Bộ giáo dục và đào tạo
Học viện Chính trị - hành chính
Quốc gia hồ chí minh
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
NGUYN TH HOA
quan hệ của Đảng lao động Việt Nam
với Đảng Cộng sản liên xô
(1954 - 1975)
Chuyên ngành
: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
MÃ số
: 60 22 03 15
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS CAO VĂN LIÊN
Hµ néi - 2012
MỤC LỤC
Trang
1
MỞ ĐẦU
Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC QUAN HỆ CỦA ĐẢNG LAO ĐỘNG
VIỆT NAM VỚI ĐẢNG CỘNG SẢN LIÊN XÔ
9
1.1. Cơ sở lý luận
9
1.2. Cơ sở thực tiễn
20
Chương 2: QUAN HỆ CỦA ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM VỚI
ĐẢNG CỘNG SẢN LIÊN XÔ (1954 -1975)
2.1. Những nhân tố tác động đến quan hệ giữa hai Đảng
38
38
2.2. Quan hệ của Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Cộng sản Liên
Xô (1954 - 1975)
54
Chương 3: NHẬN XÉT CHUNG VỀ QUAN HỆ CỦA ĐẢNG LAO ĐỘNG
VIỆT NAM VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN LIÊN XÔ (1954 - 1975)
77
3.1. Những thành tựu và hạn chế trong mối quan hệ giữa hai Đảng
77
3.2. Một số kinh nghiệm rút ra từ mối quan hệ Đảng Lao động Việt
Nam và Đảng Cộng sản Liên Xô
94
KẾT LUẬN
99
TÀI LIỆU THAM KHẢO
101
PHỤ LỤC
106
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
ASEAN
:
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
BCHTW
:
Ban Chấp hành Trung ương
CA - TBD
:
Châu Á Thái Bình Dương
CMLTCHMN
:
Cách mạng lâm thời cộng hịa miền Nam
CNXH
:
Chủ nghĩa xã hội
CNTD
:
Chủ nghĩa thực dân
CNĐQ
:
Chủ nghĩa đế quốc
CNQT
:
Công nhân quốc tế
CNQTVS
:
Chủ nghĩa quốc tế vô sản
ĐCS
:
Đảng Cộng sản
ĐCSLX
:
Đảng Cộng sản Liên Xô
ĐCSVN
:
Đảng Cộng sản Việt Nam
ĐCSĐD
:
Đảng Cộng sản Đông Dương
ĐLĐVN
:
Đảng Lao động Việt Nam
ĐNA
:
Đông Nam Á
KHXH - NV
:
Khoa học xã hội và nhân văn
MTDTGPMN
:
Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam
VNDCCH
:
Việt Nam dân chủ cộng hịa
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam - Liên Xô cách xa nhau hàng vạn dặm, con đường đi lên của
nhân dân hai nước trong những thời kỳ lịch sử trước đây không giống nhau,
ngôn ngữ và nhiều truyền thống văn hóa cũng khác nhau. Thời cận đại, hai
bên hầu như khơng có quan hệ gì về kinh tế, chính trị, văn hóa. Sau thắng lợi
của Cách mạng tháng Mười, Liên Xô trở thành trung tâm cách mạng thế giới
và là chỗ dựa của cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam, do đi theo
con đường của cách mạng tháng Mười, duy trì quan hệ với Liên Xơ đặc biệt
là với Đảng Cộng sản Liên Xô, đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam lập nhiều kỳ
tích lịch sử to lớn, đấu tranh giành và giữ được nền độc lập, đánh thắng cả
Pháp và Mỹ, góp phần thúc đẩy cách mạng thế giới, nâng vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế. Bởi vậy, việc xây dựng tình đồn kết, ủng hộ và hợp tác
với Đảng Cộng sản Liên Xô trong nhiều thập kỷ trước đây đã được Đảng
Cộng sản Việt Nam coi là một nhiệm vụ chiến lược và là hịn đá tảng trong
chính sách đối ngoại của Đảng, được Đảng thường xuyên vun đắp, giữ gìn.
Thực tiễn lịch sử chứng minh rằng, một trong những nhân tố cơ bản, đồng
thời cũng là một bài học kinh nghiệm lớn của cách mạng Việt Nam là phải kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kết hợp cách mạng Việt Nam
với cách mạng thế giới, tranh thủ sự giúp đỡ của cách mạng thế giới, trước hết
và hàng đầu là của Liên Xô.
Quan hệ giữa hai Đảng trải qua nhiều giai đoạn. Trong đó giai đoạn
1954 - 1975 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, diễn ra trong bối cảnh quốc tế
phức tạp sau chiến tranh thế giới thứ II với việc hình thành trật tự thế giới mới
và những năm căng thẳng của chiến tranh lạnh Đơng - Tây. Trong bối cảnh
đó, quan hệ giữa hai Đảng về cơ bản là thuận lợi và liên tục, có ảnh hưởng
khơng nhỏ đến tiến trình lịch sử mỗi nước, đặc biệt là Việt Nam. Liên Xô
không chỉ là chỗ dựa tinh thần, đồng minh chiến lược, mà từ năm 1950 cịn là
"cửa sổ nhìn ra thế giới và châu Âu" của Việt Nam. Nhưng những hiểu biết
2
của chúng ta về quan hệ giữa Việt Nam và Liên Xô đặc biệt là giữa hai Đảng
đã nhiều song chưa đầy đủ cho nên nghiên cứu đề tài để hiểu sâu sắc thêm
lịch sử quan hệ hai Đảng, từ đó biết thêm lịch sử quan hệ giữa hai Nhà nước
và quan hệ giữa các tổ chức kinh tế, chính trị, văn hố. Đồng thời việc nghiên
cứu cịn cho ta hiểu thêm những trang lịch sử của Đảng Cộng sản Liên xơ và
Đảng Cộng sản Việt Nam góp phần vào việc nghiên cứu, phục vụ giảng dạy
học tập lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam và lịch sử quan hệ đối ngoại của
Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như của nhà nước Việt Nam. Qua đó rút kinh
nghiệm trong việc xây dựng và củng cố quan hệ với những nước có cùng hệ
thống chính trị - xã hội và hệ tư tưởng trong tình hình hiện nay, góp phần thực
hiện và xây dựng chính sách đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam ở hiện
tại và tương lai.
Hơn nữa, trong điều kiện quốc tế mới, kể từ khi Liên xô tan rã (1991)
quan hệ Liên Bang Nga - Việt Nam đã có nhiều thay đổi phù hợp trong tình
hình mới. Vì vậy việc rút ra những nhận xét từ quan hệ quá khứ là điều cần
thiết để tiếp tục phát triển quan hệ giữa hai nước lên tầm cao mới và kế thừa
có hiệu quả quan hệ truyền thống tốt đẹp xưa. Với ý nghĩa khoa học và thực
tiễn đó tác giả luận văn đã chọn vấn đề “Quan hệ của Đảng Lao động Việt
Nam với Đảng Cộng sản Liên Xô (1954 - 1975)” làm đề tài cho luận văn
thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Được sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản và ảnh hưỏng của Cách mạng
tháng Mười Nga, ngày 3/02/1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Từ đây
Đảng Cộng sản Việt Nam đã dần có những mối quan hệ với Đảng Cộng sản
Liên Xô. Mối quan hệ này đã trải qua thử thách, được rèn luyện trong bối
cảnh quốc tế phức tạp và trở thành biểu tượng đẹp của sự hợp tác Việt - Xơ.
