Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

DHTHBK5Huynh Kim NganKTGHP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.83 KB, 4 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN TP. BIÊN HÒA
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI
–———()——–—

BÀI KIỂM TRA
GIỮA HỌC PHẦN
Tên : HUỲNH KIM NGÂN
Lớp : Đại học Tiểu học B – Khóa 5
Mơn : PPDH Tiếng Việt 1

Năm học : 2017 – 2018

1


BÀI KIỂM TRA GIỮA HỌC PHẦN
 Yêu cầu 1
- Khi em tham dự tiết dạy bài “ôn – ơn” trong phân môn Học vần Tiếng Việt lớp 1 em
nhận thấy tiết dạy này đã áp dụng được nguyên tắc phát triển tư duy. Cụ thể trong tiết dạy
ở phần dạy bài mới giáo viên cho học sinh phân tích, so sánh, đánh vần, đọc trơn vần mới
đồng thời giáo viên cũng cho học sinh phân tích, đánh vần, đọc trơn các tiếng khóa, từ
ứng dụng để rèn cho học sinh cách tư duy nhanh, chính xác và tích cực. Khi giáo viên
dạy bài này giáo viên cũng đã giải thích những tiếng khóa, từ ứng dụng để học sinh nắm
được ý nghĩa của từ. Giáo viên cũng tạo điều kiện thêm cho học sinh cho thêm một số từ
có chứa vần mình vừa mới được học. Giáo viên đưa ra thêm một số câu hỏi có liên quan
đến kiến thức của bài để học sinh có thể tư duy và vận dụng kiến thức vừa mới học để trả
lời câu hỏi.
- Khi em tham dự tiết dạy bài “Tính từ” trong phân môn Luyện từ và câu Tiếng Việt lớp 4
em nhận thấy tiết dạy này đã áp dụng được nguyên tắc giao tiếp. Cụ thể trong tiết dạy ở
hoạt động đầu tiên giáo viên tổ chức cho học sinh chơi trị chơi nhằm mục đích ơn bài cũ.
Sau đó giáo viên dạy bài mới, trong suốt quá trình dạy bài mới giáo viên dùng ngôn ngữ


để giao tiếp với học sinh bằng những câu hỏi mà giáo viên đặt ra cho học sinh trả lời
nhằm hình thành các kĩ năng nghe, nói, đọc cho các em. Trong suốt quá trình dạy giáo tổ
chức rất nhiều hoạt động để học sinh thảo luận nhóm và nói ra những điều mà các em
thảo luận cho các bạn còn lại nhận xét, cũng nhằm giúp cho các em hình thành được các
kĩ năng cơ bản là nghe, nói, đọc, viết.
- Khi em tham dự tiết dạy bài “uôn – ươn” trong phân môn Học vần Tiếng Việt lớp 1 em
nhận thấy tiết dạy này đã áp dụng được nguyên tắc chú ý đế tâm lí và trình độ Tiếng Việt
vốn có của học sinh. Cụ thể khi chuẩn bị dạy bài mới giáo viên cho học sinh chơi trị chơi
“Ơ số bí mật” nhằm mục đích kiểm tra bài cũ như cho học sinh đọc lại bài, ghi bảng con
để cho học sinh vừa chơi mà cũng vừa học. Khi dạy học sinh cách đánh vần giáo viên cho
học sinh đánh vần theo cách của các em trước sau đó giáo viên mới sửa lại để học sinh
phát âm đúng. Giáo viên ln tạo điều kiện cho học sinh phát huy tính chủ động và tích
cực của mình trong giờ học bằng các hình thức học tập khác nhau như thảo luận nhóm
đơi, nhóm bàn, cá nhân để trả lời các câu hỏi mà giáo viên đặt ra.
- Tiết dạy bài “Tính từ” trong phân môn Luyện từ và câu Tiếng Việt lớp 4 em nhận thấy
đây chưa phải là một giờ dạy tích cực. Vì ở hoạt động kiểm tra bài cũ giáo viên tổ chức
cho học sinh chơi trò chơi “Tơi bảo”, tuy khơng khí lớp học có sơi động, vui vẻ nhưng
hoạt động này chỉ có một vài em tham gia là đứng lên trả lời mà bạn điều khiển trò chơi
đưa ra chứ hầu như các bạn còn lại trong lớp thì khơng được tham gia.
- Tiết dạy bài “Vua tàu thủy Bạch Thái Bưởi” trong phân môn Tập đọc Tiếng Việt lớp 4
em nhận thấy đây chưa phải là một giờ dạy tích cực. Tuy là ở phần hoạt động kiểm tra bài
cũ giáo viên cho học sinh kiểm tra bài cũ bằng cách thảo luận nhóm đơi và ghi câu trả lời
vào giấy thì tất cả mọi học sinh đều được tham gia nhưng ở phần dạy bài mới thì giáo
2


