Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Vấn đề lý luận và thực tiễn về nghiệp vụ biên tập xuất bản ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (917.57 KB, 130 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
*****

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP CƠ SỞ TRỌNG ĐIỂM
Mã số: 30-2017 CSHT

VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGHIỆP VỤ
BIÊN TẬP - XUẤT BẢN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chủ nhiệm đề tài: Phạm Văn Thấu
Cơ quan chủ trì: Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Hà Nội, 2017
1


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ……………………………………………….……………..... 3
Chƣơng 1
NGHIỆP VỤ BIÊN TẬP XUẤT BẢN – NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN … 12
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN ……………….…………………..12
1.1.1. Khái niệm “xuất bản” ……………………………..……………. 12
1.1.2. Khái niệm về nghiệp vụ xuất bản ………………………..………16
1.2. NGHIỆP VỤ BIÊN TẬP XUẤT BẢN ………………………………17
1.2.1. Công tác đề tài và kế hoạch đề tài ……………………….………17
1.2.2. Tổ chức cộng tác viên trong hoạt động biên tập ……….….……23
1.2.3. Biên tập bản thảo …………………………………………………28
1.3. TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ………………………………..……………41
Chƣơng 2


NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN ….42
2.1. BỐI CẢNH KINH TẾ XÃ HỘI ……………………………………...42
2.1.1 Sự đổi mới toàn diện đất nƣớc ……………………………….…..42
2.1.2. Ngành xuất bản phát triển và hội nhập ……………….………..44
2.1.3. Sự phát triển độc lập của ngành in và phát hành ………………45
2.1.4. Sự phát triển của xuất bản điện tử ………………………………51
2.2. NHỮNG CHỦ TRƢƠNG VÀ CHÍNH SÁCH LỚN VỀ XUẤT BẢN…..54
2.2.1. Hệ thống chính sách, pháp luật về xuất bản ……………………54
2.2.2. Chủ trƣơng xã hội hóa hoạt động xuất bản …………………….56
2.2.3. Quy chế liên kết trong hoạt động xuất bản ……………………..60
2.3. TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ……………………………………………..68
Chƣơng 3
THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG NGHIỆP VỤ BIÊN TẬP XUẤT BẢN
Ở NƢỚC TA HIỆN NAY …………………………………….…………70
3.1. VỀ CÔNG TÁC TỔ CHỨC BẢN THẢO …………………….…….70
3.1.1. Công tác kế hoạch đề tài ………………………………………… 70
3.1.2. Cơng tác cộng tác viên …………………………………………… 82
3.2. VỀ CƠNG TÁC BIÊN TẬP BẢN THẢO………………………….. 96
3.2.1. Tiếp nhận và lập hồ sơ bản thảo …………………………………96
3.2.2. Biên tập sơ bộ ……………………………………………………… 99
3.2.3. Biên tập hoàn chỉnh ……………………………………………. 102
3.3. TIỂU KẾT CHƢƠNG 3…………………………………………… 109
2


Chƣơng 4
NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN ĐỔI MỚI TRONG CHƢƠNG TRÌNH ĐÀO
TẠO NGHIỆP VỤ BIÊN TẬP XUẤT BẢN ……………………….……..110
4.1. NHỮNG YÊU CẦU CƠ BẢN ĐỐI MỚI CHƢƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO
NGHIỆP VỤ BIÊN TẬP XUẤT BẢN ……………………………….……….110

4.1.1. Vài nét về các cơ sở đào tạo nghiệp vụ xuất bản………………110
4.1.2. Cơ sở của việc đổi mới chƣơng trình đào tạo……………..…….. 112
4.1.3. Chƣơng trình đào tạo nghiệp vụ biên tập xuất bản phải xác định rõ
mục tiêu đào tạo và phải bám sát thực tiễn nhu cầu xã hội…………….. 113
4.1.4. Chƣơng trình đào tạo biên tập xuất bản phải hƣớng đến việc rèn
kỹ năng thực hành……………………………………………………………114
4.1.5. Chƣơng trình phải có tính hệ thống và liên thơng………….…115
4.1.6. Chƣơng trình cần tích hợp đa ngành, liên ngành……….…… 116
4.2. VỀ HƢỚNG ĐỔI MỚI CHƢƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO NGHIỆP VỤ
BIÊN TẬP XUẤT BẢN………………………………………………………117
4.2.1. Chƣơng trình khung đào tạo nghiệp vụ biên tập xuất bản tại Học
viện Báo chí và Tuyên truyền…………………………………………………117
4.2.2. Những lƣu ý về nghiệp vụ biên tập xuất bản……………………117
4.3. TIỂU KẾT CHƢƠNG 4………………………………………………124
KẾT LUẬN………………………………………………………………..126
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………..……..……….... 128

3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Nghiệp vụ biên tập là một hoạt động quan trọng trong quy trình xuất bản sách.
Trong đào tạo nghề biên tập thì nghiệp vụ này cũng là một phần rất cơ bản của quá
trình đào tạo. Lý luận về nghiệp vụ biên tập đƣợc hình thành dựa trên cơ sở hoạt
động thực tiễn của ngành xuất bản 6 xã hội. Thực tiễn hoạt động xuất bản ở nƣớc
ta đã trải qua thời kỳ bao cấp và chuyển sang thời kỳ đổi mới. Theo đó, lý luận vê
biên tập xuất bản cũng kinh qua hai thời kỳ nhƣ vậy. Lý nghiệp vụ biên tập xuất
bản ở Việt Nam thời kỳ bao cấp kế hoạch hóa đƣợc biên soạn chủ yếu dựa trên cơ
sở lý luận về xuất bản của Liên xô cũ gắn với liên hệ thực tiễn hoạt động xuất bản

nƣớc ta thời kỳ đó. Hiện nay, lý luận nghiệp vụ biên tập xuất bản đang trong giai
đoạn tiếp cận mới của thời kỳ đổi mới. Thực tiễn đào tạo nghiệp vụ này hiện nay là
tên gọi chung cho các môn thuộc chuyên ngành biên tập xuất bản tại Học viện Báo
chí và Tuyên truyền và đã đƣợc triển khai xây dựng thành những mơn học riêng
biệt, mỗi học phần có thời lƣợng từ 45 – 60 tiết.
Thực tiễn là cội nguồn của lý luận, và khi thực tiễn thay đổi thì lý luận cũng
phải theo đó mà thay đổi cho phù hợp. Điều này không chỉ đúng với phƣơng pháp
luận nhận thức chung mà trong lĩnh vực hoạt động xuất bản cũng nhƣ vậy. Theo
bƣớc tiến chung của sự đổi mới và phát triển của đất nƣớc, thực tiễn hoạt động
xuất bản đã có bƣớc phát triển rất nhanh, rất mạnh và tồn diện. Từ phƣơng thức
hoạt động trong cơ chế kế hoạch hóa quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị
trƣờng cạnh tranh, đồng thời với đó là sự thay đổi về cơ chế kinh tế địi hỏi hệ
thống chính sách và luật pháp phù hợp với điều kiện hoạt động sản xuất kinh
doanh cũng nhƣ quản lý hoạt động đó, đã dẫn đến sự thay đổi mạnh mẽ trong
ngành xuất bản. Từ hệ thống, mơ hình nhà xuất bản, quy mô sản xuất đến con
ngƣời và sản phẩm xuất bản cũng đổi mới và phát triển mạnh mẽ. Nhất là sau mỗi
4