Vì vậy, những biểu hiện sinh động của mối quan hệ này được đề cập nhiều
trong các văn bản chính thức của Đảng và Nhà nước, trong các tác phẩm của
các vị lãnh đạo và trong các bài viết của giới nghiên cứu.
3
Trước hết là các văn kiện Đảng và Chính phủ, các hiệp định, các bài
phát biểu, thư điện của các nguyên thủ quốc gia, các báo cáo, văn bản tiếp xúc
của các phái đồn, cơ quan hai nước được cơng bố.
Có thể khai thác nội dung này trong một số cơng trình của các nhà lãnh
đạo và các cơ quan Đảng, Nhà nước như: “Việt Nam - Liên Xô 30 năm quan
hệ (1950 - 1980)", Nxb Ngoại giao HN, 1980. Cuốn sách bao gồm những văn
kiện quan trọng nhất về quan hệ giữa Việt Nam và Liên Xô trong những năm
1950 - 1980 gồm những Hiệp ước, hiệp định và những văn kiện thỏa thuận
khác. Những tuyên bố và thông cáo chung, những thông báo về các cuộc hội
đàm giữa các đồn đại biểu Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội, cơng đồn
và các đồn đại biểu khác của Việt Nam và Liên Xơ.
"Đồn kết và hợp tác tồn diện với Liên Xơ là ngun tắc chiến lược và
tình cảm của chúng ta”, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1982 của Lê Duẩn. Cuốn sách
gồm một số bài viết và bài nói của Tổng Bí thư Lê Duẩn từ năm 1966 - 1982,
nêu bật truyền thống lịch sử của tình đồn kết hợp tác tồn diện giữa Việt
Nam và Liên Xơ, lòng biết ơn sâu sắc của nhân dân Việt Nam đối với sự giúp
đỡ tận tình, tồn diện của nhân dân Liên Xô và những lời tuyên bố thấm
nhuần CNQTVS cao cả và đầy tình nghĩa anh em của đồng chí Brêgiơnhep
tổng Bí thư ĐCSLX.
“Tình hữu nghị Việt - Xơ mãi mãi xanh tươi và đời đời bền vững”, Nxb
Sự thật, Hà Nội, 1983 của Phạm Văn Đồng; “Tượng đài hùng vĩ của tình hữu
nghị Việt - Xơ”, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1983 của Trường Chinh.
"Thắng lợi của tình hữu nghị và sự hợp tác toàn diện Việt Nam - Liên
Xô", Nxb Sự thật, Hà Nội, 1983. Cuốn sách bao gồm các bài viết của một số
thành viên trong Hội đồng Bộ trưởng Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về
ý nghĩa và hiệu quả của sự hợp tác và giúp đỡ của Liên Xô đối với sự nghiệp
xây dựng kinh tế, văn hóa, xã hội của Việt Nam.
“Đoàn kết với Việt Nam là mệnh lệnh của trái tim và trí tuệ”, Nxb Sự
thật, Hà Nội, 1985 của Brêgiơnhep. Cuốn sách bao gồm những bài nói, bài
4
viết quan trọng của Brêgiơnhep nói về Việt Nam và mối quan hệ tốt đẹp giữa
Việt Nam và Liên Xô.
"Cách mạng tháng Mười và tình hữu nghị Việt - Xơ", Thành hội Việt
Xơ Hà Nội, 1987. Cuốn sách nói về ý nghĩa của cách mạng tháng Mười trong
lịch sử loài người tiến bộ trên thế giới. Các biểu hiện về tình hữu nghị, đồn
kết giữa Liên Xơ và Việt Nam trong các mặt kinh tế, văn hoá, giáo dục. Sự
ảnh hưởng to lớn của nước Nga Xô Viết đối với Việt Nam
Trong cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước, cũng đã có một số cơng
trình được cơng bố mà chủ yếu là của học giả Liên Xô viết: “Liên Xô bên
cạnh Việt Nam", Nxb Thông tấn xã Nôvôxti, 1971. Những tài liệu trong tập
sách nói về sự phát triển quan hệ Xô - Việt từ tháng II năm 1968 gồm những
bản tun bố chính thức của Chính phủ Liên Xơ. Cũng như những bài phát
biểu của các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô, các văn kiện và tài liệu
khác được cơng bố trong thời gian đó và chứng tỏ mối tình đồn kết gắn bó
nhân dân Liên Xơ với nhân dân Việt Nam.
“Sức mạnh khơng gì chuyển lay”, Nxb thông tấn xã Nôvôxti, 1975 của
Êghêlin; “Liên Xô - Việt Nam: tình hữu nghị và hợp tác”, Nxb Thơng tấn xã
Nơvơxti, 1975 của Grigoripopop. Khai thác những cơng trình này giúp chúng ta
hiểu được mối quan hệ Việt - Xơ từ góc độ những nhà nghiên cứu Xơ - Viết.
Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi chúng ta có điều
kiện để tiếp tục đi vào khai thác mối quan hệ Xơ - Việt ở nhiều góc độ khác
nhau. Đã có khơng ít bài viết, hồi ức tranh ảnh về mối quan hệ Liên Xô - Việt
Nam được đăng tải trên các tờ báo, tạp chí như: báo Nhân dân, báo Pravda,
báo Liên Xô ngày nay, báo Quân đội nhân dân, tạp chí lịch sử Quân sự, tạp
chí nghiên cứu lịch sử, tiêu biểu như “25 năm hợp tác thắng lợi” của
Xcasơcôp (Liên Xô ngày nay số 8 ngày 15/4/1980) “Tìm hiểu sự giúp đỡ của
nhân dân Liên Xô trong cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam 1945 1975” của Hồng Hạnh - Hải Hà (Tạp chí Lịch sử quân sự, số 4/2000)…
5
những bài viết này đã đề cập đến những khía cạnh khác nhau của mối quan
hệ, nhất là sự giúp đỡ Liên Xơ đối với Việt Nam.
Và cũng có một số cuốn sách, kỷ yếu ra đời nhân dịp kỷ niệm cách
mạng tháng Mười và ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Liên Xô - Việt Nam
như “Cách mạng tháng Mười và tình hữu nghị Việt - Xơ” (thành hội Xơ Việt.HN.1987); “Thắng lợi của tình hữu nghị và sự hợp tác tồn diện Việt
Nam - Liên Xơ” (Sự thật, Hà Nội, 1983)… Kỷ yếu hội thảo khoa học 80 năm
cách mạng tháng Mười Nga (Đại học quốc gia Hà Nội, 1997); Kỷ yếu hội
thảo “Kỷ niệm lần thứ 50 ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Liên Xô”
của Bộ Ngoại giao, Hà Nội, 2000; Kỷ yếu hội thảo khoa học “Quan hệ Việt Nam
- Liên Bang Nga: Lịch sử, hiện trạng và triển vọng” của trung tâm KHXH và
NV quốc gia, 2002. Nhìn chung, các bài viết trong hội thảo là những tham luận
của các tác giả là các nhà khoa học, nhà chính trị, nhà ngoại giao phục vụ hội
thảo. Cho nên các bài viết chỉ đi vào một số khía cạnh của quan hệ hai nước,
chưa có dịp đề cập mối quan hệ này một cách toàn diện, chi tiết. Hơn nữa các bài
viết tập trung chủ yếu vào mối quan hệ Việt Nam - Liên Bang Nga ở giai đoạn
hiện nay. Còn quan hệ giữa Đảng Lao động Việt Nam với Đảng Cộng sản Liên
Xô chỉ đề cập đến như một cái nền chung mà ít được nghiên cứu sâu.
