các
các sinh hoạt, sự kiện trọng đại ở địa phương. Hoạt động của HTX nơng nghiệp rất gắn
bó với người dân địa phương và cũng trở thành yếu tố tinh thần khơng thể thiếu được
của địa phương. Những nét văn hố, truyền thống tốt đẹp của dân tộc như tinh thần
đoàn kết, tương thân tương ái .v.v.. được tiếp tục duy trì, chăm sóc và phát triển trong
9
Phát triển nơng thơn_44K20.2_Nhóm 8
các HTX nơng nghiệp. Với ý nghĩa văn hố đầy tính nhân văn khác hẳn so với các tổ
chức kinh tế khác thì các HTX nơng nghiệp quả thực cần đáng được đề cao.
Đối với các thành viên
Vì mơ hình HTX xuất phát và hình thành hoàn toàn trên tinh thần tự nguyện, tương
thân, tương ái giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên nên HTX nông nghiệp là tổ chức
liên kết hợp tác của bản thân các thành viên. Các thành viên giúp đỡ được lẫn nhau
thơng qua việc hợp tác này. Nếu nhìn vào điều kiện lịch sử trong quá trình hình thành
và phát triển của mơ hình HTX nơng nghiệp, ta thấy ý nghĩa của nó ở chỗ là một mơ
hình tự cứu mình, tránh được sự bần cùng hố cho các thành viên. Thơng qua HTX
nơng nghiệp mà các thành viên có thể tương trợ, giúp đỡ được cho nhau, tự cứu được
lấy mình, trước khi mất hết những cơ sở kinh tế để tồn tại nếu không hợp tác lại với
nhau. Nếu các thành viên có điều kiện tiếp cận với các loại thị trường (thị trường
nguyên, nhiên, vật liệu đầu vào, thị trường dịch vụ, sản phẩm đầu ra) nhờ có mơ hình
kinh tế HTX nói chung thì thơng qua mơ hình HTX nơng nghiệp nói riêng, các thành
viên đã có điều kiện tiếp cận với các sản phẩm và dịch vụ của thị trường tín dụng,
ngân hàng. Điều mà họ do địa bàn sinh sống bất lợi, tài sản nghèo nàn .v.v.. hầu như
khơng bao giờ có được nếu chỉ trông chờ vào Nhà nước hay sự hỗ trợ khác mà khơng
tự tổ chức lấy cho mình những tổ chức kinh tế hợp tác. Như vậy các thành viên sẽ
được hưởng các sản phẩm và dịch vụ mà tổ chức tín dụng hợp tác của họ tạo ra và
cung cấp một cách kịp thời, thuận tiện với một mức giá cả chấp nhận được với tư cách
là khách hàng. Thành viên cũng sẽ được tư vấn, cung cấp thông tin, trao đổi kinh
nghiệm thơng qua HTX nơng nghiệp vì đó cũng thường là nơi tập hợp kiến thức, hiểu
biết, kinh nghiệm làm ăn của cả địa phương. Họ sẽ tự tạo ra được công ăn việc làm
cho bản thân và có thể cịn cho cả địa phương nữa. Họ cũng được hưởng những quyền
lợi từ HTX nông nghiệp với tư cách là chủ sở hữu như được chia cổ tức, được quyền
tham gia biểu quyết, quyết định các chính sách kinh doanh của HTX nông nghiệp
thông qua các bộ máy, cơ quan lãnh đạo để HTX nông nghiệp ngày càng phục vụ họ
đắc lực và tốt hơn. Qua sự hỗ trợ này mà các hoạt động kinh tế, sản xuất, kinh doanh
của các thành viên đã được hỗ trợ thiết thực, cuộc sống của họ được cải thiện rõ rệt và
có những tích luỹ. Trước đây, khi chưa có mơ hình này, nếu từ hoạt động kinh tế của
bản thân, họ không thể tạo ra lợi nhuận hoặc chỉ tạo ra ít lợi nhuận thì nay, trong sự
10
Phát triển nơng thơn_44K20.2_Nhóm 8
hợp tác, họ được hỗ trợ và có điều kiện tạo ra nhiều lợi nhuận hơn. Đó chính là ý nghĩa
to lớn của mơ hình kinh tế hợp tác nói chung và mơ hình HTX nơng nghiệp nói riêng.
Các HTX nơng nghiệp chính vì thế có vai trị bảo đảm và duy trì sự độc lập về kinh tế
và cơ sở kinh tế để tồn tại và phát triển của các thành viên.
Đối với địa phương
Mô hình HTX nơng nghiệp ra đời sẽ cung cấp các dịch vụ tín dụng, ngân hàng cho dân
cư trên địa bàn hoạt động. Bất kể người dân nào cũng sẽ được hưởng các sản phẩm,
dịch vụ của HTX nông nghiệp với tư cách là khách hàng. Qua hoạt động của HTX
nơng nghiệp, ý thức tiết kiệm và tích luỹ của người dân được nâng cao. Những đồng
vốn nhàn rỗi được huy động để đưa vào đầu tư phục vụ cho phát triển, giảm sự lãng
phí tài nguyên cũng như tạo ra sự phồn vinh cho xã hội. HTX nông nghiệp vừa là
người quản lý tài sản của thành viên, dân cư, vừa là nhà đầu tư trên địa bàn. Đó cũng
là nơi học nghề cho nhiều người. Trình độ và nhận thức của người nhân trên địa bàn
cũng sẽ được nâng cao thông qua các hoạt động tư vấn, thông tin của bản thân HTX
nơng nghiệp, góp phần nâng cao trình độ dân trí tại địa phương. Khi địa phương có
HTX nơng nghiệp hoạt động, nạn cho vay nặng lãi lập tức bị đẩy lùi tiến tới xoá sổ.
