Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Vấn đề giáo dục, bồi dưỡng giá trị đạo đức quân nhân cho học viên học viện kỹ thuật quân sự hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (913.72 KB, 121 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGUYỄN THỊ NGA

VẤN ĐỀ GIÁO DỤC, BỒI DƯỠNG GIÁ TRỊ
ĐẠO ĐỨC QUÂN NHÂN CHO HỌC VIÊN
HỌC VIỆN KỸ THUẬT QUÂN SỰ HIỆN NAY

CHUYÊN NGÀNH: TRIẾT HỌC
Mã số: 60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Trọng Tuấn

Hà Nội - 2013


MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU ................................................................................ 2
Chương 1 GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC QN NHÂN, ĐẶC TRƯNG
VÀ TÍNH QUY LUẬT CỦA Q TRÌNH GIÁO DỤC, BỒI
DƯỠNG GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC QUÂN NHÂN CHO HỌC VIÊN
HỌC VIỆN KỸ THUẬT QUÂN SỰ HIỆN NAY ....................... 9
1.1. Quan niệm về giá trị đạo đức, giá trị đạo đức quân nhân và đặc trưng của quá trình


giáo dục, bồi dưỡng giá trị đạo đức quân nhân cho học viên Học viện Kỹ thuật Quân sự
hiện nay......................................................................................................................... 9
1.2. Những vấn đề có tính quy luật trong q trình giáo dục, bồi dưỡng giá trị đạo
đức quân nhân cho học viên Học viện Kỹ thuật Quân sự ....................................... 30

Chương 2 THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP GIÁO DỤC, BỒI
DƯỠNG GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC QUÂN NHÂN CHO HỌC VIÊN
HỌC

VIỆN

KỸ

THUẬT

QUÂN

SỰ

HIỆN

NAY

............................................................................................ 45
2.1. Thực trạng quá trình giáo dục, bồi dưỡng giá trị đạo đức quân nhân cho học viên
Học viện Kỹ thuật Quân sư hiện nay............................................................................ 45
2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục, bồi dưỡng GTĐĐ quân nhân cho học viên
Học viện Kỹ thuật Quân sự hiện nay............................................................................ 64

KẾT LUẬN .......................................................................... 88

PHỤ LỤC 1 .......................................................................... 96


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
VIẾT ĐẦY ĐỦ

VIẾT TẮT

Chính trị Quốc gia

CTQG

Chủ nghĩa cộng sản

CNCS

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

Chủ nghĩa tư bản

CNTB

Cộng sản chủ nghĩa

CSCN

Giá trị đạo đức


GTĐĐ

Giáo sư, Tiến sĩ

GS,TS

Nhà xuất bản

NXB

Phó giáo sư, Tiến sĩ

PGS,TS

Quân đội nhân dân

QĐND

Xã hội chủ nghĩa

XHCN


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đạo đức cách mạng là cái gốc của người cách mạng, là sức mạnh của
Đảng. Do đó giáo dục, rèn luyện đạo đức là công việc đầu tiên và cũng là
công việc cơ bản, xuyên suốt của sự nghiệp đấu tranh xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc đào tạo, bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau đặc biệt là giáo dục, rèn luyện phẩm chất

đạo đức. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng nhấn mạnh: “Chú
trọng xây dựng nhân cách con người Việt Nam về lý tưởng, trí tuệ, đạo đức,
lối sống, thể chất, lịng tự tôn dân tộc, trách nhiệm xã hội, ý thức chấp hành
pháp luật, nhất là trong thế hệ trẻ” [6, tr.126].
Học viên Học viện Kỹ thuật Quân sự (Học viện KTQS) là những sĩ
quan trong tương lai, là lực lượng kế cận, bổ sung trực tiếp cho đội ngũ cán
bộ quân đội ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường phải thực sự vững vàng
về chính trị, tư tưởng, đạo đức. Đó là tiền đề đối với sự trưởng thành của mỗi
cá nhân học viên trong quá trình học tập, rèn luyện cũng như khi ra trường, là
một bảo đảm quan trọng để học viên góp phần vào nhiệm vụ xây dựng quân
đội theo hướng “cách mạng, chính qui, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”. Đối
với các nhà trường quân đội nói chung và Học viện KTQS nói riêng, giáo
dục, bồi dưỡng GTĐĐ quân nhân cho học viên là một nội dung cơ bản trong
mục tiêu giáo dục, đào tạo, một tiêu chí đánh giá chất lượng, đồng thời cịn là
sự định hướng cho hoạt động của các lực lượng trong thực hiện nhiệm vụ giáo
dục, đào tạo. Đối với học viên, tiếp nhận chuẩn GTĐĐ quân nhân, bồi dưỡng,
nâng cao nhận thức đối với những tiêu chí, chuẩn mực đạo đức người cách
mạng là cơ sở, điều kiện nâng cao phẩm chất chính trị, trình độ, năng lực
chun mơn của họ. Như vậy, giáo dục, bồi dưỡng GTĐĐ quân nhân vừa là
một địi hỏi tất yếu của q trình giáo dục, đào tạo đội ngũ cán bộ cho quân đội,


vừa là vấn đề có ý nghĩa nội sinh, thúc đẩy sự hoàn thiện nhân cách “Bộ đội Cụ
Hồ” cho học viên, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo, yêu cầu mới của sự
nghiệp cách mạng.
Trong những năm qua, mặc dù đã có sự quan tâm cần thiết nhưng vấn
đề giáo dục, bồi dưỡng GTĐĐ quân nhân cho học viên sĩ quan quân đội nhân
dân nói chung và học viên Học viện KTQS nói riêng vẫn đang đứng trước
những khó khăn, thách thức. Một mặt, q trình phát triển đất nước trong điều
kiện tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế đã dẫn đến tác động ngoài mong muốn,

làm cho sự đan xen giữa các giá trị và phản giá trị vốn đã phức tạp càng trở
nên phức tạp hơn trong đời sống đạo đức xã hội. Thực tế này cùng với những
tác động của mặt trái cơ chế thị trường tạo ra cộng hưởng tiêu cực, dẫn đến ở
một bộ phận xã hội hiện nay đã và đang có tình trạng “nhiễu” trong lựa chọn,
tiếp nhận, thẩm định GTĐĐ, làm đảo lộn trật tự thang giá trị xã hội. Khơng
nằm ngồi những đặc điểm chung ấy, trong đời sống của học viên Học viện
KTQS hiện nay đã xuất hiện một số những biểu hiện đáng báo động về đạo
đức, lối sống như thái độ thờ ơ với chính trị; giảm sút niềm tin vào mục tiêu,
lý tưởng của Đảng; đề cao chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, sống buông
thả, vi phạm kỷ luật; quay lưng, phủ nhận các giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, tiếp nhận xô bồ, thiếu chọn lọc các giá trị từ bên ngồi. Những biểu
hiện tiêu cực đó khơng chỉ ảnh hưởng xấu đến môi trường đạo đức trong nhà
trường mà cịn cản trở cho q trình giáo dục, bồi dưỡng GTĐĐ quân nhân
cho học viên làm cho hiệu quả của cơng tác này chưa đáp ứng được những
địi hỏi của nhiệm vụ chính trị trong tình hình mới. Việc nhận thức hệ giá trị,
chuẩn GTĐĐ quân nhân cũng như vai trò, nội dung giáo dục, bồi dưỡng
GTĐĐ chưa thực sự sâu sắc, đầy đủ; việc nhận thức, vận dụng những vấn đề
có tính quy luật cịn nặng tính tự phát, chưa xác lập được các giải pháp đồng
bộ để bảo đảm quá trình giáo dục, bồi dưỡng GTĐĐ quân nhân cho học viên