Về phía Liên Xơ, các nhà sử học cũng đã cho ra mắt bạn đọc một số
cơng trình có giá trị về mối quan hệ Liên Xô - Việt Nam như: “Lịch sử quan hệ
Liên Xô - Việt Nam (1917 - 1985)”, Nxb Quan hệ quốc tế, 1986, tiếng Nga của
M.P.Ixaep. A.x.Trecnưsep; “Liên bang Xô Viết và chiến tranh Việt Nam”, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội, 1998 của I.Lya. V Gaiduc… Những tác phẩm này
cũng đã dựng lên bức tranh về quan hệ Xô - Việt. Song các tác giả của những tác
phẩm đó chỉ dừng lại ở sự giúp đỡ của Liên Xô đối với sự nghiệp cách mạng
Việt Nam chứ chưa đề cập đến ảnh huởng của mối quan hệ giữa hai Đảng.
Như vậy mặc dù quan hệ Việt Nam - Liên Xô được đề cập đến nhiều
nhưng quan hệ giữa Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Cộng sản Liên Xơ
vẫn chưa đuợc nghiên cứu có hệ thống tồn diện.
6
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Làm sáng tỏ mối quan hệ giữa Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Cộng
sản Liên Xơ; làm rõ vị trí và vai trò của mỗi Đảng trong mối quan hệ để thấy
rõ được sự đóng góp của mỗi bên đối với tiến trình cách mạng của bên kia.
Qua đó thấy được chính sách khu vực của Liên Xơ cũng như vị trí cách mạng
Việt Nam trong mối quan hệ quốc tế.
Đồng thời, qua việc nghiên cứu quan hệ giữa ĐLĐVN và ĐCSLX thời
kỳ này, có thể đưa ra một số nhận xét về hoạt động đối ngoại của Việt Nam
trong quan hệ với Liên Xô trong suốt khoảng thời gian từ 1954 - 1975. Đây
có thể được coi là những bài học cho sự phát triển của mối quan hệ Liên Bang
Nga - Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích này luận văn phải thực hiện những nhiệm vụ sau:
Luận văn trình bầy quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về chủ nghĩa quốc tế vơ sản.
Luận văn trình bầy một cách tương đối tồn diện, có hệ thống về q
trình hình thành và phát triển mối quan hệ của Đảng Lao động Việt Nam và
Đảng Cộng sản Liên xô, trên các lĩnh vực: lý luận, sự giúp đỡ của Liên xô với
Việt Nam cũng như những quan điểm chung trong vấn đề quốc tế.
Trên cơ sở những tư liệu, sự kiện, luận văn xem xét, đánh giá mặt tích
cực, mặt hạn chế của Đảng Cộng sản Liên Xô đối với Đảng và cách mạng
Việt Nam, làm rõ những đóng góp của đảng ta, từ đó bước đầu nêu lên một số
kinh nghiệm trong mối quan hệ quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Nghiên cứu quan hệ giữa Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Cộng sản
Liên Xô (1954 - 1975).
7
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu mối quan hệ của Đảng Lao động Việt Nam và
Đảng Cộng sản Liên xô từ 1954 - 1975. Cụ thể luận văn nghiên cứu đường lối
đối ngoại của ĐLĐVN và ĐCSLX, sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Liên Xô
trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ, một số hạn chế trong mối quan
hệ này và những kinh nghiệm rút ra.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Là những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Những văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam, những
bài nói, bài viết của các nhà lãnh đạo Việt Nam cũng là cơ sở lý luận quan
trọng của luận văn
Phương pháp nghiên cứu: Để đạt được mục đích, yêu cầu và nhiệm vụ
của luận văn, tác giả dựa vào cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Đó là phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp
duy vật lịch sử. Luận văn thuộc chuyên ngành Lịch sử Đảng, nên về cơ bản
tác giả sử dụng phương pháp luận sử học như: phương pháp lịch sử, phương
pháp logic, hệ thống. Ngồi ra, tác giả cịn sử dụng các phưong pháp thống
kê, so sánh, mơ tả để phân tích, xử lý các số liệu một cách khách quan.
6. Cái mới của luận văn
Luận văn đã khẳng định những ảnh hưởng tích cực và phân tích những
hạn chế của ĐCSLX đối với Đảng và cách mạng Việt Nam.
Khẳng định những đóng góp của ĐLĐVN đối với ĐCSLX
Luận văn đã chỉ ra được cơ sở của mối quan hệ giữa hai Đảng, đồng
thời cũng nêu lên được những đóng góp của mối quan hệ giữa hai Đảng trong
thời gian từ 1954 - 1975.
Luận văn rút ra được một số kinh nghiệm phục vụ cho quan hệ của
ĐCSVN với các Đảng khác trong hiện tại và tương lai.
8
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Kế thừa thành quả của những cơng trình có trước và trên cơ sở những tư
liệu tập hợp được, luận văn đã trình bầy một cách có hệ thống và sâu sắc mối quan
hệ giữa Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Cộng sản Liên Xô (1954 - 1975).
- Qua đó giúp người đọc có cái nhìn khách quan hơn về mối quan hệ
giữa hai Đảng, về vai trò của mối quan hệ này trong tiến trình cách mạng ở
mỗi quốc gia, về ảnh hưởng của nó đối với quan hệ quốc tế.
- Luận văn có thể là một tài liệu tham khảo phục vụ cho quá trình
nghiên cứu, giảng dạy lịch sử Đảng và lịch sử quan hệ quốc tế.
- Luận văn hoàn thành sẽ là một tác phẩm lịch sử mới về quan hệ giữa
Đảng Lao động Việt Nam - Đảng Cộng sản Liên Xô và quan hệ Việt Nam Liên Xơ nói chung.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1: Cơ sở khoa học quan hệ của Đảng Lao động Việt Nam với
Đảng Cộng sản Liên Xô.
Chương 2: Quan hệ của Đảng Lao động Việt Nam với Đảng Cộng sản
Liên Xô (1954 - 1975).
Chương 3: Nhận xét chung về quan hệ của Đảng Lao động Việt Nam
và Đảng Cộng sản Liên Xô (1954 - 1975).