-

viên có đặt một số câu hỏi cho học sinh trả lời nhưng giáo viên lại là người trả lời thay
cho học sinh, giáo viên không để cho học sinh là người tự sản sinh ra tri thức vì vậy cho

dù giờ học có vui vẻ, sinh động thì đây cũng khơng được gọi là một giờ dạy tích cực
được.
Tiết dạy bài “ôn – ơn” trong phân môn Học vần Tiếng Việt lớp 1 em nhận thấy đây chính
là một giờ dạy tích cực. Vì ở hoạt động kiểm tra bài cũ, giáo viên tổ chức cho học sinh
chơi trò chơi “Khu vườn” trong đó có một số câu hỏi giáo viên đưa ra và giáo viên yêu
cầu học sinh cả lớp viết vần “ăn – ân” vào bảng con, cho cả lớp đồng thanh đọc lại bài cũ,
như vậy trong hoạt động này cả lớp đều được tham gia. Tới hoạt động dạy bài mới khi
phân tích, so sánh, đánh vần, đọc trơn, ghép bảng cài vần; phân tích, đánh vần, đọc trơn
tiếng khóa, từ ứng dụng giáo viên đều để cho học sinh tự nói ra kiến thức, các bạn còn lại
nhận xét và giáo viên là người nhận xét và chốt kiến thức. Khơng khí của giờ học cũng
rất vui vẻ và thoải mái.

 Yêu cầu 2
- Khi em tham dự tiết dạy phân môn Tập đọc Tiếng Việt lớp 4 em thấy đa số các giáo viên
dạy khoảng 45 phút nhưng vẫn không gọi là “cháy giáo án”, em thắc mắc điều này ?
 Giáo viên nên phân bố thời gian giữa các hoạt động hợp lí hơn để trong vịng 35
phút có thể truyền tải hết kiến thức đến cho học sinh nhưng vẫn đảm bảo đúng
thời gian qui định.
- Trong tiết dạy bài “en – ên” trong phân môn Học vần Tiếng Việt lớp 1 ờ phần dặn dị,
giáo viên có cho học sinh đọc thêm một câu “các con về nhà nhớ làm bài tập nha”, em
thấy có một vài vần học sinh chưa được học thì sao học sinh có thể đọc được, em cũng
thấy lạ ở chỗ này ?
 Giáo viên khơng nên đưa cho học sinh đọc những câu có chứa vần chưa được học,
học sinh không đọc cũng như không hiểu được ý nghĩa của câu, giáo viên nên đưa
câu mà có chứa vần học sinh đã được học rồi để các em có thể đọc và hiểu được
nội dung của câu.
- Tiết Tập đọc Tiếng Việt lớp 4 bài “Có chí thì nên” ở hoạt động luyện đọc giáo viên chỉ
cho học sinh đọc hang dọc, nghĩa là chỉ có học sinh ngồi ở đầu bàn được đứng lên đọc
cịn những bạn khác thì khơng được luyện đọc, em cũng thắc mắc điều này ?
 Giáo viên nên cho học sinh luyện đọc bài theo nhóm đơi, giáo viên đi vịng quanh

lớp để kiểm tra, sau đó giáo viên mời đại diện một số nhóm đứng lên đọc bài và
giáo viên sửa nhũng chỗ các nhóm cịn đọc sai, như vậy các em đều được luyện
đọc chứ không phải chỉ có vài em.
- Tiết Chính tả Tiếng Việt lớp 4 bài “Nếu chúng mình có phép lạ” ở hoạt động tìm từ khó
giáo viên cho học sinh đọc bài sau đó yêu cầu học sinh lấy viết gạch chân dưới những từ
khó, sau đó cho học sinh đọc lai những tử đó rồi bắt đầu viết chính tả, em cũng thắc mắc
chỗ này ?
 Giáo viên nên cho học sinh thảo luận nhóm đơi để tìm ra từ khó, sau đó giáo viên
tổng hợp lại các từ đó, giáo viên có thể bổ sung thêm từ khó nếu học sinh chưa
3


-

tìm ra và cho các em gạch chân vào trong sách giáo khoa, rồi cho học sinh luyện
viết vào bảng con rồi mới bắt đầu cho hoc sinh viết chính tả. Như vậy học sinh tự
mình sẽ tìm ra từ khó mà học sinh cảm thấy sẽ viết sai để học sinh chú ý hơn và
sẽ viết đúng.
Trong tiết dạy bài “in – un” trong phân môn Học vần Tiếng Việt lớp 1, ở hoạt động luyện
nói về chủ đề “Nói lời xin lỗi”, giáo viên chỉ hỏi một vài học sinh như vậy chỉ có một vài
em tham gia vào hoạt động này cịn những em cịn lại thì khơng được nói lên suy nghĩ
của mình, em cũng thắc mắc điều này ?
 Giáo viên nên cho học sinh thảo luận theo nhóm đơi về chủ đề luyện nói, sau đó
mời đại diện một vài nhóm lên nói, cả lớp nhận xét rồi giáo viên mới hỏi cá nhân
từng học sinh. Như vậy cả lớp sẽ được tham gia và thảo luận về chủ đề này.

4




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×