một cách hiệu quả, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo những sĩ quan “vừa
hồng, vừa chuyên” cho quân đội.
Xuất phát từ những lý do trên, nghiên cứu làm rõ bản chất quá trình
giáo dục, bồi dưỡng GTĐĐ quân nhân cho học viên Học viện KTQS hiện nay
là vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam, trong sự biến đổi nhanh chóng của đời sống xã hội với cơ
chế kinh tế thị trường theo định hướng XHCN hiện nay, đạo đức và GTĐĐ là
vấn đề được nghiên cứu khá nhiều. Các cơng trình nghiên cứu về đạo đức,

giáo dục, bồi dưỡng đạo đức ở Việt Nam trong thời gian vừa qua có thể lên
tới vài trăm nhưng nghiên cứu một cách hệ thống về GTĐĐ, giáo dục, bồi
dưỡng GTĐĐ thì cịn khá thưa thớt. Ngồi các bài viết trên các báo và tạp chí
chun ngành, có thể kể đến một số cơng trình tiêu biểu như: Chương trình
khoa học cơng nghệ cấp nhà nước KX - 07, “Con người Việt Nam - mục tiêu
và động lực của sự phát triển kinh tế xã hội” với các đề tài: “Tìm hiểu định
hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường” do
PGS,TS Thái Duy Tuyên chủ biên; “Giá trị - định hướng giá trị nhân cách và
giáo dục giá trị” do GS,TS Nguyễn Quang Uẩn chủ biên; “Các giá trị truyền
thống và con người Việt Nam hiện nay” do GS Phan Huy Lê và TS Vũ Minh
Giang chủ biên; “Giáo dục hệ thống GTĐĐ nhân văn” của PGS,TS Hà Nhật
Thăng, Nhà xuất bản giáo dục, 1998; “Về giá trị và giá trị Châu Á” của
PGS,TS Hồ Sĩ Quý, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2005; “Chuẩn mực đạo
đức con người Việt Nam hiện nay”, Viện Khoa học Xã hội và Nhân văn Quân
sự, Nhà xuất bản QĐND, 2006.
Ngoài ra, liên quan trực tiếp đến đề tài có thể kể đến một số cơng trình
luận án như “Quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại trong giáo
dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay” của Lê Thị Hoài Thanh; “Kế


thừa và đổi mới GTĐĐ truyền thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Văn Lý; “GTĐĐ truyền thống
trong việc giáo dục đạo đức cho sinh viên Công an nhân dân Việt Nam hiện
nay” của Phạm Bá Lượng.
Mặt khác hiện nay có nhiều cơng trình khoa học tiếp cận, nghiên cứu về
đạo đức, bồi dưỡng, phát triển đạo đức, GTĐĐ của QĐND Việt Nam từ nhiều
phương diện khác nhau. Có thể kể đến một số cơng trình: “Đạo đức học qn
sự”, Nhà xuất bản QĐND, 2001; Ngoài ra, các nghiên cứu về đạo đức còn
phải kể đến một số Luận án Tiến sĩ: “Vấn đề đạo đức cách mạng của người
cán bộ hậu cần QĐND Việt Nam trong điều kiện hiện nay” của Hà Nguyên

Cát; “Nâng cao đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ chính trị QĐND Việt
Nam trong tình hình mới” của Đặng Nam Điền; “Giáo dục, bồi dưỡng đạo
đức cách mạng của thanh niên QĐND Việt Nam trong tình hình hiện nay” của
tác giả Nguyễn Hùng Oanh. Đặc biệt, năm 2007, Viện Khoa học Xã hội và
Nhân văn Qn sự cơng bố cơng trình nghiên cứu tập thể “Định hướng GTĐĐ
QĐND Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” đã làm rõ quan
niệm về giá trị, GTĐĐ, định hướng GTĐĐ quân nhân, các tác giả đã tập trung
đánh giá thực trạng GTĐĐ quân nhân trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
hiện nay đồng thời xác định một số giải pháp cơ bản giáo dục định hướng
GTĐĐ quân nhân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng quân đội trong tình
hình mới. Đây là tài liệu tiếp cận trực tiếp nhất vấn đề của luận văn.
Các cơng trình kể trên đã khái qt nhiều nội dung lý luận cơ bản, quan
trọng về GTĐĐ nói chung và GTĐĐ quân nhân nói riêng. Tuy nhiên, vấn đề
GTĐĐ quân nhân, giáo dục GTĐĐ quân nhân nhìn chung mới chỉ được bàn
đến một cách khái quát nhất hoặc đi sâu ở khía cạnh, nội dung cụ thể. Dưới
góc độ triết học, cho đến nay, chưa có một cơng trình nào đi sâu nghiên cứu
một cách có hệ thống vấn đề giáo dục, bồi dưỡng GTĐĐ quân nhân cho đối


tượng cụ thể là học viên Học viện KTQS. Vì vậy, đề tài mà luận văn lựa chọn
là không trùng lặp với các cơng trình khoa học đã cơng bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ
Mục đích của luận văn: Nghiên cứu một cách hệ thống những vấn
đề lý luận và thực tiễn về giáo dục, bồi dưỡng GTĐĐ quân nhân cho học
viên, đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác
giáo dục, bồi dưỡng GTĐĐ qn nhân, góp phần hồn thiện nhân cách
học viên Học viện KTQS hiện nay.
Nhiệm vụ của luận văn:
- Luận chứng, làm rõ thực chất giáo dục, bồi dưỡng GTĐĐ quân nhân
cho học viên Học viện KTQS.

- Đánh giá đúng thực trạng và xác định những yêu cầu mới của quá
trình giáo dục, bồi dưỡng GTĐĐ quân nhân cho học viên Học viện KTQS
hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả công tác giáo
dục , bồi dưỡng GTĐĐ quân nhân cho học viên Học viện KTQS hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề giáo dục, bồi dưỡng GTĐĐ quân nhân của
học viên Học viện KTQS hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu quá trình giáo dục,
bồi dưỡng GTĐĐ quân nhân cho học viên được đào tạo để trở thành sĩ quan
qn đội có trình độ đại học ở Học viện KTQS, thời gian từ năm 2005 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở hệ thống các quan
điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng
Cộng sản Việt Nam về đạo đức và đạo đức cách mạng.