lần thay đổi về hệ thống luật pháp mà trực tiếp và cụ thể là sự thay đổi về hệ thống
Luật Xuất bản và các chính sách liên quan qua các thời kỳ đều tạo ra những thay
đổi rõ rệt và mạnh mẽ về cơ cấu, mơ hình hoạt động, phƣơng thức hoạt động làm
sách trong ngành xuất bản.
Hiện nay trong cơ chế thị trƣờng cũng đã có những thay đổi nhanh chóng từ
hệ thống luật pháp mà từ đó kéo theo sự thay đổi về hoạt động xuất bản. Chính
sách, luật pháp đi trƣớc, các hoạt động sản xuất kinh doanh đi sau sự thay đổi ấy.
Thực tế, Luật Xuất bản qua các thời điểm 1993, 2004 và 2012 và các nghị định,
thông tƣ hƣớng dẫn thi hành Luật Xuất bản đã tạo ra những bƣớc thay đổi quan
trọng trong hoạt động thực tiễn của ngành xuất bản. Chính điều này đã làm cho
những cơng trình gắn với tình hình thực tiễn thƣờng sớm trở nên bất cập. Điều đó

tất dẫn đến sự nhận thức lý luận về hoạt động xuất bản trong nghiên cứu lý luận
đối với việc giảng dạy và học tập ở nhà trƣờng cũng phải thay đổi. Bởi lẽ, lý luận
về bản chất là những tri thức đƣợc đúc kết từ thực tiễn mà có. Nhất là với lĩnh vực
xuất bản là một ngành khoa học ứng dụng hƣớng việc cung cấp tri thức vào mục
tiêu đào tạo nghề phục vụ cho chính hoạt động thực tiễn đó. Khi thực tiễn thay đổi
thì lý luận về thực tiễn đó với những yêu cầu bám sát và kịp thời nắm bắt để phục
vụ, thì đã trở nên không bắt kịp bƣớc đi của thực tiễn sản xuất, khơng đáp ứng
đƣợc thực tiễn sản xuất. Do đó, công tác giảng dạy và học tập trong điều kiện mới,
nhất là trong bối cảnh, điều kiện kinh tế xã hội, khoa học công nghệ đã phát triển
mạnh mẽ nhƣ hiện nay rất cần phải thay đổi.
Nhằm đáp ứng nhu cầu tìm hiểu và nắm bắt kịp thời trƣớc những vấn đề thời
sự về lý luận cũng nhƣ những vấn đề mới nảy sinh từ hiện thực có liên quan trực
tiếp đến công tác đào tạo nguồn nhân lực cho ngành xuất bản trong thời kỳ mới và
với mong muốn chỉ ra sự đổi mới trong thực tiễn sản xuất cũng nhƣ những yêu cầu
của công tác đào tạo nghiệp vụ biên tập xuất bản trong thời kỳ mới, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu “Vấn đề lý luận về nghiệp vụ biên tập xuất bản ở Việt Nam hiện
5


nay”, ngõ hầu cung cấp những tri thức, những kiến giải thực tế hơn về lý luận biên
tập xuất bản, đồng thời cũng là nhằm một mục tiêu xa hơn là để thiết kế một
chƣơng trình phù hợp, thích ứng và nâng cao chất lƣợng đào tạo nghiệp vụ biên tập
của Khoa Xuất bản tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Tên gọi này một mặt
bám sát nội dung chƣơng trình đào tạo đã đƣợc triển khai thực hiện từ trƣớc tới nay
cũng nhƣ đã đƣợc bổ sung thời gian gần đây, mặt khác cũng định hƣớng rõ tính
chất trọng tâm về mục tiêu, nội dung đào tạo nghiệp vụ trong công tác đào tạo biên
tập viên biên tập xuất bản.
Với mục tiêu đề xuất đƣợc hƣớng đổi mới cơ bản về chƣơng trình đào tạo
biên tập xuất bản bám sát thực tế sản xuất của ngành, trên cơ sở khái quát về lý
luận công tác nghiệp vụ biên tập hiện nay và cũng trên cơ sở chỉ ra những đổi mới

của thực tiễn hoạt động nghiệp vụ biên tập xuất bản, đề tài của chúng tôi cố gắng
đề xuất những nhận thức mới và một số giải pháp cụ thể trong việc xây dựng
chƣơng trình giảng dạy các môn nghiệp vụ biên tập xuất bản trong thời gian tới
ngõ hầu đáp ứng yêu cầu nhu cầu nguồn nhân lực chất lƣợng cao của thực tiễn
ngành xuất bản hiện nay.
Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa những thành tựu của những tác giả đi trƣớc,
chúng tôi cũng chỉ cố gắng phản ánh một cách khái quát những vấn đề lý luận về
xuất bản hiện hành cũng nhƣ nghiệp vụ biên tập xuất bản ifkyf đổi mới trên cơ sở
bám sát thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh trong ngành xuất bản hiện nay
cho những ngƣời học hôm nay nắm bắt đƣợc để tƣơng lai gần, sau khi ra trƣờng,
có thể sớm hịa nhập vào nhịp độ chung của công tác biên tập xuất bản mà không
cảm thấy bỡ ngỡ hay lạc lõng.
2. Tình hình nghiên cứu
Về lịch sử nghiên cứu, vấn đề lý luận biên tập xuất bản là vấn đề không mới ở
Việt Nam cũng nhƣ trên thế giới, bởi xuất bản là một lĩnh vực hoạt động có vị trí
khá quan trọng trong đời sống xã hội. Thực tiễn hoạt động xuất bản vừa nhƣ một
6


thiết chế văn hoá tinh thần vừa là thực thể kinh tế xã hội, và chính vì vậy nó cũng
trở thành một đối tƣợng nghiên cứu của ngành khoa học về xuất bản. Tuy nhiên, ở
nƣớc ta xuất bản học chƣa đƣợc nghiên cứu nhƣ một khoa học độc lập với đầy đủ
những yếu tố xác định về đối tƣợng, phƣơng pháp, mà mới chủ yếu đƣợc nghiên
cứu dƣới góc độ một hoạt động chuyên ngành mang tính đặc thù – sản xuất ra một
loại hàng hoá xuất bản phẩm đặc biệt. Những cuốn sách, những cơng trình nghiên
cứu quan trọng mà chúng tôi kể ra dƣới đây (theo thứ tự thời gian cơng bố gần
đây), tuy chƣa có tác phẩm, cơng trình nào đích danh ghi là giáo trình nhƣng chúng
đƣợc lƣu hành và đã đƣợc sử dụng làm tài liệu giảng dạy và học tập hoặc đƣợc giới
thiệu làm tài liệu tham khảo ở các cấp đào tạo tại Khoa Xuất bản - Học viện Báo
chí và Tuyên truyền.

Những cơng trình nghiên cứu, những cuốn sách viết về lý luận biên tập xuất
bản dƣới nhiều tên gọi khác nhau ở những thời kỳ khác nhau đều quán triệt phƣơng
châm bám sát thực tiễn nhu cầu xã hội và yêu cầu về đào tạo nguồn nhân lực cho
hoạt động xuất bản.
- Ngô Sĩ Liên (chủ biên) - Trần Văn Hải - Trần Đăng Hanh – Lê Đỗ Khanh –
Quách Văn Lịch – Lê Thị Phúc (1998), Nguyên lí hoạt động biên tập xuất bản
sách. Nhà xuất bản Giáo dục.
- Philip G. Altbacch và Damtew Teferra (1999), Xuất bản và phát triển, (Vũ
Thế Hùng dịch). Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Lý luận nghiệp vụ chuyên ngành xuất bản, Giáo trình phụ đạo kỳ thi quốc
gia chuyên ngành xuất bản của Phòng sát hạch chuyên ngành xuất bản Trung
Quốc. Tài liệu dịch của Khoa Xuất bản - Học viện Báo chí Tuyên truyền (2004 và
2007).
- Trần Văn Hải (chủ biên), Ngô Sĩ Liên - Trần Đăng Hanh (2000), Biên tập
các loại sách chuyên ngành, Tập 1. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.