Những ý nghĩa về xã hội như góp phần, xố đói giảm nghèo, hỗ trợ địa phương chuyển
đổi cơ cấu nông nghiệp, vật ni, cây trồng… cũng là những đóng góp rất tích cực.
Với tư cách là một HTX nơng nghiệp, HTX nơng nghiệp đóng góp một cách đáng kể
các khoản thuế hàng năm cho ngân sách địa phương. Các HTX nông nghiệp sẽ là
những tổ chức hoạt động tại địa phương, bám sát địa bàn, tham gia vào các chương
trình phát triển kinh tế ở địa phương, hỗ trợ đắc lực nhất cho các doanh nghiệp vừa và
nhỏ một cách kịp thời, tạo ra nhiều việc làm và đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Như
vậy, HTX nông nghiệp là một yếu tố kinh tế quan trọng ở địa phương, góp phần nâng
cao đời sống, thu nhập của người dân đem lại ổn định trật tự chính trị, xã hội trên địa
bàn, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế.
Đối với Nhà nước
Xét trên góc độ Nhà nước, hoạt động của những HTX nông nghiệp sẽ bổ sung cho
những nỗ lực vĩ mô của Nhà nước như cung cấp vốn cho người nghèo, nông thôn,
nông nghiệp, thực hiện các mục tiêu xã hội lớn như tạo cơng ăn việc làm, xố đói giảm
11
Phát triển nơng thơn_44K20.2_Nhóm 8
nghèo, ổn định tình hình trật tự kinh tế, chính trị, xã hội… ở những nơi, lĩnh vực mà
nhiều khi Nhà nước khơng có khả năng hay hoạt động khơng hiệu quả thì mơ hình
HTX nơng nghiệp nói riêng và mơ hình kinh tế HTX nói chung lại là phù hợp. Mơ
hình HTX nơng nghiệp thể hiện rất rõ tinh thần phát hút nội lực của người dân để tự
giải quyết các khó khăn, vướng mắc của chính bản thân. Mơ hình HTX nơng nghiệp
cũng góp phần thực hiện các chương trình tiết kiệm, huy động tiềm năng trong nhân
dân của Nhà nước phục vụ cho đầu tư, hay tránh lãng phí tài nguyên, nguồn vốn nhàn
rỗi trong nhân dân. Mơ hình HTX nơng nghiệp vì vậy có thể xem là mơ hình “bộ đội
địa phương” tại chỗ, kết hợp với các tổ chức tín dụng – “bộ đội chủ lực” – nhằm thông
qua dịch vụ tín dụng, ngân hàng đánh bại giặc đói, giặc nghèo để phát triển kinh tế.
Mặc dù có vai trị to lớn đối với Nhà nước, song các HTX nông nghiệp không phải là
công cụ của Nhà nước và lại càng khơng có nhiệm vụ cơng ích. Nó đơn thuần chỉ là
một tổ chức kinh tế tự trợ giúp của các thành viên, là công cụ và phương tiện của các
thành viên và hoạt động chỉ vì lợi ích của các thành viên. Tuy nhiên, trong quá trình
theo đuổi tạo ra lợi ích cho các thành viên thì nó cũng đã vơ hình trung trực tiếp hay
gián tiếp tạo ra cả những lợi ích xã hội khác kèm theo mà Nhà nước rất mong muốn
nhưng đó chỉ là những lợi ích hệ quả. Xét về mặt lý thuyết cũng như thực tiễn, việc tạo
ra các lợi ích xã hội này khơng phải và cũng không thể là nhiệm vụ của các HTX nông
nghiệp. Việc lạm dụng các HTX nông nghiệp để bắt chúng thực hiện các mục tiêu xã
hội hay của Nhà nước là không hợp lệ. Điều này sẽ dẫn tới việc bóp méo hoạt động
của các HTX nơng nghiệp, ảnh hưởng tới lợi ích của các thành viên khiến cho HTX
nông nghiệp bị què quặt không phát triển bền vững được theo đúng khả năng vốn có
của nó. Đối với Nhà nước, HTX nông nghiệp là chỉ một tổ chức kinh tế dân chủ của
người dân, một phương tiện để phát huy nội lực tiềm năng trong nhân dân của các
thành viên góp phần phục vụ cho phát triển kinh tế, đặc biệt ở các vùng mà Nhà nước
chưa có điều kiện hay khả năng để vươn tới một cách đầy đủ trọn vẹn để hỗ trợ phát
triển. Nó bổ sung rất tốt cho những nỗ lực phát triển kinh tế của Nhà nước ở các vùng,
đặc biệt các vùng nông nghiệp, nông thôn với điều kiện cơ sở hạ tầng cịn nhiều khó
khăn và nhu cầu về vốn để đầu tư, phát triển sản xuất cao.
12
Phát triển nơng thơn_44K20.2_Nhóm 8
2.3 Doanh nghiệp Nhà nước
Có vai trò dẫn dắt và định hướng sự phát triển của tồn bộ ngành nơng nghiệp. Vai trị
nịng cốt và chỉ không phải thể hiện ở số lượng hay tỷ trọng cao của các doanh nghiệp
Nhà nước, mà ở hiệu quả hoạt động, vai trị đầu tầu lơi kéo, liên kết các bộ phận kinh
tế khác phát triển đạt hiệu quả cao.Trong thời kỳ bao cấp, các doanh nghiệp đã đóng
góp sản lượng công nghiệp chủ yếu nhưng kém hiệu quả, không tương xứng với đầu tư
của Nhà nước. Trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường, một số doanh nghiệp
nông nghiệp nhà nước năng động đã dần dần chuyển sang sản xuất và kinh doanh tổng
hợp, mở rộng phạm vi hoạt động ra toàn địa bàn và mọi ngành nghề. Nhưng nhìn
chung vai trị của kinh tế nhà nước ở nơng thơn vẫn cịn mờ nhạt, tác động chưa mạnh
đối với nền kinh tế nông nghiệp và nông thôn.