9
Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC QUAN HỆ CỦA ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM
VỚI ĐẢNG CỘNG SẢN LIÊN XÔ
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Quan điểm của Mác - Lênin về chủ nghĩa quốc tế vơ sản
Trong cuộc đấu tranh cho hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ
nghĩa xã hội, giai cấp công nhân và đội tiên phong của nó là các Đảng Cộng
sản đang đồn kết giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động, đồn kết tất cả các
dân tộc bị áp bức, lôi cuốn tất cả các tầng lớp tiến bộ trong xã hội tư bản trên
thế giới vào một mặt trận rộng rãi chống đế quốc và phản động quốc tế. Chất
kết dính các lực lượng cách mạng của thời đại chính là CNQTVS. CNQTVS
như một nhân tố khách quan quy định tính chất của mối quan hệ giữa các
Đảng Cộng sản và công nhân, giữa các nước xã hội chủ nghĩa, giữa các đội
ngũ cách mạng của thời đại.
CNQTVS hình thành và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của
phong trào cộng sản và CNQT với cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản,
chống chủ nghĩa dân tộc tư sản và tiểu tư sản. Trong "Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản" C.Mác và Ph.Ăngghen đã phân tích một cách khoa học nguồn gốc,
nội dung của CNQTVS và kêu gọi "Vô sản tất cả các nước, đồn kết lại!".
Khẩu hiệu đó xuất phát từ luận điểm của C.Mác và Ph.Ăng ghen cho rằng
cách mạng xã hội chủ nghĩa là kết quả của sự đoàn kết và đấu tranh của giai
cấp công nhân chống tư bản trong tất cả các nước. Các ông cũng đã chỉ ra
rằng tình đồn kết và thống nhất giai cấp cơng nhân là điều kiện sống cịn để
bảo đảm thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân.
Ph.Ăng ghen viết: "Những người vô sản trong tất cả các nước đều có cùng
một lợi ích, cùng một kẻ thù, trước mắt họ có cùng một cuộc đấu tranh. Do
bản chất của mình những người vơ sản đã thốt khỏi những thành kiến dân
tộc chỉ có những người cộng sản mới có khả năng thủ tiêu sự cách biệt dân
10
tộc, chỉ có giai cấp vơ sản đang thức tỉnh mới có thể thiết lập được tình hữu ái
anh em giữa các dân tộc khác nhau". Song C.Mác và Ph.Ăng ghen cũng làm
rõ một điểm quan trọng là: cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp
tư sản, dù về thực chất không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc
đầu vẫn mang hình thức đấu tranh dân tộc và giai cấp vô sản mỗi nước trước
hết phải thanh toán xong giai cấp tư sản nước mình đã. Vì thế Ph.Ăngghen lại
nói: "Nếu khơng có độc lập và thống nhất cho từng dân tộc, thì khơng thể
thực hiện được sự liên hiệp quốc tế của giai cấp vô sản và sự hợp tác yên ổn
và tự giác giữa các dân tộc đó để đạt tới những mục đích chung" [81, tr.12].
V.I.Lênin, nhà quốc tế chân chính đã chiến đấu kiên cường để bảo vệ
CNQTVS. V.I.Lênin đã chứng minh rằng trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, sự
thống trị của chủ nghĩa tư bản đã ở phạm vi thế giới. Chính vì lẽ đó, cuộc đấu
tranh giải phóng của giai cấp cơng nhân tất cả các nước chỉ giành được thắng lợi
nếu họ đoàn kết được với các dân tộc bị áp bức để đấu tranh chống tư bản thế
giới. V.I.Lênin kêu gọi: "Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn
kết lại!". Đó là sự phát triển của V.I.Lênin về nội dung của CNQTVS. Sức mạnh
của khẩu hiệu chiến lược đó là ở chỗ nó đã chỉ ra rằng trong thời đại đế quốc chủ
nghĩa sự nghiệp cách mạng đánh đổ chủ nghĩa tư bản và đưa loài người tiến lên
CNXH chỉ có thể giành được thắng lợi bằng sự kết hợp thành một trào lưu chung
cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản tất cả các nước với cuộc đấu tranh của nhân
dân các nước thuộc địa chống CNĐQ. Sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân
dân các nước thuộc địa và phụ thuộc chỉ có thể đi đến thắng lợi triệt để khi nó trở
thành một bộ phận khăng khít của cách mạng vơ sản thế giới. Thực tế lịch sử
trong giai đoạn này cho thấy nếu khơng có một sự cố gắng đồn kết thống nhất
giai cấp vơ sản quần chúng lao động tất cả các nước, các dân tộc trên thế giới thì
thắng lợi đối với chủ nghĩa tư bản khơng thể hồn thành được.
Nói về nội dung và thực chất của CNQTVS, V.I.Lênin đã khẳng định:
Chỉ có một chủ nghĩa quốc tế thật sự, duy nhất và độc nhất là: làm
việc quên mình cho sự phát triển của phong trào cách mạng ở trong
11
nước mình, ủng hộ (bằng sự tuyên truyền, đồng tình, giúp đỡ vật
chất) cũng cuộc đấu tranh ấy và chỉ đường lối ấy mà thôi, trong tất
cả các nước, không trừ một nước nào [81, tr.7].
Đó là sự kết hợp hài hịa giữa lợi ích quốc tế và lợi ích dân tộc. Nghĩa
là mỗi một nước, mỗi một dân tộc phải thực hiện tối đa cái có thể thực hiện
được phát triển phong trào cách mạng trong nước đồng thời ủng hộ, thức tỉnh
các cuộc cách mạng ở tất cả các nước, làm mọi cái có khả năng làm được để
thúc đẩy phong trào cách mạng thế giới, để đẩy nhanh những biện pháp làm
cho lồi người thốt khỏi ách tư bản và nô lệ làm thuê, xây dựng xã hội
XHCN và một nền hịa bình, cơng bằng và bền vững giữa các dân tộc.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã giải thích một cách khoa học sự thống nhất
giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với CNQTVS. Đứng trên lập trường của
giai cấp vơ sản thì chủ nghĩa u nước thống nhất với CNQTVS. Đối với giai
cấp vơ sản tình yêu tổ quốc, niềm tự hào dân tộc về cơ bản khác hẳn với giai
cấp tư sản. Chủ nghĩa yêu nước của giai cấp tư sản mang đặc điểm vụ lợi giai
cấp theo kiểu Sô - Vanh. Dưới ngọn cờ của chủ nghĩa yêu nước giai cấp tư
sản tạo nên cái gọi là "khối thống nhất dân tộc" và sử dụng nó vào các mục
đích dân tộc hẹp hịi của mình. Cịn chủ nghĩa u nước của giai cấp vơ sản là
chủ nghĩa yêu nước chân chính, bộ phận của CNQTVS. Vì thế ngay từ những
năm đầu của thế kỷ này Lênin đã khẳng định: "niềm tự hào dân tộc hiểu theo
nghĩa cách mạng là trùng với tình cảm xã hội chủ nghĩa của những người vô
sản Nga và tất cả những người vơ sản khác" [81].