7


- Trần Văn Hải (chủ biên), Lê Đỗ Khanh- Phạm Văn Thấu - Trần Đăng Hanh
– Quách Văn Lịch (2001), Biên tập các loại sách chuyên ngành, Tập 2. Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia.
- Trần Văn Hải (2007), Lý luận nghiệp vụ xuất bản. Tập 1, Nhà xuất bản Văn
hố – Thơng tin.
- Nhiều tác giả (2011), Một số nội dung cơ bản về nghiệp vụ báo chí, xuất
bản, (Tài liệu bồi dƣỡng chức danh biên tập viên, phóng viên), Tập II. Nhà xuất
bản Thông tin – Truyền thông.
- Nhiều tác giả (2012), Xuất bản Việt Nam trong bối cảnh kinh tế thị trường
và hội nhập quốc tế. Nhà xuất bản Thời đại.
- Phạm Thị Thu (2013), Lý luận nghiệp vụ xuất bản, Nhà xuất bản Thông tin

– Truyền thơng.
Mỗi cơng trình này tuy xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn ở những
thời kỳ khác nhau nhƣng đều có chung một mục tiêu là nhằm cung cấp những
thông tin tri thức về một lĩnh vực duy nhất - biên tập xuất bản sách và đều đề cập
đến những vấn đề cơ bản của lý luận chung về xuất bản, trong sự liên hệ với thực
tế. Có tài liệu kế thừa cơ sở lý luận từ lý luận xuất bản của Liên xơ cũ, có ngƣời lại
đối sánh, pha hòa nền xuất bản Trung Quốc với Việt Nam. Có cuốn đƣợc biên soạn
hồn tồn trong bối cảnh thực tiễn hoạt động xuất bản nƣớc ta nằm trong cơ chế kế
hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp và quản lý theo phƣơng thức hành chính
mệnh lệnh. Lại có những cuốn bám sát thực tiễn Việt Nam đã bƣớc sang giai đoạn
đổi mới, chuyển từ cơ chế cũ sang cơ chế thị trƣờng. Và có cơng trình đề cập, đi
sâu và giải quyết những vấn đề cơ bản và nổi cộm của xuất bản Việt Nam đƣơng
đại.
Tuy nhiên, có một thực tế là, hiện nay trong chƣơng trình đào tạo xuất bản có
mơn “Cơ sở lý luận xuất bản” nhƣng lại chƣa có một giáo trình hay thậm chí là
8


cơng trình nào mang đúng tên gọi của mơn học này cũng nhƣ xác định rõ phạm vi
và giới hạn những vấn đề thuộc nội dung của mơn học đó. Các cơng trình kể trên
với những tên gọi khác nhau và những cơng trình gần nhất cũng chỉ mang tên “Lý
luận nghiệp vụ xuất bản” nói chung [23, 56], và cũng khó xác định đƣợc tính hợp
lý của việc đƣa cơ sở lý luận xuất bản vào trong lý luận nghiệp vụ biên tập xuất
bản hay cần phải tách ra thành một giáo trình riêng.
Mặt khác, nhƣ mọi ngƣời đều biết, hoạt động xuất bản bao gồm 3 lĩnh vực:
Biên tập, in và phát hành. Theo đó, nghiệp vụ xuất bản cũng bao gồm nghiệp vụ
biên tập, nghiệp vụ in và nghiệp vụ phát hành. Tuy nhiên, đề tài của chúng tơi chỉ
giới hạn ở việc tìm hiểu lý luận và thực tiễn nghiệp vụ biên tập, mà không đề cập
đến nghiệp vụ in và nghiệp vụ phát hành, đây là những vấn đề thuộc địa hạt của
những cơ sở nghiên cứu và giảng dạy chuyên ngành khác.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát, đánh giá thực tiễn hoạt động
nghiệp vụ biên tập xuất bản ở nƣớc ta, đề tài đề xuất những hƣớng và giải pháp
tiếp cận mới trong việc xây dựng và tổ chức giảng dạy các môn nghiệp vụ trong
đào tạo chuyên ngành biên tập của Khoa Xuất bản hiện nay. Nhƣ vậy, mặc dù
nghiên cứu thực tiễn hoạt động xuất bản nhƣng mục đích của đề tài này khơng phải
là hƣớng đến tìm giải pháp cho thực tiễn sản xuất việc tham vấn hay phục vụ cho
việc làm chính sách liên quan đến hoạt động xuất bản mà hƣớng đến việc xây dựng
chƣơng trình đào tạo nghiệp vụ biên tập bám sát thực tiễn hoạt động xuất bản.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu, đề tài sẽ phải thực hiện những cơng việc
chủ yếu sau:
- Trình bày những vấn đề cơ bản về lý luận nghiệp vụ biên tập xuất bản
truyền thống đã đƣợc tổng kết và giảng dạy tại cơ sở đào tạo.
9


- Trình bày những yếu tố của bối cảnh khách quan, các điều kiện kinh tế, xã
hội và luật pháp có tác động đến hoạt động xuất bản và những biến đổi nội tại của
hoạt động xuất bản, nhất là với các khâu trong nghiệp vụ biên tập xuất bản nhƣ thế
nào.
- Khảo sát, đánh giá thực tiễn hoạt động nghiệp vụ biên tập xuất bản ở nƣớc ta
thời gian qua, nhất là từ khi có sự chuyển đổi hoạt động xuất bản từ cơ chế kế
hoạch hóa và bao cấp sang cơ chế thị trƣờng đƣợc thể hiện qua sự thay đổi chủ
trƣơng, cơ chế, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nƣớc về hoạt động xuất
bản.
- Đề xuất những giải pháp cụ thể đổi mới việc xây dựng chƣơng trình, tổ chức
biên soạn và giảng dạy các môn nghiệp vụ biên tập trên cơ sở bám sát hoạt động
thực tiễn ngành xuất bản.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về nghiệp vụ biên
tập xuất bản và thực tiễn hoạt động nghiệp vụ biên tập xuất bản hiện nay ở Việt
Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Lý luận về nghiệp vụ biên tập xuất bản thời kỳ kế hoạch hóa, và quá trình đổi
mới, hồn thiện hệ thống chính sách về xuất bản và những thay đổi của thực tiễn
hoạt động xuất bản hiện nay ở nƣớc ta.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài đƣợc triển khai thực hiện dựa trên phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh; quan điểm, chủ trƣơng, đƣờng lối của Đáng, và chính sách cũng nhƣ
luật pháp hiện hành của Nhà nƣớc ta.

