Khóa luận tốt nghiệp
Lê Thị Nhàn
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
LÊ THỊ NHÀN
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CƠNG TÁC
CÁN BỘ VÀO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT
Ở HUYỆN ĐÔNG SƠN, TỈNH THANH HÓA
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngành: Chính trị học
Hà Nội – 2015
1
Khóa luận tốt nghiệp
Lê Thị Nhàn
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
LÊ THỊ NHÀN
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CƠNG TÁC
CÁN BỘ VÀO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT
Ở HUYỆN ĐÔNG SƠN, TỈNH THANH HÓA
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngành
: Chính trị học
Mã số
: 52.31.02 01
Chuyên ngành : Tư tưởng Hồ Chí Minh
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: Th.s LÊ ĐÌNH NĂM
Hà Nội - 2015
2
Khóa luận tốt nghiệp
Lê Thị Nhàn
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thực tiễn đã cho thấy, đội ngũ cán bộ - đặc biệt là cán bộ chủ chốt
luôn là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, quyết định vai trò
lãnh đạo của Đảng, sức mạnh của Nhà nước và vận mệnh của độ mới. Việc
xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh tồn diện ln ln là mối quan tâm
hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta.
Sinh thời Hồ Chí Minh đã dạy: “Cán bộ là gốc của mọi công việc,
muôn việc thành công hay thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém. Cán bộ là
những người đem chính sách của Đảng, Chính phủ giải thích cho dân chúng
hiểu rõ và thi hành. Đồng thời cán bộ đem tình hình dân chúng báo cáo lại
cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt ra chính sách cho đúng. Vì vậy cán
bộ là gốc của mọi công việc nên huấn luyện cán bộ là công việc gốc của
Đảng”1. Người nhận thức được tầm quan trọng của cán bộ cũng như vị trí,
vai trị của cán bộ và cơng tác cán bộ; từ đó, Người luôn chăm lo, đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ để đáp ứng yêu cầu của của từng giai đoạn và đáp
ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra.
Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay và chiến lược
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhiệm vụ chính trị đang đặt ra nhiều vấn
đề cho cơng tác cán bộ, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải chăm lo xây dựng đội
ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp có trí tuệ, năng lực cơng tác
và thực tiễn, có bản lĩnh trính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức cách mạng.
Trong Văn kiện Đại hội lần thứ VIII: Đảng ta khẳng định phát triển
kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt mà trong cơng tác xây
dựng Đảng thì cán bộ và công tác cán bộ là quan trọng nhất, là khâu
then chốt của vấn đề then chốt, là nguyên nhân của mọi ngun nhân2.
1
Hồ Chí Minh (2011): Tồn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.309.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
2
3
Khóa luận tốt nghiệp
Lê Thị Nhàn
Huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hóa – một huyện có lợi thế về vị trí địa
lí, tiềm năng, nguồn lực, nguồn lao động, tài nguyên thiên nhiên. Là một
huyện mà có vùng kinh tế quan trọng của tỉnh và có nhiều chính sách phát
triển đã tạo nên nhiều thành tựu đáng kể trên các lĩnh vực. Để đạt được
những kết quả đó là do đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện- yếu tố góp phần
quyết định đến sự phát triển kinh tế - xã hội và sự ổn định chính trị trên địa
bàn. Trong những năm qua, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện của tỉnh cơ
bản đã đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đề ra. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ có
phẩm chất chính trị, tư tưởng vững vàng, có năng lực, trình độ ngày càng
được nâng lên, thật sự là người đầy tớ trung thành và công bộc của nhân
dân. Bên cạnh đó, cịn nhiều cán bộ tỏ ra lúng túng, bất cập trước yêu cầu,
nhiệm vụ mới thể hiện trong việc triển khai đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước, làm giảm lòng tin của nhân dân vào cán bộ.
Từ việc nhận thức được vị trí và vai trị của vấn đề cơng tác cán bộ
theo tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như đứng trước thực trạng của đội ngũ cán
bộ của huyện cần phải xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt toàn diện hơn về
mọi mặt. Vì vậy, em chọn đề tài: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng
tác cán bộ vào xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt ở huyện Đông Sơn, tỉnh
Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay” là đề tài khóa luận, hi vọng góp phần
nhỏ vào việc gợi ý xây dựng đội ngũ cán bộ và nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp huyện để đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ của huyện
Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
Khi đề cập đến vấn đề tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và cơng tác
cán bộ đã có nhiều cơng trình nghiên cứu của các học giả trong và ngồi
nước tiếp cận từ nhiều khía cạnh khác nhau. Song, trong khuôn khổ của đề
tài, tác giả liệt kê một số cơng trình nghiên cứu của các tác giả tiêu biểu đề
4
Khóa luận tốt nghiệp
Lê Thị Nhàn
cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và cơng tác cán bộ có liên quan
trực tiếp đến đề tài:
• Về sách chun khảo, chuyên đề, đề tài khoa học, kỷ yếu hội thảo
khoa học tiêu biểu là:
- Đặng Xuân Kỳ (chủ nhiệm đề tài): Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán
bộ, Đề tài khoa học cấp nhà nước KX.02 (1991 - 1995), là một cơng trình
tổng quan nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó tập trung đi sâu
nghiên cứu tư tưởng của Người về cán bộ và công tác cán bộ. Trong cuốn
sách những lý luận cơ bản nhất về cán bộ và công tác cán bộ của Đảng đã
được đề cập và làm rõ. Tuy nhiên, tác phẩm chỉ tập trung làm rõ những vấn
đề lý luận chung về cán bộ và công tác cán bộ ở tầm vĩ mô mà chưa đề cập
đến vấn đề ở cấp cơ sở.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ, Kỷ yếu Hội
thảo khoa học (1999), Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh- Kỷ yếu tập
hợp hàng trăm bài nghiên cứu của các học giả, đề cập đến nhiều khía cạnh
trong cơng tác xây dựng đội ngũ cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Bùi Đình Phong - Tư tưởng Hồ Chi Minh về cán bộ và công tác cán
bộ, Nxb. Lao Động, Hà Nội, 2002; tác phẩm với hơn 300 trang viết được kết
cấu thành bốn chương đã nghiên cứu một cách có hệ thống q trình hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và cơng tác cán bộ; tác giả đi sâu
phân tích, đánh giá để làm rõ những đóng góp của Hồ Chi Minh về cán bộ
và công tác cán bộ, về cả hai mặt lý luận và thực tiễn đào tạo cán bộ. Cơng
trình đã cung cấp cho người đọc một cái nhìn có hệ thống, toàn diện tư
tưởng Hồ Chi Minh về cán bộ và công tác cán bộ.