Có thể nói rằng chỉ có thực hiện được sự thống nhất giữa CNQTVS và
chủ nghĩa yêu nước chân chính, sự thống nhất giữa lợi ích quốc tế với lợi ích
dân tộc thì mới giữ vững được bản chất của CNQTVS. Thế nhưng chủ nghĩa
dân tộc dưới nhiều màu sắc đã tìm mọi cách để đối lập với CNQTVS. Lênin
cho rằng, chủ nghĩa dân tộc tư sản và CNQTVS là hai khẩu hiệu đối lập
khơng thể điều hịa được và là biểu thị hai chính sách, hơn thế nữa là hai thế
giới quan trong vấn đề dân tộc. Cho nên những hành động tự tách mình ra
12
khỏi phong trào cộng sản quốc tế, tuyệt đối hóa những đặc điểm dân tộc, đối
lập nguyên tắc độc lập tự chủ với tình đồn kết quốc tế vơ sản, muốn áp đặt
kinh nghiệm của mình cho các đảng anh em đều là những biểu hiện của chủ
nghĩa dân tộc tư sản và tiểu tư sản. Trong đó chủ nghĩa bành trướng và bá
quyền là biểu hiện tập trung nhất, cao độ nhất và trắng trợn nhất của chủ
nghĩa dân tộc phản động.
Cho dù các nhà tư tưởng của chủ nghĩa đế quốc cũng như bọn xét lại,
cơ hội "tả" và "hữu" đã núp dưới mọi hình thức của chủ nghĩa dân tộc để
chống lại CNQTVS, chống lại sự thống nhất của các nước XHCN, của phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế, song bất chấp sự phá hoại đó tình đồn
kết quốc tế vơ sản, sự hợp tác anh em giữa những người cộng sản và tất cả các
lực lượng cách mạng của thời đại ngày càng tăng cường hơn bao giờ hết.
Như vậy, từ khi chủ nghĩa Mác ra đời đến nay nội dung của CNQTVS
được phát triển qua ba giai đoạn của quá trình cách mạng thế giới, nhưng bản
chất của CNQTVS vẫn là tình đồn kết quốc tế của giai cấp vô sản, là sự tăng
cường hợp tác, ủng hộ và tin cậy lẫn nhau trên cơ sở chủ nghĩa Mác -Lênin
cùng phối hợp đấu tranh vì mục tiêu chung và cùng chống kẻ thù chung là chủ
nghĩa đế quốc và bọn phản động quốc tế. Trong tình hình quốc tế như vậy,
bản chất đó đã được đồng chí Lê Duẩn nêu lên như một nguyên tắc: "Giúp đỡ
hết lòng hay bỏ mặc một dân tộc cho bọn đế quốc và bọn phản động tàn sát đó
là hịn đá thử vàng đối với những người cách mạng" [76].
1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa quốc tế vô sản
Nhận thức và quan điểm về CNQTVS của Chủ tịch Hồ Chí Minh hết
sức phong phú, toàn diện và sâu sắc.
Một là, CNQTVS là sự kết hợp chặt chẽ cuộc đấu tranh vì độc lập, tự
do của dân tộc với nhiệm vụ của người cộng sản, người chiến sĩ quốc tế.
Cuối năm 1919, trên con đường bơn ba tìm đường cứu nước, Nguyễn
Ái Quốc đã tham gia tích cực vào Uỷ ban quốc tế III của Đảng Xã hội Pháp.
mục đích của uỷ ban này là vận động Đảng gia nhập Quốc tế III và bảo vệ
13
cách mạng Nga. Đây có thể coi là một mốc quan trọng đầu tiên phản ánh sự
chuyển biến trong tư tưởng và hành động của Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa
yêu nước đến CNXH khoa học, đánh dấu sự hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người, về đồn
kết dân tộc và đoàn kết quốc tế; về phương pháp cách mạng.
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Sơ thảo lần thứ nhất luận cương
về các vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin - người không những "là
một người u nước vĩ đại đã giải phóng đồng bào mình" [55, tr.126], mà cịn
quan tâm tới việc giải phóng tồn nhân loại, trước hết các dân tộc bị áp bức.
Từ đó, Nguyễn Ái Quốc đã "hồn tồn tin theo Lênin, tin theo quốc tế thứ ba"
[55, tr.127] và sớm hiểu rằng, đi theo Lênin, theo con đường QTVS "là con
đường giải phóng chúng ta" [55, tr.127].
Theo cách hiểu ban đầu của Nguyễn Ái Quốc, CNQTVS rất giản dị:
gắn cuộc đấu tranh giành độc lập và đấu tranh chống áp bức, bóc lột của dân
tộc mình với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của các dân tộc khác. Người
nói: "Tơi hiểu rõ một điều: Quốc tế III rất chú ý đến vấn đề giải phóng thuộc
địa…tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều
tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu" [33, tr.105]. Từ chỗ tin theo,
Nguyễn Ái Quốc cùng những người chủ trương gia nhập Quốc tế III tuyên bố
thành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế cộng sản và "từ phút ấy, Nguyễn Ái
Quốc trở thành người cộng sản, là một trong những người sáng lập Đảng
Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc đồng thời cũng là người cộng sản đầu tiên
của dân tộc Việt Nam" [33].
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Pháp
họp tại Mác - xây (12/1921), người nói:
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử của chủ nghĩa xã hội Pháp, một
đồng chí người bản xứ thực sự tham gia vào công việc của Đại hội.
Tôi cũng phải nói đó là dấu hiệu tốt, bởi vì điều đó xác nhận rằng, chỉ
có trong chủ nghĩa cộng sản người ta mới thấy tình hữu ái thực sự và
14
quyền bình đẳng, và cũng chỉ có chúng ta mới có thể thực hiện sự hồ
hợp và hạnh phúc ở chính quốc và ở các thuộc địa [37, tr.27].
Hai là, CNQTVS là sự đoàn kết quốc tế để chống lại giai cấp tư sản quốc tế.
Trong điều kiện đất nước cịn đang trong vịng nơ lệ, tinh thần đồn kết
quốc tế của Nguyễn Ái Quốc được thể hiện với việc tích cực hoạt động để xúc
tiến việc thành lập Hội liên hiệp thuộc địa. Đây là một tổ chức bao gồm hội
viên của nhiều nước thuộc địa: Angiêri, Ma - rốc, Tuynidi…mà người là uỷ
viên thường trực Ban chấp hành hội. Ngày 24/5/1922, Hội đồng nghiên cứu
vấn đề thuộc địa đã thông qua Tuyên ngôn của Hội liên hiệp thuộc địa do
Nguyễn Ái Quốc khởi thảo. Tuyên ngôn kết luận: "Đứng trước chủ nghĩa tư
bản và CNĐQ, quyền lợi chúng ta là thống nhất, các bạn hãy nhớ lời kêu gọi
của Các Mác: "Vơ sản tất cả các nước đồn kết lại" [37, tr.31].
Theo người, CNQTVS thể hiện tập trung ở chủ nghĩa cộng sản, vì "Chỉ
có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân
biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đồn kết ấm no trên
quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hồ bình, hạnh
phúc…lao động tất cả các nước đồn kết lại" [33].