10


Các phƣơng pháp nghiên cứu tài liệu, khảo sát thực tế, so sánh, phân tích,
tổng hợp, phỏng vấn…
6. Đóng góp mới của đề tài
Đề tài trình bày vẽ nên bức tranh toàn cảnh về thực tiễn hoạt động xuất bản
trong thời kỳ hiện nay với những vấn đề đổi mới trong nghiệp vụ biên tập. Kết quả
nghiên cứu của đề tài góp phần hồn thiện lý luận nghiệp vụ biên tập xuất bản
trong chƣơng trình đào tạo biên tập viên xuất bản. Đồng thời, trên cơ sở phân tích
nguyên nhân những bất cập về hoạt động xuất bản hiện nay, đề tài góp thêm tiếng
nói vào những đề xuất có luận cứ cho các cơ quan có thẩm quyền hƣớng điều
chỉnh cần thiết về cơ chế, chính sách nhằm tạo điều kiện cho ngành xuất bản phát
triển mạnh và bền vững, hoạt động đúng hƣớng, đúng pháp luật và hiệu quả.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

7.1. Ý nghĩa lý luận
Về lý luận, đề tài làm rõ thêm những vấn đề lý luận về biên tập xuất bản;
những yếu tố tác động đến hoạt động xuất bản, những thay đổi của thực tiễn
nghiệp vụ, những yếu tố tác động đến hoạt động chuyên môn nghiệp vụ biên tập và
những vấn đề đặt ra về chƣơng trình giảng lý luận nghiệp vụ biên tập xuất bản theo
yêu cầu của tình hình và bối cảnh mới.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Về thực tiễn, kết quả nghiên cứu của đề tài giúp cho những ngƣời nghiên cứu
và giảng dạy nghiệp vụ biên tập xuất bản trong việc biên soạn các học phần, các
môn học liên quan đến nghiệp vụ biên tập xuất bản do mình phụ trách hoặc trực
tiếp giảng dạy, nhất là đối với những ngƣời học, những biên tập viên tƣơng lai.
Đối với những ngƣời hoạt động thực tiễn, đề tài này cung cấp cho những
những cán bộ quản lý nắm đƣợc bức tranh chung về hoạt động sản xuất cũng nhƣ
công tác quản lý của ngành xuất bản; mặt khác, đối với các biên tập viên nhà xuất

11


bản, các cơng ty, nhà sách có đƣợc những kiến thức lý luận cơ bản có thể vận dụng
trong hoạt động tác nghiệp của mình.
8. Kết cấu
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, đề tài đƣợc chia thành
bốn chƣơng:
- Chƣơng 1: Nghiệp vụ biên tập xuất bản - Những vấn đề lý luận
- Chƣơng 2: Những yếu tố tác động đến hoạt động xuất bản
- Chƣơng 3: Thực tiễn hoạt động nghiệp vụ biên tập xuất bản ở nước
nước ta hiện nay
- Chƣơng 4: Những vấn đề cần đổi mới trong chương trình đào tạo
nghiệp vụ biên tập xuất bản


12


Chƣơng 1
NGHIỆP VỤ BIÊN TẬP XUẤT BẢN – NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.1.1. Khái niệm “xuất bản”
Về nguồn gốc, từ “xuất bản” có từ tiếng Latinh - publicare, có nghĩa là “cơng
bố rộng rãi”, trong tiếng Anh là publish, từ đó có publisher – ngƣời xuất bản;
publishing - nghề, ngƣời hay công ty xuất bản và phát hành sách, tạp chí, âm nhạc
hoặc các ấn phẩm khác; ở một cấu tạo khác, để gọi tên hay địa chỉ một cơ sở, trụ
sở xuất bản, ngƣời ta dùng publishing house với nghĩa phổ biến là nhà xuất bản.
Với tƣ cách là một thuật ngữ, xuất bản đƣợc hiểu theo hai nghĩa:
Thứ nhất, đây là cách nói gọn, viết tắt của thuật ngữ “xuất bản học” là bộ môn
khoa học nghiên cứu về xuất bản. Tuy nhiên, theo tài liệu chúng tơi có đƣợc thì bộ
mơn xuất bản học ở nƣớc ta hiện nay vẫn chƣa đƣợc xác định rõ ràng, nếu khơng
muốn nói là chƣa có theo đúng nghĩa lý luận của thuật ngữ này. Bởi vì, với tƣ cách
là một khoa học, trƣớc hết nó phải xác định đƣợc đối tƣợng nghiên cứu, phƣơng
pháp nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, bộ mơn xuất bản học chƣa hình thành nên
những vấn đề về lý luận vẫn còn bỏ ngỏ.
Thứ hai, xuất bản với tƣ cách là một lĩnh vực hoạt động sản xuất thực tiễn thì
nó chỉ có thể trở thành đối tƣợng của một chuyên ngành xuất bản học ứng dụng
nghiên cứu thực tiễn về hoạt động xuất bản. Quan niệm này xuất phát từ thực tiễn,
xem xuất bản là hoạt động kinh tế xã hội chứ không phải là một bộ môn khoa học.
Nói cách khác, đối tƣợng khảo sát, nghiên cứu ở đây là một một lĩnh vực sản xuất
thực tiễn, một dạng hoạt động nghề nghiệp chuyên môn, một bộ phận hoạt động xã
hội sản xuất hàng hóa văn hố.
Nhằm mục tiêu giáo dục kĩ năng thực hành nghề, chúng tôi quan niệm xuất
bản theo nghĩa thứ hai này. Với mục tiêu đào tạo này, lý luận về hoạt động xuất


13


bản là lý luận về nghiệp vụ xuất bản, dạy lý luận nghiệp vụ xuất bản là dạy nghề,
dạy làm sách.
- Nhìn hẹp hơn ở khía cạnh, tƣ cách là một ngành, một nghề, xuất bản thuộc
lĩnh vực hoạt động văn hoá tinh thần nhƣ đã xác định ở trên. Đa số các sách từ điển
đều định nghĩa xuất bản theo hƣớng chung là một loại hình hoạt động sản xuất
hàng hóa có mục đích nhƣng khác nhau ở tính chất công việc, quy mô và phạm vi
hoạt động ở những lĩnh vực cụ thể. Cho nên, cùng một từ “xuất bản” nhƣng đƣợc
ghi trong những từ điển khác nhau, xuất phát từ loại hình từ điển, mục đích biên
soạn và đối tƣợng phục vụ mà có sự giải nghĩa khác nhau về nội dung của nó.
Theo quan niệm thơng thƣờng đƣợc ghi trong các từ điển ngôn ngữ, từ ngữ
thƣờng đƣợc định nghĩa một cách cơ bản phổ biến, phổ cập chỉ để nhận biết sự vật,
không đi quá sâu vào bản chất của sự vật, hiện tƣợng nhƣ định nghĩa thuật ngữ
khoa học. Theo đó, từ “xuất bản”, với tƣ cách là một từ dùng trong giao tiếp hàng
ngày, luôn là một động từ chỉ hành vi “In ra thành sách báo, tranh ảnh để phát
hành” [48].
Các từ điển khoa học hay chuyên ngành cũng định nghĩa xuất bản với tƣ cách
là một hoạt động sản xuất thuộc lĩnh vực văn hoá tinh thần, theo nghĩa rộng hay
hẹp tùy thuộc vào chỗ nó bao quát phạm vi rộng hẹp của lĩnh vực hoạt động xuất
bản cụ thể:
Từ điển Wikipedia định nghĩa “Xuất bản là quá trình sản xuất và phổ biến các
sản phẩm văn học, âm nhạc, thông tin hoặc các hoạt động làm cho thơng tin có
tiềm tàng trở thành phổ biến rộng rãi cho công chúng nói chung. Trong một số
trƣờng hợp, các tác giả có thể có nhà xuất bản của riêng mình, có nghĩa họ là ngƣời
khởi tạo và phát triển nội dung cũng nhƣ cung cấp các phƣơng tiện truyền thông để
truyền tải và hiển thị nội dung. Ngoài ra, từ “nhà xuất bản” có thể dùng để chỉ cá
nhân ngƣời đứng đầu một công ty xuất bản hoặc in ấn, hoặc một ngƣời sở hữu một
tạp chí...