- Bùi Kim Hồng, trong cuốn Chủ tịch Hồ Chí Minh với cơng tác tổ
chức, cán bộ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009; tác giả đã sưu tầm các
lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng những bài viết về vấn đề cán bộ,
những mẩu chuyện, bài học rút ra từ tư tưởng của Người về công tác tổ chức
5
Khóa luận tốt nghiệp
Lê Thị Nhàn
cán bộ - nguồn lực quan trọng, nhân tố làm nên mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam.
- Trong cuốn Hồ Chí Minh đào tạo cán bộ và trọng dụng nhân tài,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, của Đức Vượng; tác giả đã trình bày
một cách hệ thống những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ.
Đồng thời, tác giả cũng làm rõ quá trình đào tạo, rèn luyện và sử dụng cán
bộ, trọng dụng nhân tài qua các giai đoạn cách mạng để giành độc lập cho
đất nước, tổ chức kháng chiến, kiến quốc thành công.
Một số luận án, luận văn:
- Phạm Công Khâm (2000), “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
xã vùng nông thôn Đồng bằng sông Cửu Long”- Luận án tiến sĩ Lịch sử,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Tác giả đã trình bày một
cách hệ thống những quan điểm của Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ.
- Trần Minh Thấu (2000), “Công tác quy hoạch và đào tạo cán bộ
chủ chốt cấp tỉnh ở Đồng Nai trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Tác giả đã đưa ra những
nội dung cơ bản về cán bộ nhưng tập trung chủ yếu đến vấn đề công tác quy
hoạch và đào tạo cán bộ.
- Bùi Khắc Hằng (2004), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ
với việc nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
ở Thanh Hóa hiện nay”, Luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội. Tác giả nghiên cứu một cách có hệ thống tư tưởng Hồ
Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ; đi sâu nghiên cứu, phân tích quan
điểm của Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ.
- Nguyễn Thị Lương Yên (2007), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
với việc nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
ở tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ khoa học
chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Luận văn đã đề
6
Khóa luận tốt nghiệp
Lê Thị Nhàn
cập đến vấn đề cán bộ, tác giả đã đi sâu nghiên cứu những quan điểm cơ bản
của tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ.
- Đoàn Mạnh Hùng (2013), “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng
tác cán bộ vào việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt ở huyện Khoái Châu,
tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ, Học viện Báo
chí và Tuyên truyền, Hà Nội. Với 2 chương nhưng tác giả đã đi sâu nghiên
cứu một cách hệ thống những quan điểm Hồ Chí Minh về cán bộ và công
tác cán bộ.
Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các kết quả nghiên cứu đã được cơng
bố, tác giả hy vọng đóng góp khẳng định thêm vai trị và giá trị của tư tưởng
Hồ Chí Minh về công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt huyện
Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hóa theo tư tưởng của Người.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ để phân tích,
đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt huyện Đông Sơn; từ đó đề
xuất những giải pháp cơ bản nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt
huyện Đông Sơn đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của địa phương trong giai
đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trình bày một cách có hệ thống những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ
Chí Minh về cơng tác cán bộ.
- Phân tích thực trạng xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt huyện Đơng
Sơn, tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ
chủ chốt ở huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay theo
tư tưởng Hồ Chí Minh.
7
Khóa luận tốt nghiệp
Lê Thị Nhàn
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về
công tác cán bộ và vận dụng vào xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt ở huyện
Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Khóa luận tập trung nghiên cứu nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí
Minh về cơng tác cán bộ, làm cơ sở lý luận cho việc đánh giá đúng thực
trạng và đề ra những giải pháp phù hợp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt ở huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay.
- Đội ngũ cán bộ chủ chốt ở huyện Đông Sơn gồm có các chức
danh: Bí thư, Phó bí thư Đảng ủy, Chủ tịch, Phó chủ tịch Uỷ ban nhân
dân; Chủ tịch, Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân; Chủ tịch, Phó chủ tịch Uỷ
ban Mặt trận Tổ quốc huyện; Trưởng, phó các ban, ngành, đồn thể khối
Đảng và khối chính quyền thuộc sự quản lý huyện ủy Đông Sơn từ năm
2011 đến 2015.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
- Khóa luận dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác
cán bộ.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học cụ thể như: phương pháp lịch sử - logic; phân tích, so
sánh, thống kê, tổng hợp…
6. Đóng góp của đề tài
- Góp phần làm rõ thêm tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ.
8
Khóa luận tốt nghiệp
Lê Thị Nhàn
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt ở
huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hóa, khóa luận đề xuất một số giải pháp nhằm góp
phần xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt ở huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa theo
tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên khi nghiên
cứu, học tập Chuyên đề tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, khóa luận được kết
cấu gồm 2 chương, 5 tiết.
9
Khóa luận tốt nghiệp
Lê Thị Nhàn
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC CÁN BỘ
1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.1.1. Cán bộ
Cán bộ là một trong những vấn đề có tầm quan trọng quyết định đối
với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng. Đó là những người xây dựng,
cụ thể hóa, phát triển và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương
của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Từ cán bộ được hiểu theo
nhiều nghĩa, dưới đây là một số định nghĩa về cán bộ như sau:
Theo Từ điển Tiếng Việt – Nxb. Văn hóa Sài Gịn, 2003, cán bộ được
định nghĩa là:
1. Người làm công tác có nghiệp vụ chun mơn trong cơ quan nhà nước.
2. Người làm cơng tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức,
phân biệt với người thường khơng có chức vụ.