Cơ sở thực tiễn: Luận văn dựa trên cơ sở thực tiễn là đời sống đạo đức
xã hội mà trực tiếp là đời sống đạo đức của học viên Học viện KTQS; báo cáo
tổng kết, những số liệu điều tra, khảo sát của các cơng trình khoa học có liên
quan, các số liệu điều tra khảo sát của tác giả về thực trạng giáo dục, bồi
dưỡng GTĐĐ quân nhân cho học viên Học viện KTQS.
Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn vận dụng phương pháp tiếp
cận giá trị vào nghiên cứu đạo đức và giáo dục, bồi dưỡng GTĐĐ quân nhân
cho học viên Học viện KTQS. Đồng thời, luận văn sử dụng hệ thống các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Lơgíc và lịch sử; phân tích và tổng hợp;
khái qt hố, trừu tượng hố; khảo sát, điều tra xã hội học...
6. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn đã bổ sung và phát triển thêm những nghiên cứu về GTĐĐ và

GTĐĐ quân nhân, trên cơ sở khảo sát thực trạng đạo đức của học viên Học
viện KTQS từ năm 2005 đến nay luận văn đưa ra những giải pháp cơ bản
nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, bồi dưỡng GTĐĐ quân nhân cho
đối tượng cụ thể là học viên Học viện KTQS.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: luận văn đã góp phần hệ thống hóa nhiều nội dung lý
luận cơ bản, cốt lõi về vấn đề giáo dục, bồi dưỡng GTĐĐ nói chung và
GTĐĐ quân nhân nói riêng cho đối tượng học viên đào tạo sĩ quan có trình độ
đại học trong qn đội.
Về mặt thực tiễn: Luận văn cung cấp luận cứ khoa học nhằm nâng cao
hiệu quả công tác giáo dục, bồi dưỡng GTĐĐ quân nhân, hoàn thiện nhân
cách “Bộ đội Cụ Hồ” của học viên, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo sĩ
quan bậc đại học của Học viện KTQS hiện nay. Đề tài có thể dùng làm tài liệu
tham khảo để nghiên cứu và giảng dạy, học tập nội dung có liên quan đến vấn


đề giáo dục, bồi dưỡng đạo đức quân nhân cho học viên trong các nhà trường
quân đội.
8. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu gồm phần mở đầu, 2 chương, 4 tiết, kết luận,
danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục.


Chương 1
GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC QUÂN NHÂN, ĐẶC TRƯNG VÀ
TÍNH QUY LUẬT CỦA QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC, BỒI DƯỠNG
GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC QUÂN NHÂN CHO HỌC VIÊN HỌC VIỆN
KỸ THUẬT QUÂN SỰ HIỆN NAY
1.1. Quan niệm về giá trị đạo đức, giá trị đạo đức quân nhân và đặc
trưng của quá trình giáo dục, bồi dưỡng giá trị đạo đức quân nhân cho

học viên Học viện Kỹ thuật Quân sự hiện nay
1.1.1. Quan niệm về giá trị đạo đức và giá trị đạo đức quân nhân
1.1.1.1 Quan niệm về giá trị và giá trị đạo đức.
Quan niệm về giá trị
Hiện nay, phạm trù giá trị được tiếp cận và sử dụng trong nhiều lĩnh
vực, với nhiều mức độ rộng, hẹp khác nhau về nội hàm. Một cách chung nhất,
có thể quan niệm: giá trị là sự khẳng định ý nghĩa của đối tượng, khách thể
(vật chất hay tinh thần) đối với chủ thể (cá nhân, nhóm, cả cộng đồng) về một
phương diện nào đó [52, tr.9].
Về nguồn gốc, các giá trị được hình thành, tồn tại, biến đổi trên cơ sở
hoạt động thực tiễn của con người. Chính trong thực tiễn và chỉ có thơng qua
hoạt động thực tiễn, các giá trị vật chất và tinh thần mới xuất hiện, biến đổi.
Giá trị là phạm trù riêng có của lồi người với đặc trưng là hoạt động thực
tiễn. Vì vậy, cái gì khơng liên quan đến con người và đời sống thực tiễn của
con người thì cũng khơng tồn tại trong phạm trù giá trị. Con người - đó là giá
trị cao nhất trong thế giới, là giá trị của mọi giá trị, là chủ thể sáng tạo ra mọi
giá trị của xã hội. “Thế giới giá trị, về thực chất là toàn bộ thế giới bên trong
và bên ngoài con người được hiện hình trong tư duy và tình cảm của con
người” [20, tr.47].


Về bản chất, giá trị ln mang tính khách quan. Giá trị xuất hiện trong
mối quan hệ chủ thể và khách thể. Tuy nhiên, sự xuất hiện, tồn tại, mất đi của
giá trị nào đó khơng phụ thuộc vào ý thức con người là chủ thể trong mối
quan hệ với sự vật, hiện tượng. Mặc dù nhu cầu, tình cảm, nhận thức của chủ
thể có tham gia vào việc một sự vật, hiện tượng có giá trị với người đó hay
không nhưng xét đến cùng, mọi giá trị đều bị quy chiếu bởi cái chung, bởi sự
thừa nhận, đánh giá của xã hội. Ngay cả những giá trị riêng biệt (của sự vật,
hiện tượng) hay giá trị cá nhân cũng khơng vượt ra khỏi khn khổ đó. Chính
do đó, trong đời sống đạo đức từ cổ chí kim, dù là ở phương Đơng hay

phương Tây thì vẫn có thể tìm thấy sự tương đồng của những GTĐĐ cơ bản
như yêu lao động, trung thực, nhân ái.
Giá trị có tính lịch sử cụ thể. Tiêu chí cơ bản của các giá trị là lợi ích
xã hội và vì vậy chỉ khi nào sự vật, hiện tượng phù hợp với lợi ích xã hội thì
mới có giá trị. Tuy nhiên, lợi ích xã hội và yêu cầu của tiến bộ xã hội lại có
tính lịch sử, nghĩa là mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử, trên cơ sở những
điều kiện kinh tế - xã hội, xã hội lại có những yêu cầu riêng về lợi ích và sự
tiến bộ xã hội, do đó giá trị cũng có tính lịch sử cụ thể. Chính ở đây, những
điều kiện lịch sử cụ thể quy định chặt chẽ đến sự xuất hiện, tồn tại và biến đổi
của các giá trị. Ph.Ăng-ghen khẳng định:
Lời răn đạo đức “khơng được trộm cắp” chỉ có giá trị ở các xã hội có
chế độ sở hữu tư nhân về động sản, còn trong một xã hội mà mọi động
cơ đẩy tới trộm cắp đều bị loại trừ, do đó dần dần hầu như chỉ có những
người mắc bệnh tâm thần mới phạm tội trộm cắp, thì một nhà truyền bá
đạo đức nào muốn trịnh trọng tuyên bố cái chân lý vĩnh cửu: không
được trộm cắp, sẽ bị người ta chê cười [27, tr.137].
Về biểu hiện, giá trị là sự bộc lộ thái độ của cá nhân, nhóm xã hội, tập
đồn xã hội về lợi ích. Trong quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với


