1. Hãy phác họa các kịch bản khác nhau và cách xử lý khi trong nhóm lớp của bạn
có trẻ bị sặc thức ăn (các kịch bản từ sặc thức ăn thơng thường đến những tình
huống phải sơ cấp cứu). (6 điểm)
- Giới thiệu tình huống:
+ Nhóm lớp mình phụ trách thuộc độ tuổi nào (mỗi độ tuổi sẽ có cách xử lý khác
nhau)
+ Tình huống xảy ra trong bữa ăn nào, thức ăn gì
- Dấu hiệu của trẻ khi bị sặc thức ăn và cách xử lý của GV (phần này sẽ có các kịch
bản khác nhau tùy theo các trường hợp mà xử lý phù hợp)
Sặc thức ăn thơng thường: GV trình bày các biểu hiện của trẻ và cách xử lý của
mình trong trường hợp này như thế nào (2 điểm)
Sặc thức ăn phải tiến hành sơ cấp cứu: GV trình bày các biểu hiện của trẻ và cách
xử lý của mình trong trường hợp này như thế nào (4 điểm)
1 NHĨM TUỔI
- Nhóm trẻ từ 13 tháng đến 18 tháng
TÌNH HUỐNG
Khi cơ đang cho trẻ ăn cháo hoặc uống sữa trong giờ ăn trưa trẻ bị sặc và trẻ vẫn
khóc được , ho được mơi vẫn hồng hào
DẤU HIỆU
- Trẻ bị ho, sặc, thức ăn trào ra từ miệng của trẻ
- Có thể nói, khóc và trả lời bạn
- Thở khị khè, khó nhọc, hoặc thở hổn hển, có một chút khí được thở ra đường
miệng
NGUYÊN NHÂN
Chủ yếu là do trẻ còn nhỏ, cơ thể chưa hồn thiện để có những phản xạ đóng nắp
thanh quản khi nuốt dẫn tới thức ăn lạc xuống và chặn đường thở
CÁCH XỬ LÝ
Trường hợp : Trẻ vẫn khóc được , ho được môi vẫn hồng hào
- Giáo viên phải giữ bình tĩnh
- Nghiêng trẻ qua một bên và chúng ta dùng những khan tay lau nhanh sữa hoặc
thức ăn trên mũi miệng trẻ . Nghiêng trẻ sang một bên để sữa và thức ăn thốt ra trẻ
khơng hít vào đường thở
- Trẻ vẫn khóc được , ho được mơi vẫn hồng thì chúng ta vỗ nhẹ , vấn an trẻ, theo
dõi quan sát trẻ.
Trong trường hợp này để chắc chắn nên mang trẻ đến bệnh viện để trẻ được bác sĩ
kiểm tra và đánh giá mức độ khó thở cũng như là tình trạng nguy cấp mà xử lí thích
hợp
2 NHĨM TUỔI
- Nhóm trẻ từ 19 tháng đến 24 tháng:
TÌNH HUỐNG
Khi cô đang cho trẻ ăn cháo hoặc uống sữa trong giờ ăn trưa, trẻ bị sặc nặng đột
ngột bé ho dữ dội, da tái xanh, sặc sụa, tím tái, chân tay cứng đờ, khơng thể khóc, ú
ớ.
DẤU HIỆU
- Dấu hiệu nghẹt thở
- Xuất hiện nước, sữa, canh… trào ra từ mũi, miệng của bé.
- Bé có thể xuất hiện những cơn ngừng thở
- Cả hai tay nắm chặt vào cổ họng
- Khơng thể nói chuyện được
- Khơng thể thở hiệu quả được mà khơng gặp khó khan
- Da trở lên nhạt màu hoặc chuyển màu xanh
NGUYÊN NHÂN
Trẻ ngậm thức ăn trong miệng gây khó khăn khi nuốt đồ ăn khiến trẻ bị sặc
CÁCH XỬ LÝ
Trường hợp : Nếu trẻ sặc sữa đồ ăn , môi tím tái , trẻ khơng khóc được, khó thở
- Nhanh chóng gọi cấp cứu gọi người hỗ trợ
- Đối với trẻ dưới 1 tuổi: Thực hiện thao tác vỗ lòng, ấn ngực
- Đặt trẻ nằm sấp, đầu thấp trên cánh tay trái, giữ chặt đầu và cổ trước bằng bàn tay
trái.