Tại Hội nghị Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương, chúng ta phải giải
quyết hài hoà vấn đề chủ nghĩa quốc tế XHCN và lợi ích dân tộc của các nước
lớn XHCN và lợi ích dân tộc của các nước lớn đồng minh. Việc Việt Nam ký
Hiệp định Giơnevơ là xuất phát từ tương quan lực lượng, hiểu mối quan tâm
của các nước lớn XHCN muốn có hịa hỗn quốc tế để tập trung xây dựng
kinh tế và trước hết là duy trì đồn kết với Liên Xơ, Trung Quốc khi cách
mạng Việt Nam bước vào giai đoạn mới. Trước tình hình sự bất hồ giữa Liên
Xơ và Trung Quốc ngày càng gay gắt, ảnh hưởng tới việc đoàn kết các lực
lượng cách mạng thế giới chống đế quốc. Hồ Chí Minh nêu nguyên tắc:
Mục đích của ta là vì đồn kết. Vì đồn kết mà phải tranh đấu.
Tranh đấu để đồn kết chứ khơng phải nói xấu ai phải làm sao cho
trong Đảng và trong nhân dân giữ được lòng yêu mến và biết ơn các
15
nước anh em…, đó là thiên kinh định nghĩa, đồng thời không nên
coi sự bất đồng là chuyện lạ [34, tr.490].
Trước khi từ biệt thế giới này người còn căn dặn: "Tôi mong rằng Đảng
ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khơi phục lại khối đoàn kết
giữa các Đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa
Quốc tế vô sản, có lý, có tình" [35, tr.511].
Ba là, CNQTVS thể hiện ở sự ủng hộ, giúp đỡ cách mạng ở các nước khác.
Ngày 10/10/1923, tham dự Hội nghị lần thứ nhất Quốc tế nông dân tại
Matxcơva với tư cách đại biểu chính thức của nơng dân Đơng Dương. Người
nói: "Quốc tế của chúng ta chỉ trở thành quốc tế chân chính khi trong quốc tế
này có những người nơng dân phương Đông tham gia, đặc biệt là nông dân
các nước thuộc địa, những người bị áp bức và bóc lột tệ hại nhất" [35].
Người đặc biệt coi trọng việc ủng hộ cách mạng Trung Quốc và Ấn Độ,
hai quốc gia đông dân nhất nhì thế giới và rất gần gũi Việt Nam. Viết bài
phản đối cuộc xâm lược của đế quốc đối với Trung Quốc, Người chỉ rõ: "Can
thiệp vào Trung Hoa là trực tiếp tấn công giai cấp công nhân, vô sản thế giới
phải liên hiệp với công nhân Nga để đập tan cuộc tấn công của đế quốc và
khẩu hiệu hành động là: "hãy để yên giai cấp vô sản Trung Quốc, không được
đụng đến Trung Hoa" [55]. Rất quan tâm tới cách mạng ở các nước thuộc địa,
ngày 17/6/1924, dự Đại hội V Quốc tế cộng sản với tư cách là đại biểu tư vấn,
Người bổ xung vào lời kêu gọi của đại hội, nhấn mạnh trách nhiệm của vô sản
quốc tế trong việc giúp đỡ phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa: "Nếu
hiện nay nông dân vẫn cịn ở trong tình trạng tiêu cực thì nguyên nhân là vì họ
thiếu tổ chức, thiếu người lãnh đạo. Quốc tế cộng sản cần phải giúp đỡ họ để
tổ chức lại, cần phải cung cấp cán bộ lãnh đạo cho họ và chỉ cho họ con
đường đi tới cách mạng và giải phóng" [55].
Tháng 7/1925, Người được đồn chủ tịch Quốc tế nông dân quyết định
phân công phụ trách công tác vận động nông dân ở Trung Quốc và ở các nước
thuộc địa Đông Dương, Miến Điện, Xiêm, Đài Loan và quần đảo Philippin.
16
Không chỉ viết bài tuyên truyền, vận động ủng hộ cách mạng Trung Quốc,
Người còn trực tiếp tham gia cách mạng Trung Quốc với bí danh Hồ Quang
trong vai thiếu tá Bát lộ quân. Đặc biệt, Người rất coi trọng quan hệ giữa các
nước trên bán đảo Đông Dương. Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Đảng và Nhà nước ta đã thiết lập và không ngừng củng cố quan hệ với Lào và
Campuchia vừa nguyên tắc, vừa linh hoạt, phù hợp với tình hình mỗi nước và
theo đúng tinh thần quốc tế vơ sản.
Bốn là, CNQTVS cịn là việc giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa dân
tộc và quốc tế trong từng giai đoạn cách mạng của dân tộc.
Sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập, cuộc đấu tranh trong
nội bộ Quốc tế cộng sản và trong Đảng Cộng sản Đông Dương về các vấn đề
chiến lược, chiến thuật của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cũng
như trong phạm vi mỗi nước diễn ra hết sức gay gắt, quyết liệt. Với những
Đảng Cộng sản và công nhân các nước thuộc địa và phụ thuộc, những vấn đề
về quan hệ giữa yếu tố dân tộc và yếu tố quốc tế trong việc hoạch định chiến
lược và chiến thuật của mỗi Đảng là rất quan trọng, đảm bảo kỷ luật thép của
Quốc tế cộng sản, vừa linh hoạt trong vận dụng vào điều kiện cụ thể của từng
nước trong điều kiện phần lớn các Đảng cộng sản vừa mới ra đời, chưa có
kinh nghiệm chính trị và nghệ thuật đấu tranh. Giải quyết hài hòa mối quan hệ
giữa dân tộc và quốc tế. Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5/1945) khẳng định:
Đảng Cộng sản Đơng Dương "phải thi hàng đúng chính sách "dân tộc tự
quyết" cho dân tộc Đông Dương. Các dân tộc sống trên cõi Đông Dương tùy
theo ý muốn, tổ chức thành Liên bang Cộng hòa dân chủ hay đứng riêng
thành một dân tộc quốc gia tùy ý" [20, tr.113]. Bao biến cố đã xảy ra khi
Quốc tế Cộng sản tuyên bố tự giải tán (năm 1943). Thực tế lịch sử cho thấy rõ
việc giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế, đường lối mặt trận thống
nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh là hết sức đúng đắn và sáng tạo, là một trong
những di sản lý luận quý báu mà Người để lại cho chúng ta. Gắn mình với
phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế phát triển mạnh mẽ giữa hai cuộc
17
chiến tranh thế giới. Nguyễn Ái Quốc đã ý thức được các yếu tố quốc tế có ý
nghĩa quan trọng đối với cách mạng Việt Nam trong công cuộc giải phóng,
giành lại độc lập, tự do, cơm no, áo ấm cho dân tộc. Nhờ vậy, Chủ tịch Hồ
Chí Minh là hiện thân của sự kết hợp hài hòa giữa lãnh tụ Đảng Cộng sản
Việt Nam và người chiến sỹ tiêu biểu của phong trào cộng sản và công nhân,
phong trào giải phóng dân tộc.