xã hội, các giá trị xuất hiện với tư cách là sự nhìn nhận, đánh giá của cá nhân,
cộng đồng. Sự nhìn nhận, đánh giá này chịu chi phối trực tiếp của lợi ích.
Điều này lý giải tại sao một hành vi đạo đức là giá trị đối với một cá nhân,
một cộng đồng này mà chưa hẳn là giá trị, thậm chí là phản giá trị đối với một
cá nhân, một cộng đồng khác. GTĐĐ giống như các giá trị nói chung “là quan
niệm về điều mong muốn đặc trưng ẩn hay hiện cho một cá nhân hay một
nhóm và ảnh hưởng tới việc lựa chọn các phương thức, phương tiện hoặc mục
tiêu của hành động”[25, tr.21]. Đương nhiên, ở mọi thời đại, mọi nền văn hóa
thì giết người là một tội ác nhưng tiêu diệt kẻ thù trong chiến tranh, bảo vệ
hịa bình, độc lập dân tộc thì lại khơng được nhìn nhận như vậy.

Về vai trị, giá trị định hướng cho hành động của con người. Một mặt,
các giá trị được hình thành, tồn tại, biến đổi trên cơ sở hoạt động thực tiễn của
con người. Mặt khác, giá trị giữ vai trò định hướng cho hoạt động của con
người, trong đó, các giá trị tinh thần như chính trị, đạo đức, thẩm mỹ có ý
nghĩa định hướng sâu sắc hơn. Mỗi một dân tộc, giai cấp, cộng đồng, cá nhân
chủ động vận hành hệ thống giá trị, thang giá trị, thước đo giá trị vào hoạt
động trong một quá trình xã hội xác định để tổ chức, điều khiển nhận thức,
tình cảm, ý chí và hành động của mình [20, tr.160]. Tùy theo các góc độ tiếp
cận, có thể phân chia thành các giá trị khác nhau; một cách chung nhất, ta có
giá trị vật chất và giá trị tinh thần; theo cấp độ sâu sắc ta có giá trị cốt lõi, giá
trị cơ bản; theo cộng đồng có giá trị dân tộc và giá trị nhân loại, giá trị chung
và giá trị riêng, giá trị cá nhân và giá trị xã hội; theo thời gian có giá trị truyền
thống và giá trị hiện đại...
Giá trị đạo đức
Đạo đức là một hiện tượng tinh thần của đời sống xã hội, là toàn bộ
những quan niệm của con người về thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm, danh dự,
trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng... và về những quy tắc điều chỉnh hành vi


ứng xử giữa giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với xã hội được thực hiện trên
cơ sở của niềm tin cá nhân, của sức mạnh truyền thống và dư luận xã hội. Từ
phương diện triết học, cấu trúc đạo đức bao gồm ý thức đạo đức, quan hệ và
hành vi đạo đức.
Ý thức đạo đức là sản phẩm của nhận thức đạo đức, bao gồm hệ
thống các yếu tố: tư tưởng, quan điểm, lý tưởng, niềm tin, quy tắc, chuẩn
mực đạo đức cùng những trạng thái cảm xúc, tình cảm đạo đức có quan hệ
chặt chẽ với nhau, phản ánh sâu sắc hiện thực đạo đức đang tồn tại gắn với
yêu cầu xã hội. Ý thức đạo đức có vai trị to lớn trong định hướng hoạt
động, giúp cho chủ thể đạo đức chủ động trong hướng dẫn, điều chỉnh thái
độ, hành vi đạo đức của mình và của người khác phù hợp với những yêu

cầu, lợi ích xã hội, đem lại những giá trị tốt đẹp.
Hành vi đạo đức là những hành vi của con người được xem xét, đánh
giá từ phương diện đạo đức. Hệ thống hành vi đạo đức của con người được
thực hiện đáp ứng yêu cầu của xã hội, được biểu hiện qua mỗi con người, là
quá trình trực tiếp tự cải biến và xác lập những phẩm chất đạo đức cá nhân,
làm giàu nhân cách của chính mình.
Những hành vi đạo đức diễn ra dưới tác động điều chỉnh của ý thức đạo
đức, là sự hiện thực hóa ý thức đạo đức trong đời sống xã. hội, trong các quan
hệ đạo đức, quan hệ ứng xử giữa con người với con người.
Từ những vấn đề đã trình bày ở trên về giá trị, về đạo đức, có thể quan
niệm: GTĐĐ là sự khẳng định ý nghĩa của các chuẩn mực, nguyên tắc, quy
tắc đạo đức đối với chủ thể đạo đức, giữ vai trò điều chỉnh ý thức và hành vi
của con người, mang lại lợi ích cho con người phù hợp với tiến bộ xã hội.
GTĐĐ không tách rời những chuẩn mực, nguyên tắc, hành vi ứng xử
cụ thể nhưng cũng không đồng nhất với chuẩn mực, nguyên tắc, hành vi đạo
đức. Bản thân các chuẩn mực, nguyên tắc, hành vi đạo đức chỉ mang giá trị


khi nó có ý nghĩa tích cực đối với chủ thể đạo đức xác định là cá nhân hay
cộng đồng người trong một thời đại, một nền văn hoá và một bối cảnh lịch sử
nào đó. “Đối với con người, thế giới hiện ra trong những khuôn thước, dù
rằng bản thân nó (thế giới vơ vàn những hiện tượng phong phú và phức tạp)
không mang ý nghĩa (sang - hèn, hay - dở, tốt - xấu...) gì đối với chính nó”
[20, tr.41]. Chẳng hạn, đạo đức cách mạng với tư cách là giá trị sẽ trở nên
trừu tượng, khó hiểu nếu không gắn với những chuẩn mực Trung, Hiếu, Cần,
Kiệm, Liêm, Chính, Chí cơng vơ tư... Đạo đức cách mạng cũng sẽ trở nên sáo
rỗng nếu khơng nhìn vào một nhân cách lớn với những phẩm chất đạo đức
trong sáng đến tuyệt vời của Hồ Chí Minh. Tuy nhiên tiêu chí để đánh giá
GTĐĐ rất khác biệt với phẩm chất, chuẩn mực, nguyên tắc, hành vi đạo
đức. Rõ ràng có thể khẳng định GTĐĐ không phải là bất cứ quan niệm, phẩm