- Dùng gót bàn tay phải vỗ 5 cái thật mạnh vỗ lưng trẻ ở khoảng giữa hai xương bả
vai. ( Quan sát trẻ, trẻ khóc được hồng hào thì ngưng lại nếu khơng tiếp tục thực
hiện thao tác)
- Sau đó, lật ngửa trẻ sang tay phải, nếu trẻ cịn khó thở, tím tái, dùng hai ngón tay
trái ấn mạnh ở vùng 1/2 dưới xương ức 5 cái.
- Nếu dị vật vẫn chưa rơi ra ngoài, hãy lật người trẻ lại tiếp tục vỗ lưng.
- Luân phiên vỗ lưng và ấn ngực cho tới khi dị vật rơi khỏi đường thở hoặc trẻ khóc
được.
Chú ý : Trong trường hợp mà trẻ vẫn tím tái thì tiến hành thổi ngạt( cấp cứu ngưng
thở ngưng tim)
3 NHĨM TUỔI
- Nhóm trẻ từ 25 tháng đến 36 tháng:
TÌNH HUỐNG
Trẻ nuốt phải đậu Hà Lan chưa được cắt nhỏ trong giờ ăn trưa
DẤU HIỆU
- Dấu hiệu nghẹt thở
- Trẻ bị sặc nặng đột ngột bé ho dữ dội, da tái xanh, sặc sụa, tím tái, chân tay cứng
đờ, không thể khóc, ú ớ, trẻ ngưng thở
- Cả hai tay nắm chặt vào cổ họng
- Khơng thể nói chuyện được
- Khơng thể thở hiệu quả được mà khơng gặp khó khan
- Sẽ khơng có sự chuyển động của khí
- Khơng thể ho hiệu quả được
- Thở khị khè hay ồn ào
- Thay đổi mầu sắc da: môi và móng tay chuyển mầu xanh
- Cuối cùng là bất tỉnh
NGUYÊN NHÂN
Trẻ khơng tập trung ăn
Trẻ em có thói quen ngậm thức ăn vào miệng và hít mạnh, sâu và đột ngột khiến
thức ăn bị rơi vào đường thở
CÁCH XỬ LÝ
- Gọi cấp cứu ngay lập tức, kiểm tra tình hình trẻ và thực hiện thao tác sơ cứu cho
trẻ
- Mở thơng đường thở: Ngửa đầu, nâng cằm trẻ
- Nhìn miệng trẻ xem có dị vật hay khơng: tìm dị vật nếu dễ dàng thì lấy dị vật ra
khỏi miệng trẻ (nên nghiêng đầu)
- Khơng nên dùng tay móc dị vật khi khơng chắc chắn vì có thể đẩy sâu dị vật vào
trong
- Cấp cứu CPR (ấn ngực 30 lần, thổi ngạt 2 lần)
- Nếu khơng có dị vật trong miệng: tiến hành CPR ấn ngực 30 cái và thổi ngạt 2
cái.
- Tiếp tục luân phiên ấn ngực và thổi ngạt (30:2) cho đến khi trẻ tự thở được hoặc
cho đến khi nhân viên y tế tới
Chú ý
- Không can thiệp nếu trẻ vẫn cịn cịn thở, ho hoặc kêu khóc được.
- Khơng cố móc dị vật ra nếu khơng nhìn thấy được, vì có thể làm dị vật di chuyển
vào sâu hơn trong đường thở
4 NHÓM TUỔI
- Lớp trẻ từ 3 - 4 tuổi:
TÌNH HUỐNG
Trẻ ăn dưa hấu vừa ăn vừa giỡn với bạn và sặc hạt dưa vào đường thở
DẤU HIỆU
Trẻ biểu hiện khị khè, khó thở, rút lõm ngực, thở gật gù cổ, nhiều đờm nhớt, bứt
rứt, tím tái
NGUYÊN NHÂN
Trẻ không tập trung khi ăn khiến trẻ vô trẻ vơ tình nuốt phải hạt dưa vào họng gây
nghẹt đường thở
CÁCH XỬ LÝ
Trẻ vẫn cịn tỉnh táo thì làm thủ thuật Heimlich: ấn bụng khi trẻ đứng
Quỳ hoặc đứng sau lưng trẻ, vịng hai tay ơm lấy thắt lưng trẻ.
