BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
PHẠM TRẦN THÁI LY
HÌNH ẢNH DIỄN VIÊN ĐIỆN ẢNH HÀN QUỐC
TRÊN BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ VIỆT NAM
(Khảo sát báo mạng điện tử VnExpress.net, Vietnamnet.vn,
Thanhnien.com.vn năm 2013)
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUAN HỆ CÔNG CHÚNG
HÀ NỘI – 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
PHẠM TRẦN THÁI LY
HÌNH ẢNH DIỄN VIÊN ĐIỆN ẢNH HÀN QUỐC
TRÊN BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ VIỆT NAM
(Khảo sát báo mạng điện tử VnExpress.net, Vietnamnet.vn,
Thanhnien.com.vn năm 2013)
Chuyên ngành : Quan hệ công chúng
Mã số
: 60320108
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUAN HỆ CÔNG CHÚNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Nguyễn Thị Trường Giang
HÀ NỘI - 2014
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Q trình tồn cầu hóa vẫn đang diễn ra mạnh mẽ và tác động đến nhiều
quốc gia, vùng lãnh thổ…. Q trình tồn cầu hóa có thể nâng cao vị thế hoặc
ảnh hưởng đến sức mạnh của mỗi quốc gia nếu quốc gia đó biết vận dụng một
cách khoa học q trình này. Hàn Quốc là một trong số những quốc gia đã tận
dụng và phát huy được tối đa những gì mà tồn cầu hóa đem lại. Kỳ tích sơng
Hàn và Làn sóng văn hóa Hàn Quốc chính là những minh chứng rõ ràng nhất
cho việc Hàn Quốc đã sử dụng và phát huy được hiệu quả mà tồn cầu hóa đem
lại. Quả thật, Hàn Quốc của hơm nay khơng cịn như một “đống tro tàn đổ nát”
trong những năm 60 của thế kỷ XX mà đã vươn mình trở thành một trong bốn
“con rồng kinh tế Châu Á”. Hàn Quốc của hơm nay tự tin, năng động, tham
vọng, đầy tính cạnh tranh, nỗ lực không chỉ để bắt kịp thời đại mà còn để
hướng tới tương lai.
Ngày nay, khi nhắc tới Hàn Quốc người ta thường xuyên nhắc tới một
“Korea Wave” – làn sóng Hàn Quốc. Làn sóng Hàn Quốc với những bộ phim,
những nhóm nhạc thần tượng đã ngày càng vươn xa khỏi biên giới Hàn Quốc
và "phủ sóng" trên khắp các châu lục, từ Á sang Âu và mở rộng sang đến Mĩ,
Trung Đông và châu Phi. Thực tế cho thấy, sự phát triển lan tỏa rộng lớn của
làn sóng Hàn Quốc trên tồn cầu đã góp phần nâng cao và đưa hình ảnh về một
Hàn Quốc năng động về kinh tế, hấp dẫn về du lịch, giàu bản sắc về văn hóa. Hình
ảnh các khn mặt diễn viên điện ảnh Hàn Quốc tràn ngập các phương tiện truyền
thông ở tất cả các nơi mà cái gọi là “Korea Wave” phủ sóng.
Trong xu thế hội nhập và tham gia tích cực vào q trình tồn cầu hóa,
Việt Nam là quốc gia đầu tiên trong khu vực Đông Nam Á du nhập điện ảnh
Hàn Quốc ngay từ thời kỳ đầu của Hàn lưu. Phim Hàn Quốc du nhập vào Việt
Nam với những thước phim sâu lắng, lãng mạn về tình u đơi lứa, tình cảm
gia đình, quốc gia, dân tộc đậm chất Á Đông, nhạc phim tuyệt vời đã đem lại
cho khán giả những cảm xúc mới mẻ, những hương vị vừa quen vừa lạ. Đặc
biệt diễn viên Hàn Quốc rất xinh đẹp, phong cách ăn mặc rất thời trang, diễn
xuất tài tình, chạm được vào trái tim của khán giả khác hẳn với các cảnh bạo
lực, cơ bắp, gợi tình trong phim phương Tây, phim Trung Quốc. Chính vì vậy
phim Hàn Quốc và các diễn viên Hàn nhanh chóng chiếm một vị trí đáng kể
trên các phương tiện truyền thơng đại chúng trong nước và cũng chính từ đó mà
có được sự quan tâm và tình cảm của đơng đảo công chúng Việt Nam.