chất, chuẩn mực, nguyên tắc đạo đức nào, mà chỉ là những phẩm chất, chuẩn
mực, nguyên tắc đạo đức đạt tới chân, thiện, mỹ.
“Với tư cách là sản phẩm của tiến trình phát triển lịch sử và mang tính
thực tiễn thì GTĐĐ được xác định là tất cả những gì đem lại sự phát triển, sự
tiến bộ cho xã hội và cho bản thân con người” [32, tr 349]. Trong mối quan hệ
với giá trị, lợi ích xã hội là tiêu chuẩn khách quan, là cơ sở hình thành các
GTĐĐ. Lợi ích và giá trị có quan hệ hữu cơ và thống nhất về bản chất, đó là
những đối tượng khách quan được con người lựa chọn để thỏa mãn nhu cầu
của mình trong hoạt động. Sự thỏa mãn lợi ích của con người rất phức tạp,
hình thành vơ số các khuynh hướng hành vi, có thể phù hợp, gần phù hợp,
thậm chí có thể đối lập với lợi ích chung của xã hội. Chỉ khi nào hành vi của
con người phù hợp với lợi ích xã hội, được dư luận đồng tình, ủng hộ thì mới
mang GTĐĐ. Vì vậy, các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức điều chỉnh hành vi
con người chỉ mang giá trị khi nó phản ánh được lợi ích xã hội. Như vậy,
GTĐĐ được xác định bởi mức độ phù hợp của những nguyên tắc, chuẩn mực


đạo đức đối với lợi ích xã hội, với yêu cầu của tiến bộ xã hội. Chính do đó,
trong đời sống đạo đức từ cổ chí kim, dù là ở phương Đông hay phương Tây,
ngay trong sự khác biệt vẫn có thể tìm thấy sự tương đồng của những GTĐĐ
cơ bản như yêu lao động, trung thực, nhân ái, tự lực cánh sinh, đồn kết gắn
bó cộng đồng, sống có tình nghĩa...
GTĐĐ được thể hiện thơng qua việc thực hiện các chức năng cơ bản
của đạo đức.
Một là, chức năng điều chỉnh hành vi. Sự điều chỉnh hành vi được thực
hiện bằng hai hình thức chủ yếu. Một là, thơng qua dư luận xã hội, ca ngợi,
khuyến khích cái thiện, cái tốt, lên án, phê phán cái ác, cái xấu. Trong trường
hợp này, GTĐĐ phụ thuộc vào sức mạnh và tính đúng đắn của dư luận. Mỗi
khi dư luận xã hội được củng cố và phát triển, được mọi người đồng tình ủng
hộ, nó sẽ trở thành sức mạnh to lớn trong việc điều chỉnh đạo đức. Dân tộc ta

có câu ca: "Trăm năm bia đá thì mịn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ".
Quả thật, dư luận xã hội hàng ngàn năm vẫn lưu truyền, nó trở thành công cụ
lợi hại trong việc điều chỉnh hành vi đạo đức. Do đó, nếu dư luận xã hội mỗi
khi được hướng dẫn bởi những học thuyết đạo đức tiên tiến, sẽ góp phần điều
chỉnh hành vi đạo đức, làm cho nó phù hợp với sự tiến bộ xã hội, tạo nên
nhưng GTĐĐ đích thực. Hai là, bản thân chủ thể đạo đức tự giác điều chỉnh
hành vi của mình theo những chuẩn mực đạo đức xã hội. Cách thức điều
chỉnh này phụ thuộc vào việc giáo dục, giác ngộ của chủ thể đạo đức. Bởi lẽ,
trong quan hệ đạo đức chủ thể đạo đức vừa tham gia vào hành vi ứng xử, vừa
là người phán xét hành vi ứng xử của chính mình.
Hai là, chức năng giáo dục. Chức năng giáo dục được thực hiện thông
qua sự giáo dục của xã hội và sự tự giáo dục của mỗi cá nhân. Giáo dục đạo
đức là quá trình tuyên truyền những tư tưởng, những chuẩn mực đạo đức xã


hội, biến nó thành thước đo đánh giá, điều chình hành vi của mỗi cá nhân
nhằm đạt tới một sự phù hợp giữa hành vi cá nhân với lợi ích xã hội.
Những hành vi đạo đức có tính chất lặp đi lặp lại, tạo nên các quan hệ
đạo đức tương đối ổn định và nó thường xun được duy trì, củng cố bằng dư
luận xã hội sẽ trở thành thói quen, tập quán, truyền thống đạo đức trở thành
nhân tố trực tiếp tác động đến sự hình thành đạo đức của thế hệ sau. Mỗi cá
nhân thông qua sự tự phán xét của lương tâm về hành vi của mình để củng cố
các chuẩn mực đạo đức cá nhân, để đạt tới hành vi ứng xử phù hợp với các
chuẩn mực đạo đức đó. Mặt khác, dựa vào dư luận xã hội, họ tự điều chỉnh
hành vi và điều chỉnh ngay cả những chuẩn mực đạo đức cá nhân khi nhận
thấy nó sai lệch với chuẩn mực xã hội. GTĐĐ trong trường hợp này được xác
định phụ thuộc vào sự nhạy cảm, sự cầu thị của chủ thể trong việc tu dưỡng,
rèn luyện đạo đức cho phù hợp với tư tưởng, chuẩn mực đạo đức của xã hội.
Ba là, chức năng nhận thức. Những tư tưởng đạo đức và chuẩn mực
đạo đức xã hội có trở thành các quan hệ đạo đức trong đời sống xã hội hay

khơng, điều đó khơng chỉ phụ thuộc vào tính đúng đắn, tư tưởng đạo đức, của
các chuẩn đạo đức, vào việc tuyên truyền, giáo dục trong xã hội, mà còn phụ
thuộc rất lớn vào khả năng tiếp nhận và chuyển hố nó trong hoạt động nhận
thức và trong hành vi của mỗi chủ thể đạo đức. Thông qua sự lựa chọn, đánh
giá của các chủ thể đạo đức về những tư tưởng, chuẩn mực đạo đức, trong bản
thân họ hình thành niềm tin, lý tưởng đạo đức và các nguyên tắc, chuẩn mực
đạo đức trong quan hệ ứng xử của chính họ. Hoạt động nhận thức đạo đức
cũng bao gồm hai trình độ: tình cảm và tư tưởng đạo đức, kinh nghiệm và lý
luận đạo đức. Nhận thức đạo đức ớ trình độ kinh nghiệm hoặc tình cảm đạo
đức gắn liền với hoạt động thực tiễn, với các quan hệ đạo đức của xã hội và
luôn chịu ảnh hưởng của dư luận, tập quán, truyền thống đạo đức. Nhận thức