Trong quá trình phát triển, thành phần kinh tế này được mở rộng ra tồn bộ các ngành
nghề cơ bản: nơng nghiệp, cơng nghiệp, thương nghiệp, tín dụng, ngân hàng, dịch vụ
kinh tế và khoa học... Trong đó, nhiều cơ sở của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế
nông thôn chỉ là một bộ phận đại diện của kinh tế nhà nước như chi nhánh ngân hàng,
cửa hàng thương nghiệp, trạm kỹ thuật... nhưng lại gắn bó hữu cơ với kinh tế nông
thôn từng vùng như là bộ phận cấu thành bên trong của nó.
Trong phát triển nơng thơn, các doanh nghiệp Nhà nước vẫn là lực lượng lãnh đạo
trong một số khu vực quan trọng, nhất là các khâu tiêu thụ và chế biến nông sản. Các
công ty chế biến sẽ được cổ phần hóa và từng bước bán cổ phần cho nông dân xuất
khẩu nguyên liệu, điều này sẽ gắn quyền lợi của nông dân với quyền lợi của doanh
nghiệp.
Các doanh nghiệp nhà nước cũng góp phần tạo mơi trường thuận lợi để hình thành và
phát triển các loại hình doanh nghiệp nơng thơn, nhất là các doanh nghiệp chế biến
nông, lâm, thủy sản, sử dụng nguyên liệu và thu hút nhiều lao động nông nghiệp tại
chỗ, doanh nghiệp dịch vụ vật tư, tiêu thụ nông, lâm, thủy sản cho nông dân. Phát triển
mạnh doanh nghiệp công nghiệp chế tạo máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên liệu phục vụ
nơng nghiệp. Quan tâm thích đáng lợi ích kinh tế của người lao động trên cơ sở họ
được làm chủ thực sự quyền sở hữu, quyền sử dụng tư liệu sản xuất trong phạm vi hợp
pháp của mình.
13
Phát triển nơng thơn_44K20.2_Nhóm 8
2.4 Khu vực tư nhân
Chủ trương của Chính phủ là khuyến khích khu vực tư nhân ngày càng phát triển góp
phần đẩy nhanh sự phát triển kinh tế nơng thơn. Chính phủ cũng khuyến khích hoạt
động thương mại trên quy mô lớn, đặc biệt ở các ngành công nghiệp chế biến, chăn
nuôi quy mô lớn và các ngành công nghiệp khác không sử dụng nhiều đất nơng nghiệp
và khuyến khích sự đầu tư trực tiếp của nước ngồi (FDI) vào các lĩnh vực này. Q
trình cổ phần hóa hoặc đa dạng hóa chủ sở hữu các doanh nghiệp Nhà nước sẽ tạo cơ
hội để khu vực tư nhân tăng cường đầu tư vào kinh tế nông thôn.
Sự tồn tại và phát triển của khu vực tư nhân là tất yếu, góp phần quan trọng tạo động
lực phát triển trong nước và vươn ra nước ngoài. Kinh tế tư nhân là một bộ phận quan
trọng cấu thành toàn bộ nền kinh tế. Nhiều quốc gia phát triển mặc nhiên thừa nhận sự
tồn tại của hình thức kinh tế này và tích cực phát triển nó như một công cụ hiệu quả để
phát triển kinh tế.
Mặc dù khu vực kinh tế tư nhân được xác định là động lực quan trọng của nền kinh tế
song tuyệt đại đa số DN đều đang đối mặt với vơ vàn khó khăn thách thức, từ khả năng
tiếp cận các nguồn lực sản xuất kinh doanh như đất đai, mặt bằng kinh doanh, vốn tín
dụng, lao động có trình độ cao,... đến rào cản về thủ tục hành chính, hạn chế về cơ hội
kinh doanh, tiếp cận thị trường, tiếp cận thông tin, quản trị doanh nghiệp,... trong đó,
có khó khăn về vốn sản xuất kinh doanh.
14
Phát triển nơng thơn_44K20.2_Nhóm 8
3. Liên hệ thực tiễn
3.1 Thực tiễn trong nước
Hình 1- Số lượng HTX ứng dụng cơng nghệ cao vào sản xuất, kinh doanh gắn với
chuỗi giá trị sản phẩm chủ lực của quốc gia, vùng, địa phương ngàng càng tăng
KTTT, HTX dần trở thành động lực phát triển bền vững kinh tế - xã hội
Giai đoạn 2016-2020, KTTT, HTX tiếp tục đổi mới, phát triển nhanh cả về số lượng và
chất lượng, cơ bản khắc phục được tình trạng yếu kém kéo dài. Nhiều loại hình, mơ
hình KTTT, HTX hoạt động hiệu quả, góp phần phát triển kinh tế bền vững, xây dựng
nông thôn mới, tạo việc làm, xố đói, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, tăng cường
hệ thống chính trị ở cơ sở; qua đó, từng bước khẳng định vị trí, vai trị nền tảng của
khu vực KTTT, HTX trong nền kinh tế quốc dân.
Theo Liên minh HTX Việt Nam, KTTT, HTX đang dần trở thành động lực phát triển
kinh tế - xã hội bền vững, cùng với kinh tế nhà nước dần trở thành nền tảng của nền
kinh tế quốc dân; đóng góp trực tiếp khoảng 4,8%, gián tiếp trên 30% GDP cả nước
trên cơ sở giá trị gia tăng của kinh tế hộ thành viên; thu hút hơn 3 triệu lao động, tạo
hơn 40 nghìn việc làm mới hằng năm.