14


Theo truyền thống, thuật ngữ này nói đến sự phân bố các cơng trình in nhƣ
sách (sách "thƣơng mại") và báo chí. Với sự ra đời của hệ thống thơng tin kĩ thuật
số và Internet, phạm vi xuất bản đã mở rộng để bao gồm các tài nguyên điện tử,
chẳng hạn nhƣ các phiên bản điện tử của cuốn sách và tạp chí, cũng nhƣ vi bản
(micropublishing), các trang web, blog, các nhà sản xuất trò chơi video,v.v..
Xuất bản bao gồm các giai đoạn phát triển từ biên tập sửa chữa bản thảo, thiết
kế đồ họa, sản xuất - in ấn (gồm cả bản điện tử tƣơng đƣơng của nó), tiếp thị và
phân phối các sách báo, tạp chí, dƣới dạng tác phẩm văn học, tác phẩm âm nhạc,
phần mềm và các công cụ xử lý thông tin, bao gồm cả các phƣơng tiện truyền
thông điện tử...”.
Định nghĩa này đã xác định nội hàm của khái niệm xuất bản ở phạm vi rộng
nhất.
Từ điển Xuất bản (2007) định nghĩa “xuất bản” là “Hoạt động thuộc lĩnh vực
văn hoá, tƣ tƣởng thông qua việc sản xuất, phổ biến xuất bản phẩm đến nhiều
ngƣời.
Xuất bản là hoạt động truyền bá xã hội, bản thân nó khơng bao gồm khâu
sáng tạo ra các tác phẩm nhƣng sử dụng các tác phẩm để truyền bá, phổ biến. Nó là
khâu nối tiếp sự sáng tạo và nâng cao các giá trị văn hoá của các tác phẩm, nhân
rộng và mang chúng đến với quảng đại quần chúng trong xã hội.
Xuất bản là một tổ hợp hoạt động văn hoá tinh thần, vừa là một hoạt động sản
xuất, lƣu thông. Đáp ứng những nhu cầu văn hố, tƣ tƣởng xã hội là mục đích của
hoạt động xuất bản. Việc tổ chức sản xuất, lƣu thông các xuất bản phẩm là phƣơng
thức, phƣơng tiện hoạt động của sự nghiệp xuất bản.
Xuất bản là một quá trình hoạt động nối tiếp, đồng bộ, hồn chỉnh. Nó gồm 3
khâu: biên tập, in, phát hành các loại xuất bản phẩm trong xã hội” [61].
- Từ điển bách khoa Việt Nam: Xuất bản là hoạt động thuộc lĩnh vực văn hoá,
tƣ tƣởng thông qua việc sản xuất, phổ biến các xuất bản phẩm đến nhiều ngƣời.

15


Xuất bản là hoạt động truyền bá, bản thân nó không bao gồm khâu sáng tạo ra tác
phẩm. Xuất bản là khai thác và truyền bá, phổ biến tác phẩm để truyền bá, là khâu
nối tiếp, nâng cao giá trị văn hoá, nhân rộng và mang chúng đến với quảng đại
quần chúng. Xuất bản gồm 3 khâu: biên tập, in, phát hành xuất bản phẩm” [60].
Ở các nƣớc phƣơng Tây, xuất bản là hoạt động sản xuất hàng hoá thuần tuý,
tuân theo những quy định của pháp luật dân sự về sản xuất kinh doanh vì lợi nhuận
và tự do cạnh tranh.
Ở nƣớc ta, dƣới góc độ một văn bản pháp luật, Luật Xuất bản (2012) xác
định: “Xuất bản là việc tổ chức, khai thác bản thảo, biên tập thành bản mẫu để in
và phát hành hoặc để phát hành trực tiếp qua các phƣơng tiện điện tử. Bên cạnh đó,
Luật này cũng xác định hai lĩnh vực cịn lại. “In là việc sử dụng thiết bị in để tạo ra
xuất bản phẩm từ bản mẫu”; “Phát hành là việc thơng qua một hoặc nhiều hình
thức mua, bán, phân phát, tặng, cho, cho thuê, cho mƣợn, xuất khẩu, nhập khẩu,
hội chợ, triển lãm để đƣa xuất bản phẩm đến ngƣời sử dụng” [37].
Trong điều kiện kinh tế thị trƣờng, hoạt động xuất bản vừa là ngành sản xuất
kinh doanh và dịch vụ văn hoá, vừa là ngành hoạt động truyền bá văn hoá tƣ tƣởng
nhƣng ƣu tiên và coi trọng nhiệm vụ chính trị, văn hóa tƣ tƣởng dƣới sự lãnh đạo
của Đảng và quản lý của Nhà nƣớc.
Có thể khái quát từ những định nghĩa trên thành một số nội dung cơ bản:
- Xuất bản đƣợc xác định là một ngành hoạt động trong một nền văn hoá, cho
nên khái niệm “xuất bản” đồng nghĩa và với khái niệm “hoạt động xuất bản”.
- Xuất bản là hoạt động thuộc lĩnh vực văn hố, tƣ tƣởng thơng qua việc sản
xuất, phổ biến xuất bản phẩm đến nhiều ngƣời
- Xuất bản là việc tổ chức, khai thác bản thảo, biên tập thành bản mẫu để in và
phát hành hoặc để phát hành trực tiếp qua các phƣơng tiện điện tử.
Xuất bản là một quy trình hoạt động đồng bộ gồm 3 khâu nối tiếp nhau: biên
tập – in - phát hành.

16


1.1.2. Khái niệm về nghiệp vụ xuất bản
Nhƣ đã nói, hoạt động xuất bản gồm 3 khâu: biên tập, in, phát hành. Nhìn
suốt quá trình hoạt động xuất bản thì có thể thấy, mối quan hệ giữa các khâu này là
quan hệ kế tiếp nhau về thời gian và nội dung; sự kết thúc của khâu trƣớc cũng là
sự mở đầu cho khâu tiếp theo. Thứ hai, quy trình xuất bản đƣợc tính từ việc tìm
kiếm ngun liệu đầu vào là bản thảo để “chế tạo” ra thành sản phẩm mới cuối
cùng là sách hàng hoá cho ngƣời tiêu dùng. Mỗi khâu là sự chuẩn bị có tính chất
tiền đề cho hoạt động sản xuất của khâu tiếp theo. Bản thảo đƣợc tạo lập, rồi qua
giai đoạn khác nhau của quy trình sản xuất, đƣợc sàng lọc, chỉnh sửa và hồn thiện
từ dạng thơ ban đầu qua in ấn nhân bản đến khi trở thành sản phẩm cuối cùng là
sách. Sản phẩm của mỗi khâu có tính chất khơng giống nhau, đƣợc thể hiện ở
những tên gọi khác nhau; sản phẩm cuối cùng phát huy đƣợc tác dụng và hiệu quả,
sẽ là sự kết tinh tổng hợp sức lao động đa dạng, là thƣớc đo giá trị sức lao động, và
là kết quả cuối cùng của những khâu trƣớc.
Mặc dù hiện nay đã có những sự thay đổi do sự phát triển chung của xã hội,
của nền kinh tế, và nhất là của khoa học công nghệ, các lĩnh vực này có sự độc lập
tƣơng đối, tuy nhiên từ góc độ hoạt động xuất bản thì in ấn và phát hành vẫn là
những khâu nằm trong một chu trình tiếp nối với khâu biên tập của quy trình xuất
bản sách. Để làm ra một cuốn sách hoàn chỉnh theo quan niệm truyền thống thì quy
trình liên thơng qua ba khâu cơ bản đó vẫn cịn ngun giá trị và mang tính ngun
tắc.
Nói đến nghiệp vụ xuất bản chính là nói đến hoạt động tác nghiệp ở cả 3 khâu
này. Tuy nhiên, đề tài này nhằm mục tiêu hƣớng đến việc đào tạo biên tập viên là
chính, cho nên nội dung chính của đề tài sẽ chủ yếu tập trung trình bày về nghiệp
vụ biên tập, còn nghiệp vụ in và phát hành sẽ chỉ đƣợc giới thiệu khái quát, bởi đây
là hai lĩnh vực lớn đã đƣợc nghiên cứu, giảng dạy ở những cơ sở đào tạo chuyên
ngành riêng.