đạo đức ở trình độ tư tưởng hoặc lý luận là nhận thức có tính ngun tắc được
chỉ đạo bởi những lợi ích căn bản của giai cấp, của xã hội.
GTĐĐ không tồn tại như là những giá trị riêng lẻ, biệt lập, tách rời mà
trái lại, liên kết chặt chẽ hình thành hệ giá trị. Khi các GTĐĐ được sắp xếp
theo một trật tự ưu tiên nhất định thì gọi là thang GTĐĐ. Thang GTĐĐ hình
thành, phát triển trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, phản ánh
lợi ích xã hội và gắn với bản sắc văn hóa của mỗi cộng đồng, với đặc trưng
nghề nghiệp của nhóm xã hội, cá nhân. Khi chủ thể nhận thức, vận dụng
thang GTĐĐ vào hướng dẫn nhận thức, điều chỉnh hành vi ứng xử, tự đánh
giá hành vi cá nhân thì được gọi là thước đo GTĐĐ. Nhân cách chính là thước
đo GTĐĐ của chủ thể, thước đo mức độ phù hợp giữa GTĐĐ cá nhân với
thang GTĐĐ xã hội, được thể hiện tập trung ở những đặc trưng về chuẩn
mực, hành vi đạo đức của cá nhân. Mỗi một dân tộc, giai cấp, cộng đồng, cá
nhân chủ động vận hành hệ thống giá trị, thang giá trị, thước đo GTĐĐ vào
hoạt động trong một quá trình xã hội xác định để tổ chức, điều khiển nhận
thức, tình cảm, ý chí và hành động của mình, tức là định hướng GTĐĐ. Sự
quan tâm của cả xã hội, nhóm xã hội để thang, thước đo GTĐĐ xã hội chuyển

thành thang, thước đo GTĐĐ cá nhân sẽ tạo ra động lực to lớn thúc đẩy hoạt
động tích cực của con người, đem lại lợi ích cho xã hội và tạo ra những
GTĐĐ mới, tiến bộ.
Chính trong q trình nhận thức và hoạt động thực tiễn của mình, chủ
thể đạo đức tiến hành phân tích, đánh giá, lựa chọn các tư tưởng đạo đức, các
chuẩn mực đạo đức xã hội, các thang GTĐĐ trong xã hội, trên cơ sở đó
chứng minh, lý giải các tư tưởng đạo đức và chuẩn mực đạo đức là đúng đắn,
hợp lý để tiếp thu và phê phán những quan niệm, tư tưởng đạo đức sai trái.
Như vậy, có thể thấy GTĐĐ được hình thành ở mỗi cá nhân luôn phụ thuộc
vào việc cá nhân ấy được giáo dục, định hướng đạo đức như thế nào và khả


năng tiếp thu, vận dụng những tư tưởng, các chuẩn mực, thang GTĐĐ đúng
đắn của xã hội ra sao.
1.1.1.2 Quan niệm về giá trị đạo đức quân nhân.
GTĐĐ quân nhân là sự biểu hiện của GTĐĐ xã hội nói chung trong
môi trường hoạt động đặc thù nhà trường quân đội. Ở đây, biện chứng giữa
cái chung và cái riêng được biểu hiện một cách sinh động. GTĐĐ quân nhân
do đó phải được xem xét trong mối liên hệ chuyển hoá giữa hệ thống GTĐĐ
xã hội thành GTĐĐ cần phải có ở mỗi quân nhân công tác trong quân đội.
Đây là hệ thống GTĐĐ tốt đẹp, tiến bộ, hợp quy luật vừa phản ánh thực tiễn
sự nghiệp cách mạng, vừa phản ánh sinh động thực tiễn học tập, công tác, rèn
luyện, chiến đấu của người cán bộ, sĩ quan, học viên; đồng thời, đó là kết quả
tác động trực tiếp của môi trường xã hội, môi trường hoạt động quân sự và
tổng hoà các mối quan hệ mà người học viên tham gia vào. Từ những phân
tích về giá trị, GTĐĐ thể quan niệm: GTĐĐ quân nhân là khẳng định ý nghĩa
của những tư tưởng và hành vi đạo đức cách mạng của người quân nhân,
chứa đựng trong hệ thống các nguyên tắc ứng xử, chuẩn mực đạo đức nhằm
định hướng, chuẩn hóa hành vi của họ mang lại lợi ích cho Tổ quốc, cho
Đảng, cho nhân dân trong quá trình học tập, rèn luyện, chiến đấu trong môi

trường quân đội.
Quá trình chiến đấu và trưởng thành của quân đội ta trong suốt hơn sáu
mươi năm qua đã khẳng định những giá trị tiêu biểu của người quân nhân
cách mạng, thể hiện tập trung và sinh động trong hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”.
Đó chính là sự ghi nhận, tơn vinh của xã hội dành cho lớp lớp các cán bộ, chiến
sĩ quân đội bởi phẩm chất, nhân cách của họ, đó là giá trị. Hệ thống GTĐĐ
quân nhân cách mạng đang từng ngày góp phần làm phong phú giá trị chân,
thiện, mỹ - nền tảng tinh thần của xã hội. Các giá trị đó được thể hiện sinh động
qua các chức năng, nhiệm vụ của quân đội, mà biểu hiện tập trung là:


Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì
độc lập, tự do của Tổ quốc, vì CNXH. Nhiệm vụ nào cũng hồn thành,
khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Cán bộ chiến
sĩ thương yêu nhau như ruột thịt, chia ngọt sẻ bùi. Quân với dân như cá
với nước, đồn kết một lịng, học hỏi giúp đỡ lẫn nhau. Qn đội ta có
tinh thần u nước chân chính, lại có tinh thần quốc tế vơ sản cao cả,
ln ln đoàn kết với nhân dân và quân đội các nước XHCN anh em,
với nhân dân các nước đang đấu tranh giải phóng dân tộc và nhân dân
u chuộng hịa bình thế giới [18, tr.349-350].
Với tư cách là những quân nhân, GTĐĐ của học viên sĩ quan QĐND
Việt Nam nói chung và học viên Học viện KTQS nói riêng là GTĐĐ quân
nhân cách mạng và có sự khác biệt so với GTĐĐ của các đối tượng khác
trong quân đội.
Nhìn một cách tổng thể, so với chiến sĩ thực hiện nghĩa vụ quân sự, ở
học viên sự nhận thức, thẩm định, đánh giá và thực hiện các GTĐĐ quân
nhân bao giờ cũng ở trình độ cao hơn. Đặc điểm này là do trình độ học vấn,
mặt bằng nhận thức của học viên đào tạo sĩ quan cao hơn chiến sĩ thực hiện
nghĩa vụ quân sự khá nhiều. Mặt khác, đặc điểm này cịn được có ngun nhân
là do quy trình đào tạo cơ bản, chính quy. Học viên được trang bị rất tồn diện,