Trong Từ điển Việt – Nhật, danh từ cán bộ được dùng với nghĩa là
người ở hạng cao trong một đoàn thể, là (yếu nhân) nhân vật quan trọng.
Cán bộ có thể hiểu theo hai nghĩa, trong đó hiểu theo nghĩa hẹp, cán
bộ chỉ gồm những người được bầu cử, đề bạt, bổ nhiệm giữ các chức vụ
trong các tổ chức, cơ quan của Đảng, Nhà nước, đoàn thể quần chúng, lực
lượng vũ trang. Còn hiểu theo nghĩa rộng thì cán bộ đồng nghĩa với tư cách
là một cơng chức trong bộ máy hành chính nhà nước.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, “cán bộ” là khái niệm cụ thể và việc
xác định “nội hàm” của nó được đặt trong những mối quan hệ nhất định.
Qua nghiên cứu trước tác của Hồ Chí Minh, có thể thấy “cán bộ” được
Người xác định trong mối quan hệ cơ bản: một là đối với nhân dân; hai là
đối với công việc; ba là đối với bộ máy Đảng và Nhà nước (cơ quan, tổ
chức); bốn là đối với đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng. Từ đó, Hồ Chí
Minh khẳng định: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của
10
Khóa luận tốt nghiệp
Lê Thị Nhàn
Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình
hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ để đề đặt chính sách
cho đúng”3. Có thể thấy rằng, theo Hồ Chí Minh cán bộ khơng những chỉ là
người có vai trị giác ngộ và hướng dẫn, lãnh đạo quần chúng mà cịn là
“cơng bộc”, “đầy tớ” của nhân dân, là tướng của đoàn thể, gốc của mọi công
việc; là “chiếc cầu nối” giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là người đem
chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với nhân
dân, giải thích cho dân hiểu rõ, cùng nhân dân thực hiện tốt chủ trương đó;
đồng thời cán bộ là người đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng,
Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng.
Như vậy, cán bộ được dùng và hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau
nhưng về cơ bản cán bộ có thể hiểu theo quan niệm chỉ những người làm
công việc chuyên môn nghiệp vụ ở trong các cơ quan nhà nước, họ có chức
vụ, vai trò, cương vị nòng cốt trong một tổ chức, có ảnh hưởng lớn đến hoạt
động của tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành
góp phần định hướng sự phát triển của tổ chức.
1.1.2. Cơng tác cán bộ
Cơng tác cán bộ là tồn bộ các khâu, các mảng trong quá trình thực
hiện như lựa chọn, đào tạo, sử dụng, bố trí, đề bạt, chính sách, quản lý đội
ngũ cán bộ. Các khâu này có liên hệ với nhau nếu thực hiện tốt cơng tác cán
bộ sẽ xây dựng đội ngũ nâng cao chất lượng cũng như số lượng.
Khi Đảng chưa nắm chính quyền, vấn đề cán bộ và công tác cán bộ
được V.I.Lênin đặc biệt quan tâm. Khi đã giành được chính quyền, Đảng là
người lãnh đạo trực tiếp mọi mặt của đời sống xã hội; lúc này, vấn đề cán bộ
cũng trở nên cấp bách, cần thiết. Bởi Đảng phải có một đội ngũ cán bộ tốt cả
về số và chất lượng để thực hiện công việc của cách mạng trong giai đoạn
mới. V.I.Lênin cho rằng: “Nghiên cứu con người, tìm những cán bộ bản lĩnh
3
Hồ Chí Minh (2011): Tồn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.309.
11
Khóa luận tốt nghiệp
Lê Thị Nhàn
hiện nay đó là then chốt, nếu khơng thế thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết
định sẽ chỉ là mớ giấy lộn”4. V.I.Lênin còn chỉ rõ, trong bất kỳ giai đoạn nào
của cuộc cách mạng người cộng sản lãnh đạo chỉ có một cách duy nhất để
chứng minh quyền lãnh đạo của mình, đó là tìm cho được nhiều, càng ngày
càng nhiều những người phụ tá…, biết giúp đỡ họ làm việc, biết đề bạt họ,
biết giới thiệu và chú ý đến kinh nghiệm của họ.
V.I.Lênin còn yêu cầu đội ngũ cán bộ chủ chốt của Đảng phải có
phẩm chất đạo đức cách mạng, bản lĩnh trí tuệ, năng lực trí tuệ, năng lực tổ
chức thực tiễn, phong cách thạo việc. Theo V.I.Lênin: lòng trung thành vô
hạn tuyệt đối bất di bất dịch đối với cách mạng là tiêu chuẩn đầu tiên đối với
người cán bộ cách mạng. Nhưng lòng trung thành phải được kết hợp với
năng lực hiểu biết về con người, với năng lực tổ chức, với quá trình tổ chức
thực hiện có hiệu quả tồn bộ cơng tác thực tiễn theo đúng sách lược của
Đảng. V.I.Lênin khẳng định: “phẩm chất cao quý, hiểu theo nghĩa là họ có
làng trung thành với sự nghiệp và có năng lực”5.
Chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định vai trị của cán bộ và cơng tác
cán bộ quyết định sự nghiệp cách mạng của mỗi chính đảng. Dù ở bất kỳ
thời kỳ cách mạng nào, Đảng đó cũng phải coi trọng, đề cao vai trị của cán
bộ và cơng tác cán bộ.
Sinh thời, Hồ Chí Minh không đưa ra một khái niệm cụ thể, đầy đủ,
hồn chỉnh về cơng tác cán bộ, song Người đã nói đến nhiều nội dung thể
hiện nội hàm của khái niệm công tác cán bộ. Theo Người, công tác cán bộ là
hệ thống những công việc mà người lãnh đạo và cơ quan tổ chức cán bộ các
cấp phải thực hiện một cách liên hoàn, chặt chẽ và đồng bộ dưới sự lãnh đạo
của Đảng nhằm tạo ra một đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực để
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra của từng thời kỳ cách mạng.
4
5
V.I. Lênin (1978): toàn tập, tập 44, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, tr. 449.
V.I. Lênin (1979): toàn tập, tập 8, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, tr. 509.