Nắm chặt bàn tay làm thành một quả đấm đặt ở vùng thượng vị, ngay dưới chóp
xương ức, phía trên rốn.
Ấn 5 cái dứt khoát theo hướng từ trước ra sau và từ dưới lên trên, mạnh và nhanh
Có thể lặp lại 6-10 lần ấn bụng cho tới khi dị vật rơi khỏi đường thở hoặc trẻ khóc
được.
- Nên nhanh chóng đưa trẻ đến bệnh viện để kiểm tra và lien lạc với phụ huynh
của trẻ
5 NHÓM TUỔI
+ Lớp trẻ từ 4 -5 tuổi:
TÌNH HUỐNG
Trong giờ hoạt động ngoài trời trẻ lén lấy kẹo dẻo trong túi ra ăn và chia cho bạn
trong lớp
DẤU HIỆU
Trẻ đột nhiên nhíu mày khó chịu rồi ngã ra đất, sùi bọt mép và bất tỉnh.
NGUYÊN NHÂN
Khi ăn kẹo, cô bé ăn quá nhanh, nhai chưa kỹ, ăn nhiều viên cùng lúc và vừa ăn
vừa nói chuyện, chạy nhảy.
CÁCH XỬ LÝ
Trường hợp hơn mê, bất tỉnh
- Đặt trẻ nằm ngửa. Người sơ cứu quỳ gối, tựa hai chân hai bên đùi trẻ.
- Nắm 2 bàn tay thành nắm đấm, đột ngột ấn vào dưới xương ức (đẩy dưới cơ
hoành) của trẻ. Ấn mạnh từ dưới lên trên 5 cái liên tiếp.
- Kiểm tra miệng lấy dị vật ra
- Nếu vẫn còn tắc nghẽn thì tiếp tục lặp lại ấn bụng như trên.
Đưa trẻ đến bệnh viện kiểm tra nhanh nhất, lien lạc với phụ huyng và thơng báo
tình hình của trẻ
6 NHĨM TUỔI
+ Lớp trẻ từ 5 - 6 tuổi
TÌNH HUỐNG
Trong giờ ăn xế có món cá hấp cơ dặn trẻ ăn chậm nhai kĩ nhưng trẻ muốn ra chơi
nhanh với bạn nên đã nhai vội hoặc nuốc trọng đồ ăn khiến xương cá mắc vào họng
DẤU HIỆU
Trẻ nhập viện trong tình trạng nguy kịch, tím tái, khơng cịn phản xạ, ngừng tim,
ngừng thở, tiên lượng tử vong
NGUYÊN NHÂN
Trẻ bị hóc xương cá trong khí quản, nghẹt thở
CÁCH XỬ LÝ
Trong tình huống bệnh nhân hôn mê và không thở được
- Nếu dị vật vẫn chưa ra, trẻ vẫn chưa thở được thì làm CPR: luân phiên ấn ngực
30 lần, thổi ngạt 2 lần cho đến khi trẻ tự thở đƣợc hoặc đến khi nhân viên y tế
tới.
- Khi trẻ thở được: đặt ở tư thế an toàn
Chú ý
- Sau khi lấy được dị vật, hoặc trẻ la khóc được, vẫn phải đưa nạn nhân đến cơ
sở y tế để kiểm tra.
2 Liên hệ trách nhiệm bản thân trong việc phòng dị vật đường thở cho trẻ tại cơ sở
GDMN. (3 điểm)
- Liên hệ trong cơng tác chăm sóc – giáo dục trẻ
- Liên hệ trong công tác tư vấn với phụ huynh của trẻ để phòng dị vật đường thở
cho trẻ tại nhà.
Phòng tránh dị vật đường thở cho trẻ
- Về phía GV: Khi nơn, nếu trẻ đang nằm thì nghiêng đầu trẻ về một bên để chất
nôn chảy ra ngồi và khơng bị hít vào đường hơ hấp, tuyệt đối không bế xốc trẻ dậy
khi trẻ đang nôn sẽ làm chất nôn dễ trào vào đường hô hấp. Nếu trẻ đang ngồi hoặc
đang đứng thì cuối đầu xuống để chất nôn không vào đường hô hấp. Không cho trẻ
ăn khi đang khóc, đang ho, đang ngủ gật. Với những trẻ hay khóc, hay nơn trớ, cần
cho ăn miếng nhỏ, ăn từ từ, vừa ăn vừa theo dõi, không đưa thìa sâu vào họng trẻ.