1.1.3. Đảng Lao động Việt Nam - Đảng quốc tế vô sản
Hồ Chủ Tịch người sáng lập và lãnh đạo Đảng ta đã nêu một tấm
gương sáng sự kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước và CNQTVS, giữa lợi ích
dân tộc và lợi ích cách mạng thế giới. Người đã nói cần phải "kết hợp chặt
chẽ lịng yêu nước với tinh thần quốc tế vô sản trong cách mạng giải phóng
dân tộc cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa". Ngay từ khi thành lập
Đảng ta đã là một bộ phận của phong trào cộng sản quốc tế và cách mạng
Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Đảng ta đã đề ra
nhiệm vụ đồn kết với giai cấp vơ sản quốc tế, với cách mạng các nước thuộc
địa và nửa thuộc địa, coi đó là nhiệm vụ rất quan trọng có tính chất ngun
tắc, là một nhân tố quyết định thành công của cách mạng nước ta. Thực tiễn
đã khẳng định là mỗi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đồng thời cũng là
thắng lợi của cách mạng thế giới. Trải qua hơn nửa thế kỷ đấu tranh cách
mạng, Đảng ta đã chứng minh rằng chủ nghĩa yêu nước triệt để khơng thể nào
tách rời với CNQTVS. Do đó, từ ngày thành lập đến nay Đảng luôn luôn thể
hiện là đảng của CNQTVS.
Trước hết, đó là sự đúng đắn về đường lối cách mạng của Đảng, đường
lối của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong quá trình đấu tranh gian khổ và phức
tạp Đảng đã vững vàng về chính trị, đã giải quyết đúng đắn về đường lối cách
mạng trong nước cũng như đường lối quốc tế, đã kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa
yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Đồng chí Lê Duẩn đã nói: "Khơng có
tinh thần u nước chân chính, khơng thể có lập trường quốc tế đúng đắn.
Trái lại, khơng có lập trường quốc tế đúng đắn thì cũng khơng thể có được
18
một đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn" [76]. Đường lối của Đảng ta
đúng có nghĩa là Đảng ta khơng những có khả năng hiểu đúng tình hình cụ thể
về sự phát triển của nước ta mà còn nắm được khoa học Mác - Lênin, phân
tích đúng tình hình cụ thể và sự phát triển của thế giới và hiểu đúng các vấn
đề của phong trào cộng sản công nhân quốc tế. Cách mạng Việt Nam đã phải
đương đầu với nhiều tên đế quốc mạnh: hết Pháp đến Nhật, hết Nhật Pháp lại
đến Mỹ. Trong cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước, cách mạng Việt Nam
phải đấu tranh với lực lượng mạnh nhất của chủ nghĩa tư bản quốc tế một
cách lâu dài và nhiều mặt. Do chúng ta có đường lối chống Mỹ cứu nước
đúng nên khơng những đoàn kết được các lực lượng cách mạng trong nước
mà cịn đồn kết rộng rãi các lực lượng quốc tế trong điền kiện thế giới đang
có nhiều yếu tố phức tạp. Vì vậy, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước là thắng lợi của cuộc cách mạng nước ta, đồng thời cũng là thắng
lợi của ba dòng thác cách mạng, của lực lượng hịa bình trên thế giới.
Để có đường lối đúng và có sự chỉ đạo đúng, Đảng ta đã luôn độc lập,
tự chủ giải quyết những vấn đề đấu tranh cách mạng của nước mình, tự mình
tổ chức đấu tranh cách mạng bằng các lực lượng cách mạng của chính mình.
Đảng xuất phát từ những ngun lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin và
vận dụng một cách đúng đắn vào những điều kiện cụ thể của nước mình.
Nhìn lại những chặng đường cách mạng vừa qua, kể cả trong lý luận và
hoạt động thực tiễn, Đảng đã thể hiện được sự trong sáng của CNQTVS.
Trước hết là sự kiên trì giữ vững đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng. Sự
kiên trì đó biểu hiện ngay cả trong những lúc tình hình khó khăn nhất. Đó là
những lúc cách mạng nước ta phải đương đầu với lực lượng mạnh nhất của
chủ nghĩa tư bản là đế quốc Mỹ. Đó là những lúc mà trong phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế, trong hệ thống xã hội chủ nghĩa đang có sự bất đồng,
chia rẽ về đường lối. Nhưng trước những khó khăn ấy, Đảng đã đề ra đường lối
chống Mỹ cứu nước đúng đắn tạo được sức mạnh tổng hợp để giành thắng lợi
cho cách mạng. Vì thế chúng ta vừa tiến hành một cuộc chiến đấu lớn nhất trong
19
thời đại ngày nay, vừa góp phần bảo vệ và giữ vững hịa bình thế giới, tạo điều
kiện thuận lợi cho các nước xã hội chủ nghĩa tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã
hội và các dòng thác cách mạng khác tiếp tục phát triển.
Đảng ta là Đảng của CNQTVS còn thể hiện ở việc vừa triệt để làm tròn
nhiệm vụ cách mạng nước mình vừa ủng hộ tích cực phong trào cách mạng
thế giới. Ngay từ thời kỳ còn bí mật, Đảng ta là người đã kiên quyết và dũng
cảm ủng hộ nhà nước công nông đầu tiên. Những người cộng sản Việt Nam
đã coi Liên Xô là quê hương của CNXH, coi việc bảo vệ thành quả cách
mạng tháng Mười, ủng hộ Liên bang Xô Viết là nghĩa vụ quốc tế của mình.
Thực tiễn cách mạng gần nửa thế kỷ qua đã chứng minh rằng đường lối
cách mạng Việt Nam chẳng những đã đáp ứng đúng yêu cầu bức thiết của
nhân dân cả nước ta mà còn rất phù hợp với u cầu hịa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và CNXH là những yêu cầu cấp thiết nhất của nhân dân toàn thế
giới, đồng thời cũng là sự đóng góp tích cực vào cuộc đấu tranh chung của
nhân dân cách mạng thế giới.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã coi việc đồn kết với Liên Xơ là vấn đề
đường lối có tính ngun tắc và là một nhân tố quan trọng bảo đảm cho mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo
vệ chủ quyền dân tộc. Đồng chí Lê Duẩn đã nói: "Đi theo con đường của
Lênin, đồn kết và hợp tác với Liên Xô là đường lối bất di bất dịch của Đảng
và Nhà nước chúng ta". Sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa hai đảng, hai dân
tộc đã có lịch sử lâu dài trên một nửa thế kỷ và đã trở thành một truyền thống
quý báu. Đó cũng là một biểu tượng của sự đoàn kết và hợp tác đồng chí giữa
những nhà nước kiểu mới trong thời đại mới.
Sau cùng, Đảng ta là Đảng của chủ nghĩa quốc tế vơ sản là vì từ ngày ra
đời đến nay đã ln ln ra sức hoạt động góp phần đắc lực vào việc củng cố
và tăng cường khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên cơ sở chủ nghĩa Mác Lênin và CNQTVS có lý có tình. Đảng ta đã giữ vững đường lối độc lập tự
chủ và tranh thủ sự thống nhất lực lượng trong sự nghiệp đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc và bọn phản động quốc tế. Trong những tình hình khó khăn
20
nhất, Đảng ta vẫn kiên trì đường lối độc lập tự chủ đối với những vấn đề của
cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Đảng ta đã trung thành với
đường lối cách mạng, với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin đấu tranh
không mệt mỏi để khôi phục, tăng cường sự đoàn kết quốc tế, bảo vệ sự trong
sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Do đó, chúng ta đã giành được những thắng
lợi to lớn cho cách mạng Việt Nam, đã góp phần xứng đáng vào việc thống
nhất các lực lượng cách mạng thế giới.