12
Khóa luận tốt nghiệp
Lê Thị Nhàn
Trong sự nghiệp cách mạng của Đảng có nhiều nhiệm vụ mới, nhiều
cơng việc, trong đó cán bộ là cái gốc. Nếu có cán bộ tốt, cán bộ ngang tầm
thì việc xây dựng đường lối sẽ đúng đắn và là điều kiện tiên quyết để đưa ra
sự nghiệp cách mạng đi đến thắng lợi. Không có đội ngũ cán bộ tốt thì dù có
đường lối, chính sách đúng cũng khó có thể biến thành hiện thực được.
Muốn biến đường lối thành hiện thực, cần phải có những con người sử dụng
lực lượng thực tiễn, đó là đội ngũ cán bộ cách mạng và cùng với quần chúng
cách mạng, bằng sự mẫn cảm của mình để đưa cách mạng đến thành công.
Kế thừa những quan điểm trong công tác cán bộ của chủ nghĩa Mác –
Lênin và đòi hỏi thực tiễn của sự nghiệp cách mạng mước ta, ngay từ rất
sớm Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm tới công tác cán bộ của Đảng.
Từ đó, Người đã trực tiếp tổ chức đào tạo, huấn huyện đội ngũ cán bộ
làm hạt giống đỏ cho cách mạng Việt Nam. Đặc biệt trong quá trình cùng
Đảng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, kháng chiến bảo vệ
Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, công tác cán bộ được Người đề cập
thường xuyên và nhất quán, từ “Sửa đổi lối làm việc” (1947) đến “Thường
thức chính trị” (1953) và cuối cùng là tác phẩm “Di chúc” (1969). Có thể
thấy rằng, khi nói đến công tác cán bộ không thể không tách rời trách nhiệm
của tổ chức và cá nhân người cán bộ, vì nói đến tổ chức là nói đến con
người và muốn có tổ chức trước hết phải có con người tổ chức.
Có thể thấy rằng, Hồ Chí Minh đã nói nhiều nội dung thể hiện nội
hàm của khái niệm công tác cán bộ. Theo Người công tác cán bộ là hệ thống
những công việc mà người lãnh đạo cơ quan tổ chức cán bộ các cấp phải
thực hiện một cách liên hoàn, chặt chẽ và đồng bộ dưới sự lãnh đạo của
Đảng nhằm tạo ra một đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực để đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra của cách mạng trong từng thời kỳ.
Nội dung công việc của công tác cán bộ mà Người thường xuyên hay
nói và làm trong suốt cuộc đời của mình là: Hiểu biết cán bộ, đánh giá đúng
13
Khóa luận tốt nghiệp
Lê Thị Nhàn
cán bộ, sử dụng đứng cán bộ (khéo dùng cán bộ), cất nhắc cán bộ, thường
xuyên giúp đỡ cán bộ, phê bình và giám sát cán bộ, quy hoạch, đào tạo…
Nội dung công tác cán bộ này đã được Đảng ta nhận thức và vận dụng trong
suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam cho đến nay.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ là sự địi hỏi sự
phấn đấu rèn luyện của từng cán bộ với tư cách là chủ thể và cán bộ là con
người của tổ chức luôn gắn với tổ chức. Chất lượng của đội ngũ cán bộ còn
là kết quả tổng hợp của tất cả các khâu lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng (huấn
luyện), bố trí, sử dụng, đánh giá, cân nhắc, kiểm tra, phê bình… Đảng khơng
làm tốt cơng tác cán bộ thì khơng đủ sức và không xứng đáng làm lãnh đạo
cách mạng.
1.1.3. Cán bộ chủ chốt
Để hiểu rõ được cán bộ chủ cốt là gì thì trước hết cần phải hiểu được
từ “chủ chốt là gì?”. Chủ chốt theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngơn ngữ
học do Hồng Phê chủ biên (2004) là: “Quan trọng nhất, có tác dụng làm
nịng cốt. Cán bộ chủ chốt của phong trào”6.
Cán bộ chủ chốt được hiểu theo hai nghĩa:
Theo nghĩa rộng, cán bộ chủ chốt bao gồm những người giữ chức vụ
và trách nhiệm cao trong một tổ chức, có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của
tổ chức, của bộ máy, có vai trị tham gia định hướng lớn điều khiển hoạt
động của bộ máy. Ví dụ như ủy viên Ban Chấp hành, Ban Thường vụ trong
bộ phận cán bộ lãnh đạo có một nhóm gọi là cán bộ lãnh đạo chủ chốt. Đó là
những người đứng đầu quan trọng nhất, có chức vụ cao nhất trong một đồn
thể, có quyền ra những quyết định về chủ trương, có trách nhiệm về quyền
điều hành một tập thể, một đơn vị, một tổ chức để thực hiện những nhiệm vụ
của tập thể hoặc tổ chức ấy thậm chí có thể chi phối, dẫn dắt tồn bộ hoạt
động của một tổ chức nhất định. Đây là một bộ phận rất quan trọng, ảnh
6
Viện ngôn ngữ học (1997), Từ điển Tiếng việt, Nxb. Đà Nẵng, Hà Nội – Đà Nẵng, tr.174.
14
Khóa luận tốt nghiệp
Lê Thị Nhàn
hưởng đến tồn bộ hoạt động của một tập thể của một tổ chức và của cả hệ
thống chính trị. Việc xác định cán bộ chủ chốt hay không chủ chốt nên căn
cứ vào trách nhiệm cụ thể của mỗi người cán bộ và đặt nó vào mối quan hệ
khác, vị trí khác thì lại không phải là chủ chốt.
Theo nghĩa hẹp, cán bộ chủ chốt là những người cầm đầu tổ chức
quốc gia. Họ là nhóm lãnh đạo ở tầm vĩ mơ, ở nước ta những cán bộ này gọi
là cán bộ lãnh đạo cao cấp, họ có vai trị quyết định đến vận mệnh của quốc
gia dân tộc.