Ngược lại, diễn viên Hàn Quốc đã tạo ra một ma lực cuốn hút công
chúng ở mọi lứa tuổi, tạo ra những giá trị văn hóa Hàn tại Việt Nam trong thời
gian gần đây. Do đó sự xuất hiện của diễn viên Hàn Quốc ngày càng nhiều, tràn
ngập trên các website, tạp chí, báo mạng điện tử Việt Nam. Hầu như những bài
báo nào có liên quan đến diễn viên Hàn Quốc đều thu hút được lượng lớn truy
cập của cơng chúng và fan. Đây chính là động lực để các phương tiện truyền
thơng tích cực tăng tần xuất thời lượng phản ánh mọi mặt hoạt động của các
diễn viên xứ kim chi, nhất là các báo mạng điện tử nhằm tăng lượng cơng
chúng theo dõi thơng tin của mình, hay nói như cách của dân điện tử là nhằm
“câu like, câu view”…
Hình ảnh diễn viên Hàn Quốc xuất hiện thường rất đẹp, dù diễn viên Hàn
Quốc có mắc những sai lầm nhưng lại dễ dàng nhận được sự tha thứ và đồng
cảm của công chúng. Trong khi diễn viên Việt Nam mỗi lần có một hành động
khơng đúng thì nhanh chóng tạo thành một scandal, bị cơng chúng chỉ trích,
phê phán. Hình ảnh diễn viên Hàn Quốc trong lịng cơng chúng Việt có phải do
chính các diễn viên này dày cơng, tốn của để xây dựng hay do chính giới truyền
thơng trong nước vơ tình giúp họ xây dựng được hình ảnh đẹp. Có thể dự đốn
được ngay rằng hình ảnh đẹp và gần gũi với cơng chúng đến vậy không chỉ do
tác động từ các bộ phim gây sóng gió với cơng chúng Việt, nhất là giới trẻ mà
báo mạng điện tử cũng chính là hiệu ứng khiến diễn viên Hàn Quốc có thể tiếp
xúc gần hơn với khán giả của mình trong thời buổi cơng nghệ thơng tin bùng
nổ như hiện nay.
Trong khoảng thời gian gần đây, tác giả đã tiến hành khảo sát một số báo
mạng và các phương tiện truyền thông khác trên môi trường internet, sau một
số khảo sát và trải nghiệm thực tiễn, tác giả quyết định chọn vấn đề: “Hình
ảnh diễn viên điện ảnh Hàn Quốc trên báo mạng điện tử Việt Nam” để
nghiên cứu, tìm hiểu và lấy làm luận văn thạc sỹ quan hệ cơng chúng của mình.
Tuy nhiên vì thời gian nghiên cứu không cho phép nên chỉ giới hạn khảo sát ở
báo mạng điện tử VNExpress, VietNamNet, và Thanh niên Online năm 2013,
tránh dàn trải và hời hợt trong quá trình nghiên cứu để hy vọng tìm ra những
hiện tượng, sự tác động qua lại giữa những chủ thể dưới cách nhìn của một
người nghiên cứu của chuyên ngành quan hệ cơng chúng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Về ngành PR: Ngành PR là một ngành còn mới mẻ ở Việt nam.
Hoạt động PR chỉ mới du nhập vaò Việt Nam khoảng trên 20 năm, các công
trinh nghiên cứu , tài liệu về lĩnh vực PR ở nước ta cịn khiêm tốn. Có thể kể ra
một số cơng trình tiêu biểu sau đây :
- Giáo trình “PR – Lý luận và ứng dụng”,(2008) do PGS,TS. Đinh Thị
Thúy Hằng chủ biên được biên soạn từ cơng trình nghiên cứu khoa học cấp bộ
của tập thể cán bộ, giảng viên khoa Quan hệ công chúng, Học viện Báo chí &
Tun truyền đã nêu rõ vai trị của PR trong xây dựng thương hiệu doanh
nghiệp nói chung: “… hoạt động PR là yếu tố tác động tích cực tới việc quảng
bá thương hiệu với các chương trình hành động được thiết kế và hoạch định tỉ
mỉ, cẩn thận nhằm đạt được sự thừa nhận của công chúng và thông tin đến họ
những hoạt động và mục tiêu của doanh nghiệp. PR là một công cụ giao tiếp
rất linh hoạt trong lĩnh vực giao tiếp Marketing: bán hàng trực tiếp hoặc qua
điện thoại, các hoạt động tài trợ, từ thiện, triển lãm, các hoạt động mang tính
tuyên truyền, giáo dục nhận thức.”
- Cuốn “Quản trị xúc tiến thương mại trong xây dựng & phát triển
thương hiệu” của tác giả An Thị Thanh Nhàn, Lục Thị Thu Hường, giảng viên
trường đại học Thương Mại, Hà Nội được NXB Lao động Xã hội ấn hành năm
2010. Trong cuốn sách này, các tác giả đã tập trung vào một khía cạnh chủ đạo
trong xây dựng thương hiệu, đó là hoạt động truyền thơng thương hiệu. Đây là
những nỗ lực có vai trị trọng tâm trong việc xây dựng một hình ảnh nhất quán
và nổi bật, làm cho thương hiệu có đủ sức hấp dẫn đề chiếm lĩnh trái tim và
khối óc của khách hàng.
- Cuốn sách “Quy luật mới của PR và tiếp thị” do Nhà xuất bản trẻ phát
hành năm 2008 đã đưa ra những ví dụ tiêu biêu từ các chuyên gia đã xây dựng
các chương trình tiếp thị và PR thành công trên mạng Internet. Tác giả David
Meerman Scott cho rằng một số nguyên tắc về PR lâu nay đã trở nên lạc hậu.