15
Phát triển nơng thơn_44K20.2_Nhóm 8
Nhiệm kỳ qua, cả nước thành lập mới 10.749 HTX, bình quân 2.150 HTX/năm (tăng
2,6 lần so với giai đoạn 2011-2015), trong đó, lĩnh vực nơng nghiệp là 7.632 HTX,
chiếm tỷ lệ 71%, phi nông nghiệp là 3.117 HTX, chiếm tỷ lệ 29%. Thành lập mới 81
liên hiệp HTX; 15.849 tổ hợp tác (THT), trong đó có 9.984 THT nơng nghiệp, 5.865
THT phi nơng nghiệp. Đến cuối năm 2020, cả nước có 26.040 HTX (tăng 5.625 HTX
so với năm 2015, tăng bình quân 3,6%/năm), phân theo các lĩnh vực hoạt động gồm:
16.953 HTX nông nghiệp, 1.188 Quỹ tín dụng nhân dân, 2.079 HTX thương mại và
dịch vụ, 1.496 HTX vận tải, 2.474 HTX công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, 1.026
HTX xây dựng, 521 HTX môi trường, 303 HTX khác. 100 liên hiệp HTX, trong đó 76
liên hiệp HTX nông nghiệp và 24 liên hiệp HTX phi nông nghiệp; hơn 50% liên hiệp
HTX hoạt động hiệu quả và làm tốt vai trò đầu mối kết nối các HTX thành viên với thị
trường. Với 119.248 THT hiện có trên địa bàn cả nước, các THT đa dạng về tên gọi và
hình thức hoạt động, thành lập để liên kết tương trợ nhau sản xuất, vay vốn, thu hoạch,
tiêu thụ sản phẩm; khoảng 30% THT có lao động làm việc theo hợp đồng.
HTX, liên hiệp HTX, THT thu hút 8,1 triệu thành viên, chủ yếu là đại diện hộ cá thể,
cá nhân ở địa bàn nông thôn tham gia, chiếm 33% tổng số hộ cá thể ở địa bàn nông
thôn, tác động trực tiếp đến đời sống, thu nhập và sức mua của gần 30 triệu người. Số
HTX hoạt động hiệu quả chiếm 59% tổng số HTX, tăng 03 lần so với năm 2015; 96%
HTX được chuyển đổi, tổ chức lại hoạt động, phù hợp các quy định của Luật HTX
năm 2012; quy mô, chất lượng và hiệu quả hoạt động được nâng lên; những tồn tại,
yếu kém kéo dài của HTX cơ bản được khắc phục;… Đáng chú ý, nhiều doanh nghiệp
là thành viên của HTX tham gia quản trị, liên kết chế biến tiêu thụ sản phẩm theo
chuỗi giá trị nông, lâm sản. Quy mô thành viên của HTX và THT ngày càng tăng, cho
thấy liên kết, hợp tác sản xuất, kinh doanh là nhu cầu, xu thế tất yếu khách quan.
Đặc biệt, số lượng HTX ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất, kinh doanh gắn với
chuỗi giá trị sản phẩm chủ lực của quốc gia, vùng, địa phương ngày càng tăng; liên kết
sản xuất giữa các HTX với nhau, với THT và với doanh nghiệp ngày càng mở rộng và
phát triển. Đến nay, cả nước có 1.700 HTX ứng dụng cơng nghệ cao trong sản xuất,
3.219 HTX sản xuất gắn với chuỗi giá trị, tăng 6,8 lần so với năm 2015. Số lượng
HTX, liên hiệp HTX có quy mơ vừa và lớn ngày càng tăng; đến cuối năm 2020, cả
16
Phát triển nơng thơn_44K20.2_Nhóm 8
nước có hơn 500 HTX, liên hiệp HTX có quy hơn 300 thành viên, tổng nguồn vốn từ 5
tỷ đồng trở lên (tăng 04 lần so với giai đoạn 2011-2015).
Từng bước khẳng định vai trò nòng cốt trong phát triển KTTT, HTX
Hình 2 - Thu hoạch rau mầm - một trong những sản phẩm được công nhận là sản
phẩm OCOP 4 sao của HTX Sản xuất và Dịch vụ Thanh Hà (xã Ninh Sở, huyện
Thường Tín, Hà Nội)
Đồng chí Nguyễn Ngọc Bảo, Bí thư Đảng đồn, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam,
Phó Trưởng Ban chỉ đạo đổi mới, phát triển KTTT, HTX cho biết: Nhiệm kỳ 2016 2020, hệ thống Liên minh HTX Việt Nam đã triển khai đồng bộ và hiệu quả, cơ bản
hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao theo chủ trương của Đảng, chính sách
và pháp luật của Nhà nước, quy định của Điều lệ; đồng thời, giữ vai trò nòng cốt trong
phát triển KTTT, HTX trên địa bàn cả nước và các địa phương, trở thành cầu nối giữa
Đảng và Nhà nước với khu vực KTTT, HTX.
Cùng với việc thực hiện tốt chức năng đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
thành viên và nhiệm vụ thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hệ thống Liên
minh HTX Việt Nam đã tư vấn pháp lý cho 87.000 thành viên, tham gia giải quyết 42
trường hợp khiếu nại, tố cáo; chủ động phối hợp với các ban, bộ, ngành trung ương và
địa phương nghiên cứu, tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước, cấp ủy và chính
17
Phát triển nơng thơn_44K20.2_Nhóm 8
quyền địa phương trong xây dựng và triển khai chủ trương, chính sách và pháp luật
thúc đẩy phát triển KTTT, HTX; thực hiện một số nhiệm vụ quản lý nhà nước về lĩnh
vực KTTT, HTX do Chính phủ, cấp ủy và chính quyền địa phương giao, ủy thác.