Vậy ta có thể hiểu cán bộ chủ chốt là người đứng đầu cơ quan, đơn vị
trong hệ thống chính trị của Đảng. Cán bộ chủ chốt là nòng cốt, là hạt nhân
của phong trào cách mạng, người trực tiếp lãnh đạo, tổ chức, thực hiện
nhiệm vụ chính trị ở cơ quan đơn vị và phải chịu trách nhiệm trước Đảng,
Nhà nước, cơ quan cấp trên, với nhân dân về công việc được giao.
1.2. Nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ
Là người Việt Nam yêu nước sớm đến với chủ nghĩa Mác – Lênin,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu và vận dụng một cách sáng tạo lý luận về
cán bộ và công tác cán bộ vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ
Chí Minh về công tác cán bộ là một bộ phận quan trọng trong tồn bộ di sản
của Người. Trước khi có Đảng, Người cũng đã chuẩn bị điều kiện để xây
dựng, tổ chức, huấn luyện những hạt giống đỏ cho cách mạng; đến khi có
Đảng, Người ln quan tâm, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ cách mạng
mà như Người đã viết: Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng,
của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem
tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt
chính sách cho đúng. Tồn bộ những giá trị lý luận phong phú và sâu sắc
của Người về công tác cán bộ gồm các nội dung cơ bản sau:
15
Khóa luận tốt nghiệp
Lê Thị Nhàn
1.2.1. Về vị trí, vai trị cơng tác cán bộ
Trong hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh ln chú ý đến việc xây
dựng đội ngũ cán bộ để có đủ sức mạnh hồn thành sự nghiệp vẻ vang của
Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ có ý nghĩa to lớn đối với
sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Trong quá trình xây dựng Đảng, công tác
cán bộ là một trong những công tác chiếm vị trí quan trọng hàng đầu, có vai
trị quyết định thành cơng tới tồn bộ cơng tác xây dựng lực lượng cách
mạng của Đảng. Khi nào, nơi nào làm tốt cơng tác cán bộ thì nơi đó, khi đó
cách mạng sẽ có nhiều mặt thuận lợi và giành được thắng lợi và ngược lại.
Với quan điểm đó, cả cuộc đời mình, Hồ Chí Minh ln ln chú trọng đến
công tác cán bộ, từ đánh giá, lựa chọn, huấn luyện, thử thách, rèn luyện, sử
dụng, đãi ngộ cán bộ.
Để có thể xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức đủ tài, đáp ứng đòi hỏi của
mỗi giai đoạn cách mạng, cơng tác cán bộ có vị trí quyết định. Hồ Chí Minh
là người nêu gương hoạch định đường lối, chính sách và nguyên tắc vừa linh
hoạt trong xây dựng đội ngũ cán bộ. Người coi công tác cán bộ cũng như
việc đào tạo nhân tài là trọng yếu và cần thiết. Vai trị của tổ chức và cơng
tác cán bộ rất quan trọng. Chất lượng cán bộ phụ thuộc vào kết quả tổng hợp
các khâu của công tác cán bộ và sự phấn đấu nổ lực của từng cán bộ. Muốn
có đội ngũ cán bộ tốt, cán bộ giỏi, thì phải có tổ chức vững mạnh. Cũng như
muốn tạo ra trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại
biểu tiên phong đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào, thì phải chăm
lo đến cơng tác cán bộ. Người nói: Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành
cơng và thất bại của chính sách đó là do cách tổ chức cơng việc, do nơi lựa
chọn cán bộ, do nơi kiểm tra. Nếu ba điểm ấy sơ sài, thì chính sách đúng
mấy cũng vơ ích.
Có tổ chức vững mạnh, làm tốt công tác cán bộ sẽ hạn chế và sửa
chữa những khuyết điểm, phát huy những ưu điểm của cán bộ, nhân sức
16
Khóa luận tốt nghiệp
Lê Thị Nhàn
mạnh của cán bộ lên. Mặt khác, lãnh đạo khéo, tài nhỏ có thể hóa ra to.
Lãnh đạo khơng khéo, tài to cũng hóa thành tài nhỏ. Thật vậy, nếu như xây
dựng đội ngũ cán bộ tốt, cán bộ giỏi thì chính họ sẽ là hạt nhân xây dựng và
phát triển đội ngũ cán bộ mới, những người thực sự có tài và có đức, tạo
niềm tin của nhân dân vào sự nghiệp lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và chế
độ. Ngược lại, nếu công tác cán bộ trì trệ, tổ chức lủng củng thì cán bộ cũng
khơng có điều kiện phát triển, dễ làm cho cán bộ hoang mang, không phát
huy được hết sức mình.
Cán bộ là gốc của mọi cơng việc thì địi hỏi người cán bộ phải không
ngừng phấn đấu rèn luyện với tư cách là chủ thể. Nhưng cán bộ Đảng, Nhà
nước, đoàn thể là con người của tổ chức, là tiền vốn của đoàn thể. Đảng lãnh
đạo mọi mặt trong đời sống xã hội, trong đó có cơng tác cán bộ. Đảng khơng
làm tốt cơng tác cán bộ thì sẽ không tạo ra được những con người sử dụng lực
lượng thực tiễn, những công bộc của nhân dân, những lãnh tụ của giai cấp vơ
sản. Hồ Chí Minh thường nói: cán bộ là gốc của mọi công việc, huấn luyện
cán bộ là công việc gốc của Đảng. Chất lượng cán bộ tùy thuộc vào công tác
cán bộ. Nếu như tất cả các khâu: phát hiện, lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng, cất
nhắc, đề bạt, bố trí, kiểm tra… đều làm tốt thì nhất định ta sẽ có đội ngũ cán
bộ chất lượng tốt. Chỉ cần một trong những khâu đó bị xem nhẹ, làm khơng
đến nới đến chốn thì sẽ khiến cho chất lượng đội ngũ cán bộ kém đi rất nhiều.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: Nếu cán bộ là gốc của mọi cơng việc thì
cơng tác cán bộ là cơng việc gốc của Đảng. Bởi nó là công việc quan trọng
đầu tiên, quyết định thành hay bại công tác xây dựng lực lượng cán bộ cho
Đảng, quyết định đến mọi thành công hay thất bại cho sự nghiệp của Đảng.
Chính vì thế, cả cuộc đời Người ln chăm lo đến cán bộ và công tác cán bộ.