17


Là một trong 3 khâu của hoạt động xuất bản, công tác biên tập là khâu mở
đầu quan trọng và cơ bản cho quá trình xuất bản hay quy trình làm sách. Theo đó,
trong nghiệp vụ biên tập xuất bản thì đối tƣợng trung tâm của sự tác nghiệp là bản
thảo sách gắn với những công việc chủ yếu là tổ chức bản thảo và biên tập bản
thảo.
Chƣơng này khái quát về lý luận biên tập truyền thống trƣớc nay đã đƣợc biên
soạn và hiện vẫn đƣợc giảng dạy tại Khoa Xuất bản - Học viện Báo chí và Tuyên
truyền với 2 mơn chính về lý luận cơ bản (Tổ chức bản thảo và Biên tập bản thảo)
và một số mơn khác về là sự cụ thể hóa về những phƣơng diện khác nhau của
nghiệp vụ biên tập. Trong đó, lý luận nghiệp vụ biên tập lại bao gồm:
- Công tác đề tài và kế hoạch đề tài
- Tổ chức cộng tác viên trong hoạt động biên tập
- Công tác biên tập bản thảo [23]
1.2. NGHIỆP VỤ BIÊN TẬP XUẤT BẢN
1.2.1. Công tác đề tài và kế hoạch đề tài
1.2.1.1. Khái niệm đề tài:
Trong lý luận xuất bản, đề tài đƣợc định nghĩa là “ý tƣởng tổng thể, là bản
thiết kế cho một xuất bản phẩm sắp xuất bản. Đó là ý tƣởng thiết kế về “ngơi nhà
đang hình thành trong óc nhà kiến trúc””[23:135] . Nói khác đi, đề tài là bản thiết
kế dự kiến cho một xuất bản phẩm sắp xuất bản, tức là bản thiết kế về chủ đề, nội
dung, tên gọi một cuốn sách cụ thể sẽ đƣợc thực hiện trong tƣơng lai. Đó có thể là
cuốn tiểu thuyết, cơng trình khoa học, tác phẩm dịch thuật, một cuốn sách công
cụ,v.v..
Đề tài trong xuất bản khác với đề tài trong khoa học, nghệ thuật và báo chí.
Đề tài là đối tƣợng thuộc tự nhiên, xã hội và tƣ duy để nghiên cứu trong khoa học
hoặc để phản ánh, miêu tả, thể hiện trong văn học, nghệ thuật.


18


Trong văn học, nghệ thuật, đề tài là đối tƣợng để miêu tả, biểu hiện, nghiên
cứu, chuyện trị,v.v.. Đó là những hiện tƣợng xã hội đƣợc nhà văn, ngƣời nghệ sĩ
khai thác một cách nhất quán theo ý đồ tƣ tƣởng - nghệ thuật của mình. Đề tài
đƣợc nhận thức và khai thác theo những quan điểm khác nhau, tuỳ thuộc vào thế
giới quan, lập trƣờng tƣ tƣởng, thái độ của văn nghệ sĩ. Bản thân đề tài không trực
tiếp mang tính tƣ tƣởng, nhƣng đề tài là điểm xuất phát để văn nghệ sĩ bộc lộ quan
điểm, tƣ tƣởng của mình qua chủ đề, cốt truyện và nhân vật. Ví dụ: Đề tài nơng
nghiệp, đề tài chiến tranh, đề tài tình yêu... hoặc cụ thể hơn, đề tài về đổi mới trong
giáo dục lối sống, phê phán tệ nạn xã hội...
Trong khoa học, mỗi đề tài là mảng của thế giới và đề tài là cách để tiếp cận
trên con đƣờng đi tìm chân lý. Cho nên việc chọn đề tài có một tầm quan trọng đặc
biệt. Đề tài phải đáp ứng yêu cầu của khoa học, của thời đại, phục vụ sản xuất và
đời sống con ngƣời, phải thiết thực và có ý nghĩa đối với thực tiễn cuộc sống.
Giống nhƣ văn học nghệ thuật, báo chí truyền thông cũng lấy hiện thực đời
sống xã hội làm đối tƣợng phản ánh. Báo chí là lĩnh vực truyền thơng cùng với
xuất bản nhƣng báo chí quan tâm đến tính thời sự, nóng hổi và bức xúc của các sự
kiện trong đời sống xã hội nhằm tác động đến nhận thức, tâm lí, hành vi con ngƣời
và định hƣớng dƣ luận, thực hiện việc giám sát và phản biện xã hội. Kết quả thực
hiện đề tài sẽ đƣợc thể hiện qua nội dung tác phẩm báo chí.
Nhƣ vậy, đề tài trong khoa học, văn học nghệ thuật và truyền thông là hiện
thực đƣợc nói tới, đƣợc đề cập đến trong các cơng trình, tác phẩm của tác giả. Mỗi
cơng trình, tác phẩm lấy một phần, một mảng của hiện thực để nghiên cứu, phản
ánh theo những phƣơng thức và bằng những phƣơng tiện ngơn ngữ khác nhau,
nhằm những mục đích cũng khác nhau. Trong khi đó, đề tài trong xuất bản lại chỉ
là một cuốn sách đƣợc dự định xuất bản về tác phẩm, cơng trình khoa học, nghệ
thuật hay truyền thông ấy.