Công tác tuyên truyền ngày càng đi vào chiều sâu, gắn với tư vấn, hỗ trợ và phát triển
HTX, nhân rộng mơ hình HTX sản xuất, kinh doanh hiệu quả; tích cực tổ chức các
phong trào thi đua nhằm khích lệ, động viên cá nhân, tập thể HTX và toàn hệ thống,
thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội nhiệm kỳ 2016 - 2020, lập thành tích chào
mừng các sự kiện lớn của đất nước. Hoạt động cung ứng dịch vụ công cho KTTT,
HTX được mở rộng, nâng cao chất lượng, hiệu quả; công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều
hành của Đảng đoàn, Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Thường trực Liên minh HTX
Việt Nam được đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong điều hành và hoạt động;
tăng cường liên kết hệ thống…
Uy tín của hệ thống Liên minh HTX Việt Nam ở trong nước và đối tác quốc tế cũng
dần được khẳng định thông qua việc đẩy mạnh các hoạt động hợp tác quốc tế, khai
thác nguồn lực để hỗ trợ phát triển KTTT, HTX. Đến thời điểm hiện tại, hệ thống Liên
minh HTX Việt Nam có quan hệ hợp tác với hơn 150 tổ chức quốc tế, ký kết 14
chương trình hợp tác; tổ chức cho 400 lượt cán bộ khảo sát, học tập ngắn hạn, dài hạn
ở nước ngoài và huy động được 03 triệu USD của tổ chức quốc tế hỗ trợ cho phát triển
KTTT, HTX và hệ thống Liên minh HTX Việt Nam.
Ghi nhận những kết quả đạt được trong giai đoạn 2016-2020, hệ thống Liên minh
HTX Việt Nam được Nhà nước tặng thưởng 17 Huân chương, 12 Bằng khen của Thủ
tướng Chính phủ, 13 Cờ thi đua của Chính phủ và nhiều danh hiệu thi đua khác.
Bước vào nhiệm kỳ mới, trên cơ sở dự báo kinh tế tập thể, HTX giai đoạn 2020 - 2025
ở nước ta sẽ tiếp tục phát triển cả về số lượng, qui mô và chất lượng, tốc độ tăng bình
quân từ 8% - 15%/năm, số hộ cá thể ở địa bàn nông thôn và đô thị, các thành phần
kinh tế khác tham gia HTX, THT tăng nhanh, hệ thống Liên minh HTX Việt Nam đặt
mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX, liên hiệp HTX, THT, mang lại lợi ích
kinh tế và phúc lợi xã hội ngày càng cao cho thành viên; thu hút phần lớn hộ cá thể ở
địa bàn nông thôn, kể cả hộ cá thể ở địa bàn thành thị và thành phần kinh tế khác tham
gia HTX, liên hiệp HTX, THT; từng bước khẳng định vị trí, vai trị nền tảng của khu
18
Phát triển nơng thơn_44K20.2_Nhóm 8
vực kinh tế tập thể, HTX trong nền kinh tế quốc dân. Cùng với đó, xây dựng hệ thống
Liên minh HTX Việt Nam vững mạnh, thống nhất chặt chẽ tổ chức và hoạt động từ
trung ương đến địa phương, được Nhà nước áp dụng chính sách cán bộ phù hợp và có
đủ năng lực thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao; làm cầu nối giữa Đảng, Nhà
nước với khu vực KTTT, HTX; tiếp tục giữ vai trị nịng cốt trong phát triển KTTT,
HTX.
Ví dụ thực tiễn
a. Hợp tác xã
Mơ hình ni cá lồng tại Hợp tác xã Thanh niên Thẩm Phé (huyện Than Uyên)
Khó khăn lớn nhất ban đầu là vốn để đầu tư sản xuất, sau đó là nhiều thanh niên trong
bản khơng tin tưởng có thể tận dụng mặt nước lịng hồ để nuôi cá. Sau 1 năm nuôi,
lồng cá đầu tiên đã cho hiệu quả, vì thế việc vận động thanh niên mới dễ dàng hơn.
Đến nay hợp tác xã đã huy động được hơn 20 thành viên tham gia, với 12 lồng cá lăng,
trắm, chép...
Những mơ hình phát triển kinh tế dưới hình thức liên kết các thành viên hợp tác xã là
thanh niên ở Than Uyên đã mang lại hiệu quả thiết thực, với các sản phẩm OCOP (mỗi
địa phương một sản phẩm) mang thương hiệu "Hợp tác xã thanh niên". Các sản phẩm
sản xuất ra đều đảm bảo chất lượng và an toàn cho người sử dụng và xuất hiện ngày
càng nhiều trên thị trường trong và ngoài tỉnh. Tuy nhiên, để các mơ hình kinh tế do
thanh niên làm chủ vươn xa, cũng cần có thêm sự ưu đãi về vốn và chuỗi liên kết trong
sản xuất, tiêu thụ sản phẩm.
Khai thác triệt để tiềm năng, lợi thế của từng địa phương, chính quyền các xã trên địa
bàn huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu đã định hướng thanh niên khởi nghiệp phát triển
kinh tế, gắn với xây dựng nông thôn mới. Khi thanh niên lập nghiệp đều được chính
quyền tạo điều kiện tối đa về đất đai và hỗ trợ các nguồn vốn vay. Từ diện tích đồi
trọc, bãi đất trống và vùng nước lòng hồ thủy điện mênh mông, sự sáng tạo của tuổi trẻ
đã tạo lên hàng trăm mơ hình kinh tế hiệu quả.
Vai trị, hiệu quả hoạt động của các HTX trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp được
khẳng định, thể hiện rõ nét thông qua là cầu nối trong việc tiếp thu, chuyển giao ứng
dụng, tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, bước đầu phát triển sản xuất theo chuỗi
19
Phát triển nơng thơn_44K20.2_Nhóm 8
giá trị, thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, lao động theo hướng tích cực,
đảm bảo nhiều khâu dịch vụ mà các hộ thành viên không làm được hoặc làm được
nhưng hiệu quả không cao như: cung cấp giống, vật tư nông nghiệp, công nghệ mới
trong sản xuất và đặc biệt là chế biến, bảo quản sản phẩm. Điển hình như: HTX Thanh
Xuân, HTX Thanh niên Thẩm Phé (huyện Than Uyên); HTX Quyết Tâm (thành phố
Lai Châu); HTX Long Vũ (huyện Mường Tè)... Qua đó, góp phần thực hiện tái cơ cấu
ngành Nơng nghiệp và chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới trên
địa bàn tỉnh.