Đảng ta luôn quan tâm đến vấn đề này và khẳng định: Cán bộ là nhân tố
quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất
nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng .
17
Khóa luận tốt nghiệp
Lê Thị Nhàn
Như vậy, cơng tác cán bộ giữ vai trị trọng yếu trong tồn bộ hoạt
động của Đảng. Thực hiện tốt công tác cán bộ là sự chủ động tạo ra một đội
ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của Đảng trong từng thời kỳ cách
mạng. Vì vậy, chăm lo cơng tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch,
vững mạnh, toàn diện và đồng bộ là vấn đề mấu chốt trong tồn bộ sự
nghiệp cách mạng, là gốc của mọi cơng việc. Từ đó, Đảng ta khẳng định:
cơng tác cán bộ là một bộ phận quan trọng trong công tác tổ chức của Đảng
trực tiếp quyết định đến khâu then chốt của nhiệm vụ then chốt.
1.2.2. Tiêu chuẩn cán bộ
Tiêu chuẩn cán bộ là những quy định đối với cán bộ về phẩm chất
chính trị, đạo đức, trình độ văn hóa, chun mơn, nghiệp vụ, ngoại ngữ,
năng lực trí tuệ, khả năng đoàn kết, tập hợp quần chúng, lề lối làm việc, tác
phong công tác và sức khỏe. Xây dựng tiêu chuẩn cán bộ là một nội dung
quan trọng trong công tác cán bộ.
Tiêu chuẩn cán bộ là cơ sở và tiền đề làm căn cứ xem xét, đánh giá,
lựa chọn, bố trí; sắp xếp, bổ nhiệm, giới thiệu, ứng cử, bố trí cơng tác, giao
nhiệm vụ; quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng; luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật
và giải quyết chế độ, chính sách đối với cán bộ. Tiêu chuẩn cán bộ là cơ sở
để từng người cán bộ phấn đấu, tự rèn luyện để hồn thiện mình.
Xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng, từ việc đánh giá cao
vai trò của cán bộ với tư cách là chủ thể. Hồ Chí Minh ln ln địi hỏi cán
bộ phải tự giác rèn luyện về mọi mặt, không ngừng nâng cao phẩm chất,
năng lực, xứng đáng “vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ trung thành của
nhân dân”7. Người đã chỉ ra những tiêu chuẩn đối với cán bộ như sau:
Thứ nhất, người cán bộ phải có đạo đức cách mạng
“Đạo đức và trí tuệ”, “danh và thực”, “tài, trí, tâm” là những yếu tố cơ
bản tạo nên yêu cầu phẩm chất cần thiết của người các bộ của Đảng, của
7
Hồ Chí Minh: Tồn tập, sđd, t.1, tr.15.
18
Khóa luận tốt nghiệp
Lê Thị Nhàn
Chính phủ. Trong mối quan hệ giữa “Đức và Tài” thì Người cho rằng đạo
đức cách mạng là tiêu chuẩn đầu tiên không thể thiếu của người cán bộ cách
mạng. Người coi đạo đức là gốc, là nền tảng quyết định sự vững chắc, phát
triển, thành công hay thất bại của cán bộ cách mạng. Người coi đạo đức
cũng giống như gốc của cây, ngọn nguồn của suối, của sơng: “Cũng như
song thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có
gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có
đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn
giải phóng dân tộc, giải phóng lồi người là một cơng việc to tát, mà tự mình
khơng có đạo đức, khơng có căn bản, tự mình đã hủ hóa xấu xa thì cịn làm
nổi việc gì”8.
Trong suốt cuộc đời hoạt động và lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh
đã nhiều lần nhấn mạnh đến các tiêu chí, phẩm chất đạo đức của người cán
bộ, đảng viên. Người rất quan tâm đến vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức
cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Người đã có rất nhiều bài
nói, bài viết đề cập đến vấn đề đạo đức cách mạng. Trong tác phẩm “ Đường
cách mệnh”, Người đã nêu lên 23 điều tư cách của cán bộ cách mạng cho
đến cuối đời trong “Di chúc” Người cũng đã dành riêng một phần nói về
đạo đức và căn dặn: Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng
cho đoàn viên và thanh niên, đào tạo họ thành những người kế thừa xây
dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”; Người còn yêu cầu:
“Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự
thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư.
Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là
đầy tớ thật trung thành của nhân dân”9.
Để trở thành một người cán bộ cách mạng chân chính, điều cốt yếu
đầu tiên là phải có đạo đức cách mạng. Phải giữ vững đạo đức cách mạng
8
9
Hồ Chí Minh: Tồn tập, sđd, t.5, tr.292 – 293.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, sđd, t.5, tr.622.
19
Khóa luận tốt nghiệp
Lê Thị Nhàn
mới là người cán bộ cách mạng chân chính. Đạo đức cách mạng có thể nói
tóm lại là: “Nhận rõ phải, trái. Giữ vững lập trường. Tận trung với nước.
Tận hiếu với dân”10. “Người đảng viên, người cán bộ tốt muốn trở nên
người cách mạng chân chính, khơng có gì là khó cả. Điều đó hồn tồn là do
lịng mình mà ra. Lịng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào thì
mình sẽ tiến đến chỗ chí cơng vơ tư. Mình đã chí cơng vơ tư thì khuyết điểm
sẽ càng ngày càng ít, mà những tính tốt ngày càng thêm. Đó là đạo đức cách
mạng. Đạo đức đó khơng phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo
đức vĩ đại, nó khơng phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của
Đảng, của dân tộc, của loài người”11. Như vậy, đạo đức cách mạng là “quyết
tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất.
Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường
lối chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên
trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lịng hết sức phục vụ nhân
dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc.
Ra sức học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, ln ln dùng tự phê bình và phê
bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến cơng tác của mình và cùng đồng chí
mình tiến bộ”12.