19


Một cách chung nhất, nếu đối tƣợng nghiên cứu, khảo sát, xem xét trong hoạt
động khoa học hay đối tƣợng miêu tả, phản ánh trong nghệ thuật là đề tài ở giai
đoạn sáng tạo (bậc 1), thì xuất bản là hoạt động tiếp nhận, xã hội hóa sản phẩm
sáng tạo (bậc 1) ở các lĩnh vực trên làm đề tài để thực hiện, tức là xuất bản lấy sản
phẩm sáng tạo của nhà khoa học, nhà nghệ sĩ làm đối tƣợng để triển khai (bậc 2).
Từ nội dung định nghĩa về đề tài, ta có thể nói đến một đề tài cụ thể thực chất là
nói đến một cuốn sách trong dự định xuất bản. Và cần nhớ rằng, đây là ý tƣởng, là
công việc của biên tập viên nhà xuất bản trong công tác đề tài và công tác kế hoạch
đề tài.
1.2.1.2. Kế hoạch đề tài và công tác kế hoạch đề tài trong xuất bản
a. Khái niệm “kế hoạch đề tài”: “kế hoạch đề tài là sự kết hợp hữu cơ của một
loạt đề tài có quan hệ với nhau, ảnh hƣởng lẫn nhau” [23:137]
b. Khái niệm công tác kế hoạch đề tài: “Là chỉ hoạt động đề xuất đề tài của
biên tập viên, quá trình xây dựng, quyết định và điều chỉnh kế hoạch đề tài của nhà
xuất bản, nhằm bảo đảm hoạt động của đơn vị xuất bản có chất lƣợng và hiệu quả
cao” [23:137].
Nói cách khác, tập hợp các đề tài riêng lẻ thành một hệ thống đề tài là kế
hoạch đề tài, và tổ chức triển khai thực hiện chúng theo những kỳ hạn khác nhau
chính là cơng tác kế hoạch đề tài; nếu việc tìm kiếm, khai thác đề tài là cơng việc
của các biên tập viên thì việc thiết kế, xây dựng kế hoạch đề tài là công việc ở tầm
phạm vi lãnh đạo nhà xuất bản.
“Công tác kế hoạch đề tài là khâu mở đƣờng của hoạt động biên tập xuất
bản”. Việc xây dựng và xuất bản thành công đƣợc nhiều đề tài là góp phần quan
trọng làm nên tính hiệu quả của hoạt động xuất bản. Mỗi đề tài đƣợc đề xuất từ
một biên tập viên, còn việc xây dựng kế hoạch đề tài là công việc của tập thể, nhất
là lãnh đạo nhà xuất bản, đòi hỏi sự đầu tƣ trí tuệ nghiên cứu, khảo sát và kiến thiết
của tập thế nhà xuất bản. “Kế hoạch đề tài là khâu mở đƣờng cịn là vì mọi hoạt

20


động của nhà xuất bản liên quan đến nội dung biên tập, xuất bản đều phải căn cứ
vào kế hoạch đề tài, vì đó là căn cứ để tổ chức phân công lực lƣợng biên tập, tổ
chức mạng lƣới cộng tác viên, là căn cứ để chuẩn bị vật tƣ, tài chính, xây dựng
chiến lƣợc thị trƣờng cho việc phát hành, kinh doanh xuất bản phẩm…” [23:139]
Cơ sở để lập kế hoạch đề tài là xuất phát từ ý tƣởng cá nhân; từ khảo sát nhu
cầu xã hội, nhu cầu độc giả và thực tiễn xã hội gợi mở cho nhà xuất bản chọn
những mảng đề tài phù hợp...
c. Các loại kế hoạch đề tài: Về lí thuyết, kế hoạch đề tài có thể chia thành
nhiều loại theo thời gian. Nói cách khác, dựa vào phạm vi giới hạn của thời gian
xuất bản, hay là lấy thời đoạn để xây dựng đề tài xuất bản. Theo tiêu chí trên, có
các loại kế hoạch đề tài có: Kế hoạch định kỳ và kế hoạch khơng định kỳ, cịn gọi
là kế hoạch đột xuất.
Kế hoạch định kỳ đƣợc xác định phổ biến là kế hoạch hàng năm, tức là kế
hoạch của từng năm một. Ngồi ra cịn có kế hoạch trung hạn (2-5 năm) và dài hạn
từ trên 5 năm.
Kế hoạch đột xuất là kế hoạch khơng định kì, khơng đƣợc đăng kí trƣớc. Đó
là hoạt động khơng theo thời vụ của nhà xuất bản mà chỉ khi có những đề tài gắn
với yêu cầu và nhiệm vụ cũng mang tính đột xuất của nhà xuất bản, nhƣ xuất bản
sách phục vụ cho công tác tuyên truyền theo phong trào hoặc chủ đề hẹp nhân dịp
kỷ niệm hay sự kiện chính trị, xã hội, văn hố... nào đó. Trƣớc kia, trong cơ chế
bao cấp của nền sản xuất kế hoạch hoá, kế hoạch xuất bản đột xuất chỉ dành cho
những cuốn sách đặc biệt.
Ở đây, thời gian có vai trị quy định tính chất của cơng tác kế hoạch xuất bản,
khi khơng tính đến yếu tố thời gian thì tính kế hoạch cũng khơng cịn nữa mà chủ
yếu là kế hoạch đột xuất.
d. Mục đích và yêu cầu đối với kế hoạch đề tài


21


- “Kế hoạch đề tài là khâu mở đƣờng của hoạt động biên tập xuất bản” cịn là
vì mọi hoạt động của nhà xuất bản liên quan đến nội dung biên tập, xuất bản đều
phải căn cứ vào kế hoạch đề tài” Vì vậy, yêu cầu và cũng là mục tiêu chung của
cơng tác kế hoạch đề tài là tìm kiếm đƣợc càng nhiều càng tốt những đề tài mới,
hay, có giá trị, hiệu quả và phù hợp với tơn chỉ mục đích của từng chủ thể xuất
bản. Tính hiệu quả của đề tài dựa trên cơ sở tính đúng của đề tài. Đề tài đúng là đề
tài là không vi phạm luật pháp, phù hợp với nhu cầu lành mạnh, chính đáng, cần
thiết của xã hội, của thị trƣờng, cụ thể là đáp ứng tốt và kịp thời nhu cầu chính
đáng của đại đa số bạn đọc. Ngồi ra, đề tài đúng còn là đề tài phù hợp với định
hƣớng và nhiệm vụ tuyên truyền của chủ thể xuất bản, đảm bảo đúng tơn chỉ, mục
đích của nhà xuất bản. Đó là đề tài phù hợp với nhiệm vụ chính trị, định hƣớng tƣ
tƣởng của nhà cầm quyền, của giai cấp, của đảng; phù hợp với quan điểm và
đƣờng lối văn hoá của quốc gia. Đề tài hay là đề tài có tính mới mẻ, hấp dẫn, giải
đáp đƣợc những bức xúc của xã hội, đƣợc nhiều ngƣời quan tâm và hứa hẹn đạt
đƣợc hiệu quả cao về kinh tế và xã hội sau khi xuất bản.
- Mục đích tổng thể và quan trọng này chỉ có thể đạt đƣợc trên cơ sở đạt đƣợc
các mục tiêu bộ phận. Nói cách khác, tổng hợp các mục tiêu nhỏ, mục tiêu của các
khâu, các giai đoạn công việc sẽ đƣa đến mục tiêu lớn – là mục đích và cũng là yêu
cầu của công tác biên tập. Các mục tiêu bộ phận chính là mục tiêu của các khâu,
các bƣớc, các phần cơng việc trong cả quy trình biên tập.
- Tìm kiếm và khai thác đề tài vừa là nội dung vừa là mục tiêu của khâu tổ
chức bản thảo, nó bao gồm một số hoạt động cơ bản là: tìm kiếm và khai thác, thiết
kế và tạo lập bản thảo. Các hoạt động này có thể đơi khi tách bạch nhau nhƣng
thƣờng thì ln đƣợc gắn bó, kết hợp chặt chẽ với nhau. Mỗi hoạt động lại có yêu
cầu, mục đích và nội dung khác nhau.
Hoạt động tìm kiếm và khai thác đề tài trong xuất bản giống nhƣ ngƣời đi tìm
tài nguyên mỏ quặng trong ngành địa chất khai khống, đó là đi tìm tài ngun,