Thông qua các hoạt động của HTX, nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật mới được chuyển
giao ứng dụng trong sản xuất, đã hình thành một số mơ hình như: chăn ni bị nhốt,
gà ác sinh sản, lợn nái siêu nạc, mơ hình bảo vệ rừng, mơ hình trồng chuối cấy mơ...
đem lại hiệu quả kinh tế rõ rệt, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa, tăng cường
sức cạnh tranh trên thị trường, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế khu vực
nông nghiệp, phần nào giải quyết việc làm, cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần cho thành viên HTX và người dân khu vực nơng thơn; giữ gìn, bảo vệ môi trường
sinh thái ở nông thôn; giữ vững ổn định chính trị và phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh.
b. Doanh nghiệp tư nhân
Tập đoàn Lộc Trời: Vai trị của doanh nghiệp trong xây dựng nơng thơn mới tại
vùng Đồng bằng sông Cửu Long
Sứ mệnh của Tập đồn là với khát vọng gìn giữ nguồn mạch sống cho đời sau, nâng
cao vị thế và chất lượng cuộc sống của người nông dân nhằm xây dựng những vùng
nông thôn đáng sống, chăm lo cho xã hội hôm nay và mai sau. Ba ngành kinh doanh
chính của Tập đồn là: giống cây trồng, vật tư nông nghiệp và lương thực. Lộc Trời đã
xây dựng được chuỗi giá trị lúa gạo trên cánh đồng lớn liên kết với nông dân tại địa
bàn nơng thơn. Trong q trình phát triển, Tập đồn đã tham gia tích cực trong các
hoạt động liên quan đến xây dựng nông thôn mới.
Tổ chức liên kết giữa nơng dân và Tập đồn Lộc Trời, trong lịch sử, Việt nam đã từng
tổ chức hợp tác hóa nơng nghiệp bắt buộc dẫn đến năng suất lao động thấp và thất bại.
Tuy nhiên hiện nay với nền nông nghiệp tiểu điền, mỗi nông dân cá thể với mãnh đất
nhỏ, tự quyết định trồng giống gì và kỹ thuật như thế nào nên sản phẩm làm ra không
20
Phát triển nơng thơn_44K20.2_Nhóm 8
đồng nhất, khối lượng khơng lớn, giá trị không cao. Bên cạnh việc ký kết hợp đồng
trực tiếp với nơng dân cá thể, Tập đồn đã và đang vận động nông dân làm ăn tập thể.
Khi nơng dân được tổ chức trong các tập thể thì việc chuyển giao khoa học kỹ thuật dễ
dàng hơn, nông dân làm thống nhất đồng loạt theo qui trình của Tập đồn nên chất
lượng hàng hóa đồng nhất và có khối lượng lớn.
Sản xuất lúa gạo bền vững theo tiêu chuẩn quốc tế SRP, bắt đầu từ năm 2016, Tập
đoàn đã tiến thêm một bước mới bằng cách tham gia vào Diễn đàn quốc tế sản xuất lúa
gạo bền vững SRP (Sustainable Rice Platform). SRP là tổ chức được đồng sáng lập bởi
Chương trình mơi trường Liên hiệp quốc (UNEP) và Viện nghiên cứu lúa gạo quốc tế
(IRRI) vào tháng 12 năm 2011. Đây là một diễn đàn đa đối tác tồn cầu bao gồm các
cơ quan chính phủ, các đơn vị thuộc khu vực tư nhân, viện nghiên cứu và các tổ chức
phi lợi nhuận. Liên minh này thúc đẩy gắn kết giữa nghiên cứu, sản xuất, cơ chế chính
sách, bn bán và tiêu dùng nhằm mục đích sản xuất lúa gạo bền vững, sử dụng hiệu
quả nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Số thành viên tính đến nay là
trên 90. Có hai đơn vị Việt Nam tham gia SRP là Bộ nông nghiệp và Phát triển nơng
thơn và Tập đồn Lộc Trời. Bộ tiêu chí SRP gồm 8 vấn đề và 46 tiêu chí. Mỗi tiêu chí
được hưởng 1 trong các mức điểm như sau: 0-1-2 hoặc 3 tùy theo mức độ tuân thủ các
tiêu chí của nơng dân.
c. Doanh nghiệp nhà nước
Điện khí hố nơng thơn là một thành tựu nổi bật của Việt Nam
99,26% số hộ dân nơng thơn đã có điện, tính đến hết năm 2020. Trong 5 năm tới, Việt
Nam sẽ nỗ lực cấp điện cho hầu hết hộ dân nơng thơn. Trong kết quả này, có sự đóng
góp khơng nhỏ của Tập đoàn Điện lực Việt Nam và các đơn vị thành viên.
Vi ệc điện khí hố nơng thơn là một trong những thành tựu quan trọng, nổi bật của Việt
Nam từ ngày đất nước thống nhất, với tỷ lệ hộ dân có điện tăng từ 2,5% vào năm 1975
lên tới 96% vào năm 2009 và 99,53% vào năm 2019.
Tính riêng khu vực nơng thơn, tỷ lệ hộ dân nơng thơn được sử dụng điện tính đến
31/12/2020 đạt 99,26%; chỉ cịn khoảng 0,74% số hộ dân nơng thơn chưa được sử
dụng điện.
21
Phát triển nơng thơn_44K20.2_Nhóm 8
Việt Nam đã thành cơng trong việc cung cấp điện cho hơn 17 triệu hộ dân nông thôn,
vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Kết quả này đạt được dưới sự lãnh đạo sáng suốt
của Đảng, sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, giám sát chặt chẽ của Quốc hội; sự phối
hợp của các Bộ, ngành, địa phương, cùng sự nỗ lực của Tập đoàn Điện lực Việt Nam,
sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế và các doanh nghiệp, cá nhân liên quan.