Đạo đức cần thiết cho mỗi con người nói chung và cán bộ, đảng viên
nói riêng như một quy luật sinh tồn, muốn thở được phải có khơng khí, đói
cần phải ăn, khát cần uống nước. Con người cần đạo đức như cần có sức khỏe
để sống và lao động. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Làm cách mạng để
cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp vẻ vang, nhưng nó cũng
là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh phức tạp, sức có mạnh mới
10
Hồ Chí Minh: Tồn tập, sđd, t.9, tr.354.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, sđd, t.5, tr.292.
12
Hồ Chí Minh: Tồn tập, sđd, t.11, tr.603.
11
20
Khóa luận tốt nghiệp
Lê Thị Nhàn
gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng
làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”13.
Cho nên con người không thể thiếu đạo đức cách mạng cũng như trời
không thể thiếu bốn mùa, đất khơng thể thiếu bốn phương, Người viết:
“Trời có bốn mùa: Xn, Hạ, Thu, Đơng.
Đất có bốn phương: Đơng, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức tính: Cần, Kiệm, Liêm, Chính
Thiếu một mùa khơng thể thành trời
Thiếu một phương thì khơng thành đất
Thiếu một tính thì khơng thành người” 14.
Để có đạo đức cách mạng thì mỗi người chúng ta phải chuyên tâm rèn
luyện bền bỉ hằng ngày. Bởi vì, đạo đức cách mạng khơng phải là cái có sẵn,
“khơng phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày
mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng
luyện càng trong”15.
Cán bộ cách mạng phải có tầm nhìn xa trơng rộng, khơng thể chỉ nhìn
về vật chất, chỉ nhìn vào hiện tại mà phải biết tin tưởng vào tương lai để
chúng ta lấy “tinh thần mà chiến thắng vật chất”, làm cho “văn minh chiến
thắng bạo tàn”. Theo Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ cần rèn luyện đạo đức cách
mạng trên cả ba mặt: thứ nhát là với bản thân mình, thứ hai là đối với người,
thứ ba là đối với cơng việc. Bên cạnh đó, Người cịn chỉ rõ, phẩm chất đạo
đức cách mạng của cán bộ không phải “nhất thành bất biến” mà phải tùy
hồn cảnh mà có sự điều chỉnh cho phù hợp.
Cùng với việc nêu ra những phẩm chất đạo đức mà mỗi cán bộ, đảng
viên phải thực hiện để rèn luyện, tu dưỡng như: Nhân, Nghĩa, Trí, Tín,
Dũng, Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí cơng vơ tư. Người cịn chỉ rõ muốn có
13
Hồ Chí Minh: Tồn tập, sđd, t.11, tr.601.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, sđd, t.6, tr.117.
15
Hồ Chí Minh: Tồn tập, sđd, t.11, tr.612.
14
21
Khóa luận tốt nghiệp
Lê Thị Nhàn
đạo đức cách mạng và trong quá trình thực hành đạo đức cách mạng thì phải
tiến hành đấu tranh, phê phán những hiện tượng phi đạo đức và những tàn
dư đạo đức cũ: địa phương chủ nghĩa, quan liêu, hẹp hịi…tát cả những điều
ấy nó dẫn đến bệnh chủ nghĩa cá nhân. Vì vậy, phải quét sạch chủ nghĩa cá
nhân, phải tự đánh thắng lòng tà là kẻ thù của chính mình. Đã là cán bộ cách
mạng phải quyết tâm chống chủ nghĩa cá nhân, loại bỏ những khuyết điểm,
tự xây dựng rèn luyện cho mình một phẩm chất đạo đức cao đẹp, đạo đức
cách mạng.
Theo Người, một khi con người đã có ít nhiều quyền hành mà thiếu
lương tâm, không giữ đúng đạo đức cách mạng thì dễ trở nên hủ bại, thành
sâu mọt của dân. Người khẳng định: đạo đức là thước đo lòng cao thượng
của con người, là tiêu chuẩn để đánh giá khả năng làm việc, là tiêu chuẩn để
kiểm tra chất lượng công việc của mỗi con người. Người viết: “Tuy công
việc và năng lực của mỗi người khác nhau, người làm việc to, người làm
việc nhỏ nhưng ai giữ được đạo đức đều là người cao thượng”16.
Đạo đức còn là động lực thúc đẩy cán bộ, đảng viên hoàn thành sự
nghiệp và vượt qua khó khăn. Người khẳng định: “Có đạo đức cách mạng thì
khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước…
Khơng ngại ngần hy sinh tất cả lợi ích riêng của cá nhân mình. Khi cần lùi thì
sẵn sàng hy sing cả tính mạng của mình cũng khơng tiếc. Đó là biểu hiện rất
rõ rệt, rất cao quý của đạo đức cách mạng”17. Khi gặp thuận lợi và thành công
mà vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, lo trước thiên hạ,
vui sau thiên hạ… Đó cũng là biểu hiện của đạo đức cách mạng.
Thứ hai, có năng lực lãnh đạo và tổ chức thực tiễn
Người cán bộ cách mạng phải có phẩm chất đạo đức tốt nhưng đồng
thời cũng phải có năng lực lãnh đạo và tổ chức thực tiễn, tức là phải có cả
đức và tài. Người cán bộ có tài mà thiếu đức sẽ gây ra hậu quả khơng nhỏ,
16
17
Hồ Chí Minh: Tồn tập, sđd, t.9, tr.508.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, sđd, t.11, tr.602.
22
Khóa luận tốt nghiệp
Lê Thị Nhàn
ngược lại có đức mà khơng có tài thì chẳng khác nào ơng bụt ngồi trong
chùa. Năng lực mà Người nói ở đây bao gồm cả năng lực trí tuệ và năng lực
thực tiễn.
Đối với năng lực nhận thức và tư duy lý luận, Hồ Chí Minh nói,
chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác – Lênin để dùng lập
trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác – Lênin mà tổng kết những
kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của
nước ta.
Học lý luận Mác – Lênin để nâng cao trình độ, nắm bắt được quy luật
vận động và phát triển của xã hội, trung thành với nó, bảo vệ nó và khơng
ngừng nâng cao, hồn thiện nó, đó là trách nhiệm của người cán bộ cách
mạng. Trong khi chủ nghĩa xã hội lâm vào khủng hoảng, phong trào cách
mạng gặp nhiều khó khăn nghiêm trọng như hiện nay thì mới thấy hết giá trị
to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Người cán bộ mà khơng có lý luận hay khinh lý luận thường đề cao
kinh nghiệm bản thân, cho rằng có kinh nghiệm thì khơng biết thêm lý luận.