Khi cho trẻ ăn phải ngồi, không được để trẻ vừa nằm vừa ăn. Khi chế biến thức ăn
cho trẻ cần gỡ hết xương, cho ăn các loại quả cần bỏ hết hạt,... Nếu trẻ đang ngậm
hoặc ăn những thức ăn dễ gây hóc hoặc sặc, không nên hốt hoảng, la hét, mắng trẻ,
khiến trẻ sợ hãi làm dị vật dễ rơi vào đường thở GV cần bao quát trẻ mọi lúc mọi
nơi, không cho trẻ nằm dưới sàn nhà, tránh một số con vật chui vào tai và mũi trẻ.
GV mầm non cần tuyên truyền cho các bà mẹ và cộng đồng sự nguy hiểm của dị
vật đường ăn, đường thở, cách phòng tránh cho trẻ và xử lí khi tai nạn xảy ra.
- Về phía trẻ: GV mầm non cần giáo dục cho trẻ những thói quen như sau: Ăn
chậm nhai kĩ, khơng được nuốt vội vàng, không ăn miếng quá to, tập trung khi ăn,
khi ăn khơng cười đùa, nói chuyện; khơng cho đồ chơi vào miệng, không ngậm đồ
chơi, khi ăn không ngậm thức ăn, không nhét đồ chơi vào mũi, miệng, tai,...
- Về phía nhà trường: Hàng năm, nhà trường cần tổ chức các buổi tập huấn cho GV
cách xử lí khi trẻ bị dị vật đường thở và cách phòng tránh cho trẻ. trong việc dạy trẻ
các kĩ năng sống cần thiết, thì phụ huynh lại quá quan tâm đến việc ăn uống của
con và theo dõi cân nặng của con khi cho con đến trường. Ví dụ: thay vì cho con ăn
thức ăn ở trường chung với các bạn, phụ huynh lại mang thức ăn riêng, cho con ăn
riêng, hạn chế con ăn uống tập thể nên con không học được các kĩ năng ăn uống tập
thể, không gắn kết được với các bạn, khơng học được thói quen tốt khi ăn… Để
khắc phục hiện tượng này, phụ huynh nên kết hợp chặt chẽ với giáo viên ở trường
trong việc chăm sóc và ni dưỡng trẻ một cách khoa học, phù hợp với sự phát
triển của xã hội.
- Một sai lầm nữa mà các phụ huynh và ngay cả GVMN cũng dễ mắc phải trong
q trình chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ là: “ít quan tâm hoặc quan tâm thái quá tới sự
phát triển tâm lí của trẻ”. Trẻ trong lứa tuổi này dễ xúc động, hay để ý, hay quan sát
tỉ mỉ, thể hiện cảm xúc tức thời, dễ vui dễ buồn…
-Đối với những trẻ ít được cha mẹ, cô giáo quan tâm dễ rơi vào trạng thái buồn
chán, tự ti, ngại giao tiếp với mọi người xung quanh, hay làm ngược ý kiến của
người lớn. Ngược lại, những trẻ được cha mẹ và cô giáo quan tâm thái quá dễ dẫn
đến trẻ tự kiêu, “cho mình là nhất”, bắt người khác phải phục tùng mình, phải làm
theo ý kiến của mình. Cả hai trạng thái tâm lí này đều không tốt cho sự hình thành
nhân cách ban đầu ở trẻ. Cha mẹ và thầy cô giáo nên theo dõi thường xuyên, uốn
nắn kịp thời, đưa ra lời khen, động viên, khích lệ đúng lúc… giúp trẻ biết u
thương đồn kết, chia sẻ, tơn trọng, thông cảm, giúp đỡ những người xung quanh.
Cha mẹ và cô giáo là phải “tấm gương” cho trẻ về cử chỉ, hành động, lời nói và
việc làm; cần phát hiện và không ngừng bồi dưỡng những nét nhân cách tốt ở từng
trẻ.