3.2 Thực tiễn nước ngoài
Tương tự Việt Nam, các quốc gia mà có nền kinh tế nơng nghiệp chiếm tỉ trọng ớn
trong cơ cấu kinh tế, có thể kể đển như Ấn Độ, Thái lan, Nhật Bản, Malaysia,.., đều
công nhận và đề cao vai trò của các thành phần kinh tế đối với sự phát triển nông thôn
của các quốc gia đó. Với mỗi chiến lược phát huy vai trị của từng thành phần kinh tế
nào là phù hợp, các quốc gia đã phát triển nông thôn rất mạnh mẽ trong thực tiễn hiện
nay.
Ví dụ thực tiễn
a. Hộ gia đình
Trang trại gia đình ở Mỹ
Trang trại gia đình ở mỹ: Linh hồn của ngành nông nghiêp ở vùng nông thôn nước mỹ.
Ngành nông nghiệp ngay từ đầu vốn đã là một cơng việc của gia đình, khi cả nhà phải
chung tay xoay xở. Thời nay cũng khơng khác gì nhiều.
Mặc dù các công cụ và phương pháp thay đổi mạnh mẽ, trồng trọt, thu hoạch và mọi
khâu trung gian vẫn địi hỏi tất cả cùng chung sức.
Larry Glicks, nơng dân ở bang Ilinois kể rằng anh ấy lớn lên trong trang trại trải qua
bốn thế hệ. Họ trồng ngô, đậu nành, lúa mì, và có một số hoạt động chăn nuôi gia súc
nhỏ.
Bố của Larry chạy máy phun nước, máy gặt đập liên hợp. Một người chú vận hành
máy trồng cây và lái chiếc xe kéo một cầu, trong khi người chú khác xử lý việc làm
đất, lái chiếc máy gặt đập liên hợp còn lại.
Larry và hai anh em họ thay phiên nhau chăm sóc gia súc, bảo trì thiết bị.
22
Phát triển nơng thơn_44K20.2_Nhóm 8
Gần giống Glicks, anh em Jerry và Larry Capko điều hành một trang trại thế hệ thứ ba,
tồn tại hơn 100 năm qua, gần Swanville, quận Morrison, bang Minnesota.
“Tơi bắt đầu vắt sữa bị từ năm 15 tuổi. Khi đó, chúng tơi có khoảng 30 con bò sữa.
Bây giờ tổng đàn là 250 con”.
Larry làm kế toán, quản lý việc lưu giữ hồ sơ của từng con bò và giúp vắt sữa. Jerry
quản lý các loại cây trồng và vắt sữa.
“Tôi cũng quản lý về vấn đề nhân sự, lao động”, Jerry nói. “Có sự giúp đỡ tốt là chìa
khóa để trở thành một nơng dân thành công”.
Con trai của Jerry, Jared, người hy vọng một ngày sẽ tiếp quản trang trại, cũng tham
gia vào các hoạt động trang trại hàng ngày.
“Có khoảng 49.000 trang trại bò sữa ở Hoa Kỳ. Khoảng 97% là do gia đình sở hữu và
điều hành”, USDA thống kê. Nhiều trang trại gia đình được chuyển giao từ thế hệ này
sang thế hệ khác trong suốt 100 năm, 200 năm, thậm chí 300 năm qua.
b. Hợp tác xã
Hợp tác xã tại Ấn Độ
Là một nước nông nghiệp, sự phát triển kinh tế của Ấn Độ phụ thuộc rất nhiều vào
việc phát triển nông nghiệp. Người nông dân coi HTX là phương tiện để tiếp nhận tín
dụng, đầu vào và các nhu cầu cần thiết về dịch vụ. Khu vực HTX có cơ sở hạ tầng
rộng lớn, hoạt động trong các lĩnh vực tín dụng, chế biến nơng sản, hàng tiêu dùng,
hàng thủ công mỹ nghệ và xây dựng nhà ở với tổng số vốn hoạt động khoảng 18,33 tỷ
USD. Những lĩnh vực hoạt động quan trọng của khu vực kinh tế HTX ở Ấn Độ đang
nổi lên là HTX tín dụng nơng nghiệp, có tỷ trọng chiếm tới 43% tổng số tín dụng trong
cả nước, các HTX sản xuất đường chiếm tới 62,4% tổng sản lượng đường của cả nước,
HTX sản xuất phân bón chiếm 34% tổng số phân bón của cả nước. Nổi bật là Liên
hiệp HTX sản xuất sữa Amul, bang Gujaza, được thành lập từ năm 1953. Đây là một
liên hiệp sản xuất sữa lớn nhất của Ấn Độ, và là một trong những liên hiệp HTX hoạt
động kinh doanh có hiệu quả. Sau gần 50 năm hoạt động, Liên hiệp này có gần 2 triệu
cổ phần. Mỗi ngày, Liên hiệp sản xuất 1 triệu lít sữa. Sản lượng sữa do Liên hiệp sản
xuất chiếm 42,6% thị phần trong cả nước.
23
Phát triển nơng thơn_44K20.2_Nhóm 8
Nhận rõ vai trị của các HTX chiếm vị trí trọng yếu trong các lĩnh vực của nền kinh tế
quốc dân, Chính phủ Ấn Độ đã thành lập công ty quốc gia phát triển HTX, thực hiện
nhiều dự án khác nhau trong lĩnh vực chế biến, bảo quản, tiêu thụ nông sản, hàng tiêu
dùng, lâm sản và các mặt hàng khác, đồng thời thực hiện các dự án về phát triển những
vùng nơng thơn cịn lạc hậu. Ngồi ra, Chính phủ đã thực hiện chiến lược phát triển
cho khu vực HTX như: Xúc tiến xuất khẩu; Sửa đổi Luật HTX, tạo điều kiện cho các
HTX tự chủ và năng động hơn; Chấn chỉnh hệ thống tín dụng HTX; Thiết lập mạng
lưới thông tin hai chiều giữa những người nghèo nông thôn với các tổ chức HTX; Bảo
đảm trách nhiệm của các liên đoàn HTX đối với các HTX thành viên.