Nhưng người đó khơng biết rằng: “có kinh nghiệm mà khơng có lý luận
cũng như một mắt sáng một mắt mờ”18. Nếu chỉ có kinh nghiệm mà khơng
có lý luận thì chưa phải là những người cán bộ hoàn toàn.
Người đưa ra một số biện pháp để cán bộ có thể nâng cao tư duy lý
luận: cần phải bổ sung, làm phong phú thêm lý luận bằng những kết luận
mới rút ra từ trong thực tiễn cách mạng của ta.
Đối với năng lực thực tiễn, Hồ Chí Minh đã dạy chúng ta rằng, học lý
luận khơng thì chưa đủ. Người yêu cầu cán bộ thì phải biết áp dụng lý luận
vào hoạt động thực tiễn, cán bộ phải có trình độ chun mơn thật giỏi, phải
vươn tới đỉnh cao của khoa học kỹ thuật vì ngày nay người cán bộ khơng thể
18
Hồ Chí Minh: Tồn tập, sđd, t.5, tr.274.
23
Khóa luận tốt nghiệp
Lê Thị Nhàn
lãnh đạo chung chung được nữa và chỉ có nhiệt tình khơng thơi thì chưa đủ,
cịn phải có trí thức nữa.
Năng lực thực tiễn cịn được thể hiện qua việc tham gia cùng tập thể
hoạch định đường lối, chính sách, nghị quyết… Trước khi cán bộ đưa ra
những chủ trương, đường lối, chính sách thì phải đi sâu, đi sát, điều tra,
nghiên cứu, nắm việc, nắm người, nắm tình hình cụ thể ở nơi đó thì mới đi
đén quyết định đường lối, chính sách cho phù hợp, đúng đắn, thiết thực.
Năng lực thực tiễn cũng là năng lực tổ chức, thực hiện đường lối, nghị
quyết. Sau khi đề ra nghị quyết, đường lối, chính sách một vấn đề quan
trọng nữa là tổ chức thực hiện nghị quyết, chính sách đó sao cho có hiệu
quả. Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề này để nhằm hiện thực hóa
những điều trong nghị quyết, chính sách vào cuộc sống. Người thường chỉ ra
khuyết điểm của cán bộ là đầu tư nhiều công sức vào việc vạch ra nhiều
nghị quyết, chính sách to tát, nhưng lại ít tìm cách để thực hiện cho được
chính sách, nghị quyết đã đề ra.
Từ đó, Người nhắc nhở cán bộ: kế hoạch một, biện pháp mười, quyết
tâm phải hai, ba mươi, muốn lãnh đạo đúng thì phải tổ chức thi hành cho
đúng. Nghị quyết, chính sách đó có hay đến mấy nhưng tổ chức thi hành
khơng đúng, thiếu biện pháp thích hợp, bản thân người thi hành thiếu quyết
tâm hoặc không biến quyết tâm của lãnh đạo thành quyết tâm của quần
chúng, thì mọi chính sách khơng thể thực hiện được.
Năng lực thực tiễn còn là năng lực thanh tra, kiểm tra. Người chỉ rõ
cơng tác thanh tra, kiểm tra có tầm quan trọng đặc biệt. Người khẳng định
rằng: khơng có thanh tra, khơng có kiểm tra coi như khơng có lãnh đạo. Do
vậy mà Hồ Chí Minh địi hỏi cán bộ phải có năng lực thanh tra, kiểm tra.
Người cán bộ làm việc có năng lực thanh tra, kiểm tra thì cơng việc mới
đem lại hiệu quả, cũng giống như trên cơ thể con người, đầu óc là trung tâm
24
Khóa luận tốt nghiệp
Lê Thị Nhàn
nhận thức, địi hỏi tai mắt cũng phải sáng suốt thì mới có khả năng nhận
thức sáng suốt, minh mẩn.
Năng lực thực tiễn trong việc vận động quần chúng. Trong công tác
vận động quần chúng, mỗi cán bộ tuyệt đối không được vận động quần
chúng một cách qua loa, đại khái, đơn giản. Cán bộ muốn làm tốt công tác
vận động quần chúng phải sống trong lòng dân; đến với nhân dân lắng nghe
những tâm sự, nguyện vọng của nhân dân, giúp nhân dân giải quyết các
công việc cụ thể; vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước.
Muốn thực hiện tốt và đạt hiệu quả công tác vận động quần chúng
nhân dân, Người yêu cầu: cán bộ phải có quan hệ gắn bó với quần chúng, có
tác phong quần chúng, bằng hành động của mình u kính nhân dân; làm
cho dân tin, dân phục; tơn trọng và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân;
khiêm tốn học hỏi nhan dân. Người chỉ rõ: “những người liên lạc mật thiết
với dân chúng. Như thế thì dân chúng mới tin cậy cán bộ và nhận cán bộ đó
là người lãnh đạo của họ”19. Người cán bộ phải thực hiện gương mẫu
“miệng nói tay làm” cho dân chúng noi theo.
Thứ ba, phải có phong cách làm việc
Sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc đòi hỏi một đội ngũ cán
bộ khơng chỉ có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực mà người cán bộ cách
mạng phải có cả phong cách làm việc tốt. Đó là phong cách tu duy độc lập,
tự chủ và sáng tạo; phong cách diễn đạt chân thực, ngắn gọn, giản dị, cụ thể;
phong cách làm việc quần chúng, tập thể, dân chủ và khoa học; phong cách
ứng xử có văn hóa và phong cách sinh hoạt giản dị, trong sạch, thanh cao,
điều độ, ngăn nắp, quý trọng thời gian.
Phong cách làm việc khoa học của cán bộ, theo Hồ Chí Minh trước
hết phải biết tiết kiệm thời gian,vì thời gian là vàng, là ngọc, giữ đúng thời
19
Hồ Chí Minh: Tồn tập, sđd, t.5, tr.315.
25