trong đó mảng tri thức lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đóng vai trị
quan trọng. Chính do điều kiện ấy, trình độ nhận thức lý luận chính trị của học
viên hơn hẳn những đối tượng chiến sĩ thực hiện nghĩa vụ quân sự. Đây là cơ
sở quan trọng để học viên lựa chọn, thẩm định, chuyển hóa các GTĐĐ quân
nhân cách mạng thành hành vi chuẩn mực.
So với một đối tượng khác trong quân đội là sĩ quan, GTĐĐ của học
viên sĩ quan QĐND Việt Nam nói chung và Học viện KTQS nói riêng cũng
có biểu hiện khác biệt. Đội ngũ sĩ quan quân đội là những người đã qua quá


trình đào tạo, được tơi luyện trong thực tiễn hoạt động, cơng tác và do đó về
cơ bản các phẩm chất chính trị, đạo đức của họ đã hình thành và có sự ổn định
tương đối. Sự trải nghiệm thực tiễn giúp họ bản lĩnh hơn trước sự tấn công
của các tệ nạn xã hội. Trong bối cảnh đời sống đạo đức xã hội có sự đan xen
phức tạp giữa giá trị và phản giá trị, kinh nghiệm thực tiễn cũng giúp họ tỉnh
táo, sáng suốt hơn trong quá trình lựa chọn, thẩm định, sáng tạo các GTĐĐ.
Ngược lại, học viên sĩ quan là những người trẻ tuổi, là những nhân cách đang
trong q trình hồn thiện, họ có ưu điểm là sự nhiệt huyết, năng động, nhạy
cảm với cái mới nhưng dễ mắc sai lầm do kinh nghiệm thực tiễn cịn hạn chế.
Mặt khác, chính sự nhạy cảm, năng động nhưng thiếu kinh nghiệm thực tiễn cịn
có thể dẫn tới trường hợp chệch hướng trong bổ sung, phát triển nhiều GTĐĐ
của học viên, đặc biệt trong việc tiếp nhận các quan niệm, chuẩn mực mới, là hệ
quả của quá trình phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, tồn cầu hóa.
Với tư cách là những sinh viên quân sự, biểu hiện GTĐĐ của học viên
sĩ quan QĐND Việt Nam nói chung và học viên Học viện KTQS nói riêng có
khác biệt với sinh viên các trường đại học ngoài quân đội. Là đội ngũ kế cận
trực tiếp cho sự nghiệp xây dựng quân đội, hơn bất cứ một đối tượng nào, học
viên Học viện KTQS là những người ý thức một cách sâu sắc về vai trò, trách
nhiệm của họ trước Tổ quốc, nhân dân, trước Đảng, qn đội. Có thể nói,
ngay chính việc lựa chọn con đường binh nghiệp với rất nhiều hy sinh, gian

khổ đã ít nhiều thể hiện điều đó. Trong điều kiện phát triển của xã hội hiện
nay, học viên hồn tồn có thể lựa chọn cho mình những nghề nghiệp khác,
vừa khơng vất vả, vừa có thể có thu nhập cao sau khi ra trường. Tuy nhiên, sự
dũng cảm lựa chọn môi trường quân đội, khát khao học tập, rèn luyện, trau
dồi tri thức, kỹ năng hoạt động quân sự với mong muốn trở thành những sĩ
quan, để cống hiến được nhiều nhất, trực tiếp nhất cho sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc của đại bộ phận học viên là những điều không thể phủ nhận.


Cũng chính trong mơi trường hoạt động qn sự, những GTĐĐ như ý thức tổ
chức kỷ luật, tinh thần đồng chí, đồng đội... lại trở thành những giá trị nổi bật
của học viên. Môi trường nhà trường quân đội là môi trường đặc thù với tổ
chức, kỷ luật chặt chẽ. Học viên không chỉ được quản lý một cách chặt chẽ
trong giờ hành chính, mà cịn cả trong hoạt động sinh hoạt, vui chơi. Chính do
đó, học viên ln có ý thức tự giác chấp hành kỷ luật, vững vàng về bản lĩnh
chính trị, có ý thức quyết tâm cao ngay từ khi còn ngồi trong ghế nhà trường
điều này không phải ở bất cứ một môi trường nào cũng được làm tốt.
Do mục tiêu yêu cầu đào tạo cũng như vị trí, vai trị của người sĩ quan
trong tương lai, yêu cầu về phẩm chất chính trị đối với học viên sĩ quan
QĐND Việt Nam nói chung và học viên Học viện KTQS nói riêng cũng cao
hơn đối tượng sinh viên các trường đại học bên ngoài. Người sĩ quan đương
nhiên không chỉ giỏi về năng lực chuyên môn, mà phải vững vàng về chính
trị. Đặc biệt, trong chiến đấu và huấn luyện chiến đấu, phải có sự tin tưởng
vào đường lối, chủ trương của Đảng, của quân đội. Yêu cầu này đòi hỏi người
học viên ngay trong quá trình học tập, rèn luyện trong nhà trường phải ln
có sự vững vàng về bản lĩnh chính trị. Hơn nữa trung thành tuyệt đối, tin
tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng là phẩm chất chính trị hàng đầu của
người quân nhân. Do đó, sự dao động, phai nhạt niềm tin, lý tưởng sẽ không
thể tồn tại trong môi trường nhà trường quân đội. Vì những lý do trên, GTĐĐ
của học viên học viện KTQS có sự khác biệt ở cả nhận thức cũng như biểu

hiện thực tiễn. Sự tin tưởng tuyệt đối của học viên vào sự lựa chọn con đường
XHCN, vào sự lãnh đạo của Đảng và công cuộc đối mới được xây dựng vững
chắc trên cơ sở tiếp thu sâu sắc lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
các chủ trương, chính sách của Đảng; tiếp thu và vận dụng phương pháp nhận
thức biện chứng, khách quan, khoa học đối với thành tựu của công cuộc đổi
mới đất nước trong những năm gần đây. Sự nhận thức sâu sắc lý luận, cách