Hợp tác xã tại Nhật Bản
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tổ chức HTX Nhật Bản là nhân tố tích cực, góp phần
quan trọng trong việc phát triển kinh tế và ổn định xã hội.
Các loại hình tổ chức HTX Nhật Bản bao gồm: HTX nơng nghiệp, HTX tiêu dùng.
HTX tiêu dùng Nhật Bản phát triển mạnh từ những năm 1960-1970. Liên hiệp HTX
tiêu dùng (JCCU) là tổ chức cấp cao của khu vực HTX ở Nhật Bản. Hiện nay, JCCU
có 617 HTX thành viên. Các HTX thành viên đã sản xuất trên 10.000 sản phẩm khác
nhau mang nhãn hiệu “Co-op”, bao gồm lương thực, thực phẩm và hàng hóa tiêu dùng.
JCCU có các chức năng và nhiệm vụ như: tăng cường hướng dẫn quản lý và hỗ trợ
hoạt động kinh doanh cho các HTX thành viên; Lập kế hoạch; Phát triển và cung cấp
sản phẩm, các chương trình bảo hiểm và mạng lưới thơng tin, đáp ứng nhu cầu của các
xã viên; Tổ chức các khóa học và hội thảo về cơng tác quản lý và giáo dục cho các
HTX thành viên; Xuất-nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng…
HTX Nông nghiệp Nhật Bản được đặc trưng bởi hệ thống 3 cấp: các HTX nông
nghiệp cơ sở, các liên hiệp và các liên đoàn quốc gia. Các tổ chức HTX cơ sở được tổ
chức ở cấp làng, thị trấn và thành phố trực thuộc tỉnh, gồm những thành viên thường
xuyên là nông dân và các thành viên liên kết khác. HTX nơng nghiệp cơ sở có 2 loại:
HTX nông nghiệp đa chức năng và HTX nông nghiệp đơn chức năng. HTX nơng
nghiệp đa chức năng có nhiệm vụ hoạt động trong các lĩnh vực nông nghiệp, tiếp thị
sản phẩm nông nghiệp, cung cấp nguyên liệu sản xuất và các vật dụng thiết yếu hàng
ngày; Cho vay và đầu tư vốn, cung cấp bảo hiểm… HTX nông nghiệp đơn chức năng
24
Phát triển nơng thơn_44K20.2_Nhóm 8
hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất cụ thể như chế biến sữa, nuôi gia cầm và các
nghề truyền thống khác. Ngồi ra, cịn có chức năng tiếp thị sản phẩm của các xã viên
thành viên và cung cấp nguyên liệu sản xuất…
Các tổ chức HTX cấp tỉnh: Các HTX nông nghiệp được điều hành, quản lý thơng qua
các liên đồn, các hiệp hội HTX nông nghiệp tỉnh và các liên minh HTX nông nghiệp
tỉnh. Các liên đoàn HTX cấp tỉnh điều phối các hoạt động của các HTX trong phạm vi,
quyền hạn của mình, đồng thời cung cấp các dịch vụ tài chính, bảo hiểm, tiếp thị cho
các HTX thành viên. Các liên hiệp HTX tỉnh chỉ đạo các vấn đề về tổ chức, quản lý,
giáo dục, nghiên cứu cũng như đưa các kiến nghị lên các cơ quan của Chính phủ. Các
liên minh HTX nơng nghiệp tỉnh có nhiệm vụ giám sát và quản lý tồn bộ hoạt động
của các HTX nơng nghiệp liên kết.
Để giúp các tổ chức HTX hoạt động, Chính phủ Nhật Bản đã tăng cường xây dựng hệ
thống phục vụ xã hội hóa nơng nghiệp, coi HTX nơng nghiệp là một trong những hình
thức phục vụ xã hội hóa tốt nhất và yêu cầu các cấp, các ngành phải giúp đỡ và bảo vệ
quyền lợi hợp pháp cho tổ chức này. Đồng thời, Chính phủ cịn u cầu các ngành tài
chính, thương nghiệp giúp đỡ về vốn, kỹ thuật, tư liệu sản xuất v.v…, tuy nhiên, không
làm ảnh hưởng đến tính tự chủ và độc lập của các HTX này.
Hợp tác xã tại Thái Lan
Ở Thái Lan, HTX tín dụng nông thôn được thành lập từ lâu. Do hoạt động của HTX
này có hiệu quả, nên hàng loạt HTX tín dụng được thành lập khắp cả nước. Cùng với
sự phát triển của các HTX tiêu dùng, các loại hình HTX nông nghiệp, công nghiệp
cũng được phát triển mạnh, và trở thành một trong những yếu tố quan trọng trong việc
phát triển kinh tế của đất nước cũng như giữ vững ổn định xã hội
Năm 2001, Thái Lan có 5.611 HTX các loại với hơn 8 triệu xã viên, trong đó có 3.370
HTX nơng nghiệp với hơn 4 triệu xã viên; 100 HTX đất đai với hơn 147 nghìn xã
viên; 76 HTX thủy sản với hơn 13 nghìn xã viên; 1.296 HTX tín dụng với hơn 2 triệu
xã viên; 400 HTX dịch vụ với hơn 146 nghìn xã viên.
Liên đồn HTX Thái Lan (CLT) được thành lập, là tổ chức HTX cấp cao quốc gia,
thực hiện chức năng đại diện, hỗ trợ, giáo dục và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các
HTX và xã viên theo luật định.
25