CNQTVS đã trở thành quy luật khách quan của phong trào cộng sản và
CNQT. Nó là cơ sở cho mối quan hệ giữa các ĐCS và CNQT, giữa các nước
xã hội chủ nghĩa và các lực lượng cách mạng của thời đại. Vì thế điều quan
trọng để bảo đảm sự trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin và CNQTVS là
Đảng ta phải không ngừng giáo dục đảng viên và nhân dân ta thấm
nhuần những tính chất cách mạng trong sáng của Bác Hồ, tiếp tục
giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, kết hợp nhuần nhuyễn
chủ nghĩa yêu nước chân chính và CNQTVS chống mọi khuynh
hướng cơ hội chủ nghĩa và mọi biểu hiện chủ nghĩa dân tộc tư sản và
tiểu tư sản, giữ vững độc lập tự chủ, ra sức làm tốt nhiệm vụ đối với
dân tộc và làm tốt nghĩa vụ quốc tế đối với nhân dân các nước [24].
Chỉ có trên cơ sở đó chúng ta mới đóng góp phần xứng đáng của mình
để đồn kết với các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới nhằm thực
hiện những mục tiêu cách mạng của thời đại.
Đối với phong trào cộng sản quốc tế, chúng ta nguyện thực hiện lời Di
chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại: "Đảng ta sẽ ra sức hoạt động
góp phần đắc lực vào việc khơi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên
nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa quốc tế vơ sản có lý có tình"[59].
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Quan hệ Việt Nam - Liên Xô trước 1945
Liên Xô và Việt Nam tuy khoảng cách về địa lý hàng vạn dặm, nhưng
giữa hai dân tộc đã có những cuộc tiếp xúc với nhau từ rất sớm. Theo những
21
tài liệu do các nhà sử học Nga sưu tầm được cho biết vào năm 1862, một
chiếc tàu thuộc hạm đội Nga trên chuyến vòng quanh thế giới đã thả neo tại
vịnh Sài Gòn. Trong số những người trên tàu có nhà văn dân chủ Nga
Makhailơvich Xtanhuicơvich - người đã ghi lại ấn tượng, tình cảm tốt đẹp
trong hồi ký của mình về mảnh đất Nam Bộ của Việt Nam:
Người dân địa phương khi biết rằng con tàu lạ lẫm này tới đây với
mục đích hịa bình, đã tiếp đón những sứ giả của đất nước Nga xa
xôi với một tình cảm chân thành. Về phía mình, những người thủy
thủ Nga cũng đáp lại họ bằng một lịng cảm thơng sâu sắc với cuộc
sống và đấu tranh bi tráng của nhân dân Việt Nam chống lại bọn
thực dân ngoại quốc [38, tr.3].
Song chỉ đến khi cuộc cách mạng tháng Mười Nga thành cơng, nhân
dân Nga giành được chính quyền về tay mình thì tên gọi nước Nga Lênin, Xơ
Viết mới dần trở thành quen thuộc và thân thiết với những nhà yêu nước Việt
Nam và toàn thể nhân dân lao động Việt Nam. Cũng từ đây, mối quan hệ giữa
hai nước mới thường xuyên hơn và tình hữu nghị Liên Xô - Việt Nam đã
được nảy nở.
Thắng lợi của cách mạng tháng Mười và sự ra đời của nước Nga Xô
Viết đã mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử lồi người, cổ vũ mạnh mẽ phong
trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Như Chủ tịch Hồ
Chí Minh đánh giá: "Như ánh mặt trời chói lọi cách mạng tháng Mười chiếu
sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu người bị áp bức bóc lột
trên tồn thế giới" [48, tr.5].
Đối với cách mạng Việt Nam, những ảnh hưởng đầu tiên của cách
mạng tháng Mười đã tạo điều kiện cho sự phát triển ý thức cách mạng của
nhân dân, làm chuyển biến nhận thức của các nhà yêu nước về con đường giải
phóng dân tộc.
Thơng qua nguồn báo chí của chính quyền thuộc địa, những tin tức của
cách mạng tháng Mười đã đến với nhân dân Việt Nam. Thực chất của nguồn
22
báo chí này là tiến hành tuyên truyền chống cộng. Nhưng trớ trêu thay, nó trở
thành phản tuyên truyền, đã dẫn dắt những người Việt Nam yêu nước đến với
tư tưởng cách mạng tháng Mười Nga, đến với nước Nga Xô Viết. Báo Tương
lai Bắc kỳ ra ngày 17/9/1919 công nhận rằng, ở Việt Nam lúc đó đã có: "Một
số người - mà những người này lại là trí thức giả. Ni một mối cảm tình lạ
thường đối với chủ nghĩa Bơnsêvích" [30, tr.51].
Thật vậy, trong số các nhà cách mạng Việt Nam theo tư tưởng dân chủ
tư sản, Phan Bội Châu là một đại diện cho quá trình chuyển biến nhận thức về
con đường cứu nước giải phóng dân tộc theo tư tưởng cách mạng tháng Mười.
Trước cách mạng tháng Mười, con đường cứu nước của Phan Bội Châu là
trông chờ vào ngoại viện, cầu mong sự giúp đỡ của Nhật Bản. Đó là một hạn
chế lớn, một sự bế tắc trong con đường cứu nước của cụ, khiến nhiều khi cụ
hoang mang khơng biết tìm đường đi như thế nào để giải phóng dân tộc. Giữa
lúc Phan Bội Châu đang ở tình trạng bế tắc tuyện vọng ấy, cách mạng tháng
Mười Nga đã làm rung chuyển địa cầu, làm thức tỉnh cụ, khiến cụ rất cảm
động: "May thay đương lúc khói đục mây mù thì thình lình có một trận gió
xuân thổi tới, giữa lúc trời khuya đất ngủ thình lình có một tia thái dương mọc
ra trận gió xuân ấy, tức thái dương ấy là chủ nghĩa xã hội vậy" [25, tr.287].
Người có cơng lĩnh hội, truyền bá và áp dụng một cách linh hoạt chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng cách mạng tháng Mười và điều kiện cụ thể ở
Việt Nam là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Xuất phát từ tình cảm yêu nước nồng
nàn, thương yêu những người cùng cảnh ngộ trên thế giới, bằng "tình cảm tự
nhiên", Nguyễn Ái Quốc đến với cách mạng tháng Mười, với Lênin bằng tình
cảm chân thành, tự nhiên và sâu đậm. Người đã dẫn dắt, giáo dục nhân dân
Việt Nam đi theo con đường duy nhất đúng đắn cho sự nghiệp giải phóng dân
tộc, đặt nền móng đầu tiên và là kiến trúc sư xây đắp tình hữu nghị với nhân
dân Xô Viết.
Trải qua những năm tháng tìm đường cứu nước, năm 1919, Nguyễn
Ái Quốc gia nhập Đảng xã hội Pháp. Cũng trong năm này, Người đã cùng