đánh giá khách quan, khoa học đối với thực tiễn cách mạng không chỉ ở trong
nhận thức, tư duy của học viên, mà nó cịn biểu hiện thống nhất trong hoạt
động thực tiễn; khơng chỉ biểu hiện trong q trình thực hiện nhiệm vụ trung
tâm là học tập, rèn luyện, mà cịn trong cả cơng tác xã hội khác như lao động
sản xuất, vận động quần chúng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái.
Học viên Học viện KTQS là những sĩ quan trong tương lai, một trong
những lực lượng nòng cốt, giữ vai trò rất quan trọng trong xây dựng quân đội
và tạo nên sức mạnh chiến đấu của quân đội. So với thanh niên ngoài quân
đội, với quân nhân trong quân đội, học viên Học viện KTQS có những đặc
điểm nổi bật là:
Về tâm lý lứa tuổi, học viên Học viện KTQS hầu hết ở lứa tuổi đang có
sự trưởng thành về nhân cách. Phần lớn trong số họ xu hướng nhân cách chưa
biểu hiện rõ nét, một số nét tính cách cịn thiếu ổn định. Ở họ, vốn sống, kinh
nghiệm, sự hiểu biết về truyền thống lịch sử vẻ vang của dân tộc và quân đội
chủ yếu tiếp thu qua sách vở, qua những phương tiện thông tin đại chúng mà
chưa được rèn luyện nhiều qua thực tiễn. Học viên Học viện KTQS có sự
nhạy cảm với cái mới, sơi nổi, nhiệt tình, có quyết tâm cao trong thực hiện
nhiệm vụ, tuy nhiên họ cịn thiếu chín chắn, khả năng tự kìm chế, khả năng
chọn lọc tiếp thu, lĩnh hội còn nhiều hạn chế. Cùng với những biến đổi của
kinh tế - xã hội, đời sống tinh thần của học viên biến động nhanh, bản lĩnh
chính trị, đạo đức, lối sống đang dần được củng cố, phát triển, nếu khơng có
sự giáo dục, rèn luyện có thể có sự lệch lạc nhất định.

Về trình độ học vấn, học viên Học viện KTQS là những người đã tốt
nghiệp phổ thông trung học. Để trở thành học viên, họ đã phải trải qua sự
tuyển chọn kĩ càng không chỉ là về mặt phẩm chất, nhân cách mà còn về
phẩm chất trí tuệ, năng lực. Bằng tốt nghiệp phổ thơng trung học là một điều
kiện cần nhưng tuyển sinh quân sự là một rào cản về tri thức mà mỗi học viên


đã xuất sắc vượt qua hàng ngàn thanh niên mỗi năm để trở thành học Học
viện KTQS. Chính sự lựa chọn này đã tạo ra khả năng tốt cho sự tiếp thu, lĩnh
hội tri thức lý luận, khoa học quân sự trong quá trình học tập, rèn luyện của
học viên.
Về phẩm chất chính trị, đạo đức, học viên Học viện KTQS được tuyển
chọn kĩ càng về phẩm chất, nhân cách. Trước hết, họ có xuất thân rõ ràng, chủ
yếu là con em nhân dân lao động, có một số là con em sĩ quan quân đội. Học
viên hiện nay sinh ra và lớn lên được thừa hưởng thành quả cách mạng của dân
tộc, được sự chăm lo giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội, là những thanh
niên có phẩm chất đạo đức, ý thức cơng dân tốt, khơng có tiền án, tiền sự, khơng
mắc các tệ nạn xã hội, thậm chí có tiêu chí khá quan trọng nữa là không tham gia
vào bất kỳ tôn giáo nào. Nhìn chung, trước khi trở thành học viên họ đã có nhận
thức bước đầu đúng đắn về lý tưởng cách mạng; về vai trò, trách nhiệm của
người thanh niên đối với dân tộc, với đất nước và với sự nghiệp cách mạng của
Đảng. Học viên là những người đã hình thành ý thức phục vụ lâu dài trong quân
đội với mơ ước trở thành sĩ quan, cống hiến trí tuệ và sức lực cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây là thuận lợi quan trọng trong quá trình giáo dục,
bồi dưỡng GTĐĐ cho học viên Học viện KTQS.
Về vai trò, nhiệm vụ, mục tiêu, yêu cầu đào tạo sĩ quan bậc đại học
trong QĐND Việt Nam nói chung và học viên Học viện KTQS nói riêng được
xác định là đào tạo những sĩ quan chỉ huy, chuyên mơn kỹ thật có trình độ bậc
đại học, có đủ năng lực chun mơn, bản lĩnh chính trị vững vàng. Xuất phát
từ mục tiêu yêu cầu, chuyên ngành đào tạo đòi hỏi người học viên phải nỗ lực

học tập, rèn luyện trong môi trường kỷ luật chặt chẽ. Mặt khác, trước yêu cầu
xây dựng quân đội trong tình hình mới, với vai trò là những sĩ quan trong
tương lai, người học viên luôn phải hoạt động với cường độ cao, phải tiếp thu
một khối lượng kiến thức toàn diện cả về chính trị và quân sự, khoa học kỹ


thuật, do đó địi hỏi sự nỗ lực rất lớn cả về thể chất và tinh thần. Một đặc điểm
quan trọng trong hoạt động của học viên Học viện KTQS là vai trị xung kích
trong thực hiện nhiệm vụ của nhà trường và của quân đội. Với tính chất là lực
lượng chính, đơng đảo trong Học viện, xung kích trong thực hiện nhiệm vụ là
sự thể hiện vai trò, trách nhiệm trong xây dựng nhà trường chính quy, mẫu
mực, góp phần xây dựng quân đội “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại” của đội ngũ học viên. Đây là thuận lợi quan trọng trong q
trình hiện thực hóa các GTĐĐ quân nhân của học viên Học viện KTQS.
Do những đặc điểm và đặc thù riêng không trùng lặp với các đối tượng
khác trong và ngoài quân đội nên hệ thống GTĐĐ của học viên Học viện
KTQS là một hệ thống các giá trị được hàm chứa trong tất cả các yếu tố - cấu
trúc từ ý thức đến hành vi đạo đức. Trong hệ GTĐĐ của học viên thống nhất,
có thể phân chia thành các nhóm giá trị đặc trưng bao gồm:
Nhóm các GTĐĐ của học viên gắn với mục đích, lý tưởng sống. Mục
đích, lý tưởng sống có ý nghĩa quan trọng, nó định hướng các mục tiêu, con
đường, phương thức sống trong suốt cuộc sống của con người. Do đó, các
GTĐĐ trong nhóm này bao trùm, định hướng toàn bộ đời sống đạo đức của
học viên. Tiêu biểu nhất trong nhóm này là các giá trị: Trung với nước, trung
với Đảng, hiếu với dân; trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH;
sẵn sàng cống hiến, hy sinh cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN. Trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân là các GTĐĐ
hàng đầu của người cách mạng và cũng là GTĐĐ cao nhất của người học
viên. Hơn nữa, nhiệm vụ chính trị của học viên là học tập, rèn luyện để trở
thành sĩ quan, kế tục sự nghiệp xây dựng quân đội, bảo đảm quân đội thực sự

là công cụ sắc bén bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân. Nhiệm vụ
này được mỗi học viên thấm nhuần, không chỉ dừng lại ở nghĩa vụ, trách
nhiệm mà cịn là tình cảm thiêng liêng của mỗi người, được cụ thể hóa trong


×