22


khoáng sản mới, nguồn nguyên liệu quý cho sản xuất. Nhƣng khác ở chỗ, ngƣời
tìm tài nguyên thiên nhiên thì tìm trong lịng đất, dƣới đáy đại dƣơng, cịn ngƣời
tìm đề tài làm sách thì tìm trong giới trí tuệ của xã hội, trong ngun khí quốc gia.
Cơng tác này là một trong những nhiệm vụ quan trọng của biên tập viên. Phải bám
sát thực tiễn, nhất là các ngành “sản xuất tinh thần” nhƣ cơ quan khoa học, giáo
dục, văn hoá... , mà chủ yếu là hoạt động của tầng lớp trí thức bao gồm giới khoa
học, giới văn nghệ sĩ... ở các nhà trƣờng, học viện, viện nghiên cứu. Bằng những
cách thức tiếp cận khác nhau, biên tập viên có thể khai thác đƣợc nguồn tác phẩm
từ những cơ sở sản xuất tinh thần và đội ngũ trí thức đó để hình thành đề tài làm
ngun liệu cho nhà xuất bản sản xuất xuất bản phẩm.
- Khi thiết kế một đề tài, biên tập viên cần đảm bảo một số yêu cầu, và đây
cũng là những tiêu chí hay cơ sở để xem xét, đánh giá hiệu quả của đề tài ấy.
- Thông tin về đề tài phải đầy đủ, sáng rõ nhƣ tên sách, tác giả, số trang/tập...
- Tính mục đích, tức là phải xác định rõ mục tiêu của việc xuất bản từng cuốn
sách và cho mảng sách và toàn bộ số đề tài đã lập và đăng kí xuất bản.
- Hiệu quả kinh tế và xã hội, tức là phải tính đến lợi nhuận, lỗ lãi thu đƣợc qua
phát hành từng cuốn sách cũng nhƣ hiệu quả về văn hoá xã hội của cuốn sách đem
lại. Hiệu quả kinh tế là hiệu quả hƣớng nội, trong khi hiệu quả xã hội là hiệu quả
hƣớng ngoại.
- Tính dự báo, tức là khả năng nắm bắt xu thế, nhu cầu xã hội để có sự chuẩn
bị tốt nhất về kế hoạch xuất bản phục vụ kịp thời và có hiệu quả nhu cầu đó trong
thời gian trƣớc mắt cũng nhƣ lâu dài. Tính dự báo cũng địi hỏi năng lực dự đốn,
phân tích và phán đốn về thị trƣờng cho đầu ra của xuất bản phẩm, khả năng trù
tính về hiệu quả kinh tế cũng nhƣ hiệu quả xã hội cho toàn bộ kế hoạch đề tài cũng
nhƣ cho từng sản phẩm cụ thể.
- Tính khả thi, tức là khả năng thực hiện trọn vẹn kế hoạch từng đề tài, tức về
kế hoạch xuất bản từng cuốn sách cụ thể đến cả kế hoạch đề tài về nhiều chủng

23


loại, mảng sách với các thời hạn khác nhau đã xây dựng và đăng kí xuất bản. Tính
khả thi đƣợc đánh giá qua việc xem xét tồn diện, trong đó quan trọng nhất là các
điều kiện về thị trƣờng và dự báo về nhu cầu độc giả về các đề tài đó. Các thơng số
cần phải quan tâm là: đề tài này, cuốn sách này có thể in đƣợc số lƣợng bao nhiêu
cuốn, khả năng tiêu thụ thế nào, lợi nhuận và hiệu quả xã hội của nó đến đâu...
- Về pháp luật, có đảm bảo đủ điều kiện hành lang pháp lý cho phép xuất bản
cuốn sách mà không vi phạm về pháp luật (Luật Xuất bản, Luật Sở hữu trí tuệ..).
- Về cơng nghệ, có thể thực hiện đƣợc ở mức độ nào; về giấy, màu, bìa, minh
hoạ...
- Nhân lực nhà xuất bản về biên tập: trình độ chun mơn, vẽ bìa hay minh
hoạ sách...
- Các điều kiện hợp đồng xuất bản của nhà xuất bản với các đối tác, về chất
lƣợng nội dung; quy cách hình thức, điều kiện tài chính; về tiến độ thời gian hồn
thành theo hợp đồng có đảm bảo phù hợp khơng…
1.2.2. Tổ chức cộng tác viên trong hoạt động biên tập
1.2.2.1. Khái niệm cộng tác viên
Cộng tác viên là những ngƣời ở ngồi nhà xuất bản có quan hệ cộng tác với
nhà xuất bản trong hoạt động xuất bản. Hoạt động xuất bản có nhiều khâu, nhiều
cơng đoạn và cơng việc khác nhau, và khâu nào cũng có thể có cộng tác viên tham
gia. Có cộng tác viên tác giả, cộng tác viên biên tập, hiệu đính, cộng tác viên in ấn,
cộng tác viên phát hành… Nói khác đi, trong hoạt động có bao nhiêu khâu thì có
bấy nhiêu loại cộng tác viên, trong đó, cộng tác viên tác giả là quan trọng nhất.
1.2.2.2. Công tác tổ chức cộng tác viên
Công tác tổ chức cộng tác viên “là công việc tổ chức mạng lƣới những ngƣời
công tác với nhà xuất bản, mà trƣớc hết là hoạt động lựa chọn tổ chức các tác giả,
soạn giả, dịch giả; hƣớng dẫn, bồi dƣỡng, giúp đỡ họ để đạt chất lƣợng và hiệu quả


24


cao trong việc làm ra bản thảo, hoàn thiện bản thảo, nhân bản và đƣa xuất bản
phẩm đến đúng đối tƣợng cần phục vụ” [23:157]
Công tác cộng tác viên là một trong hai công việc của tổ chức bản thảo. Cùng
với công tác đề tài là khâu mở đầu, công tác cộng tác viên cũng có vai trị quan
trọng nhƣ là khâu then chốt trong hoạt động này.
Mục tiêu của cơng tác cộng tác viên là nhằm khai thác, tìm kiếm, xây dựng và
kiến tạo nguồn bản thảo. Mục tiêu quan trọng này đặt ra trong khâu tổ chức bản
thảo, vì bản thảo là vấn đề sống cịn, quyết định sự tồn tại và phát triển của nhà
xuất bản; nhà xuất bản mà khơng có cộng tác viên, nhất là cộng tác viên tác giả thì
sẽ khơng có bản thảo thì sẽ khơng có hoạt động sản xuất. Theo đó, tổ chức, khai
thác đƣợc nhiều bản thảo có giá trị là mục tiêu đầu tiên của hoạt động xuất bản.
Bởi vì, ai cũng biết, bản thảo là tài nguyên, là nguồn nguyên liệu đầu vào quan
trọng nhất, tiên quyết của việc sản xuất xuất bản phẩm. Ở một góc độ vai trị của
cơng tác tổ chức bản thảo, có thể nói khơng q rằng, bản thảo là điều kiện tồn tại,
là nguồn sống của nhà xuất bản. Nhà xuất bản mà khơng có bản thảo thì chỉ giống
nhƣ một trại tế bần. Khơng có bản thảo thì khơng có gì để nói về biên tập và xuất
bản cả.
1.2.2.3. Nội dung cơ bản của công tác cộng tác viên
Ở đây, nội dung cơng tác cộng tác viên đƣợc nói đến chủ yếu là cộng tác viên
tác giả [23], và phần lớn nội dung kiến thức này thích hợp với thời kỳ xuất bản bao
cấp.
a. Lựa chọn cộng tác viên tác giả phù hợp
Thứ nhất, “Lựa chọn chính xác những cộng tác viên tác giả thích hợp cho mỗi
đề tài là nội dung đầu tiên quyết định sự thành công của việc tổ chức bản thảo”
[23:158]. Tuy nhiên, ở đây chƣa làm rõ đƣợc vấn đề: đề tài cụ thể đó từ đâu mà có
và nó nhƣ thế nào để mà chọn cộng tác viên.


25


×