Cách tốt nhất để ngườì đọc nhận biết nội dung một bản thơng cáo báo chí là khi
giới truyền thơng viết một câu chuyện về nó. Ơng khẳng định “Web đã thay đổi
luật chơi, và bạn cũng phải thay đổi chiến lược PR của mình để tận dụng tối đa
thị trường ý tưởng mà Web đã mang lại”
- Đáng chú ý là cuốn “Thương hiệu với nhà quản lý” của tác giả Nguyễn
Quốc Thịnh và Nguyễn Thành Trung, do NXB Lao động Xã hội ấn hành năm
2012. Trong cuốn sách, bằng những kinh nghiệm thực tế, tác giả đã đề cập tới
tầm quan trọng trong công tác quảng bá hình ảnh doanh nghệp cũng như những
nhận thức ngày càng tăng của cộng đồng Việt Nam trong vấn dề thương hiệu
và hình ảnh.
- Cuốn “Bí quyết thành cơng của những thương hiệu truyền thông hàng
đầu thế giới” của tác giả Mark Tungate do NXB Trẻ phát hành là một cuốn
cẩm nang quý giá đối với các cơ quan báo chí, các tập đồn truyền thơng.
Trong cuốn sách này, tác giả Mark Tunage đã đề cập đến những bí quyết xây
dựng thương hiệu thành cơng của các kênh truyền hình như CNN, BBC, các tờ
báo, tạp chí như The New York Times, Vogue, các hãng truyền thơng như
Reuters… khơng phải dưới góc độ của một chuyên gia kinh tế mà bằng cái nhìn
của một nhà báo. Tác giả đã phân tích và chỉ ra những chiến lược, công cụ xây
dựng thành công các thương hiệu truyền thơng hàng đâu thế giới, ngồi ra cuốn
sách còn đề cập đến những thách thức mà các thương hiệu này đang phải đối
mặt khi ra nhập xu thế tồn cầu hóa; cũng như các giải pháp, những chiến lược
tiếp thị nhằm duy trì hình ảnh trước sự tấn công mạnh mẽ của công nghệ hiện
đại khiến cho việc tiếp nhận thơng tin có xu hướng trở nên bão hòa.
- Tác giả Nguyễn Thị Kim Lương trong đề tài nghiên cứu “Biện pháp cơ
bản phát triển danh tiếng và quảng bá hình ảnh của Đại học Quốc gia Hà
Nội”, (2012), đã chỉ rõ cơ sở lý luận của phát triển danh tiếng, phân tích các
điểm mạnh, yếu trong việc xây dựng, quảng bá hình ảnh tại Đại học quốc gia
và đề xuất các biện pháp để phát triển danh tiếng và quảng bá hình ảnh của Đại
học Quốc gia Hà Nội.
- Luận văn thạc sĩ “Hoạt động quảng bá hình ảnh lực lượng Cơng an
nhân dân Việt Nam” của tác giả Chu Khánh Phương, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền. Trong luận văn của mình, tác giả đã tiến hành khảo sát thực
trạng hoạt động quảng bá hình ảnh lực lượng công an nhân dân Việt Nam trên
một số phương tiện truyền thông đại chúng của Bộ Công an. Từ đó, tác giả đưa
ra những định hướng về mặt giải pháp nhằm quảng bá hình ảnh lực lượng cơng
an nhân dân Việt Nam một cách có hiệu quả.
2.2. Trong lĩnh vực nghiên cứu về văn hóa Hàn Quốc, các cơng trình
nghiên cứu, nhiều cuộc hội thảo khoa học, bài báo đề cập đến làn sóng văn hóa
Hàn Quốc trên các phương tiện thơng tin đại chúng. Có thể kể đến một số cơng
trình như:
- Luận văn thạc sĩ “Ảnh hưởng của Làn sóng văn hóa Hàn Quốc tới văn
hóa tiêu dùng của giới trẻ Việt Nam” của tác giả Phan Thị Oanh, khoa Văn hóa
học, Học Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Trong luận văn của mình, tác giả đã
nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của Làn sóng văn hóa Hàn Quốc
tại Việt Nam, những ảnh hưởng của nó tới văn hóa tiêu dùng của giới trẻ Việt
Nam và tập trung phân tích những nguyên nhân khiến người Việt Nam đặc biệt
là giới trẻ lại yêu thích những sản phẩm của Hàn Quốc đến vậy.
- Tác giả Phan Thị Thu Hiền đã thực hiện cuộc khảo sát được tiến hành từ
giữa tháng 4 đến giữa tháng 5 năm 2012 đối với 1.114 học sinh, sinh viên được
lựa chọn ngẫu nhiên từ 14 trường ở thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Đà Lạt,
Kiên Giang, Nha Trang và đăng tải kết quả “Sự tiếp nhận và ảnh hưởng của
Làn sóng văn hóa Hàn Quốc trong giới trẻ Việt Nam hiện nay (Qua khảo sát ý
kiến học sinh, sinh viên)” trên Tạp chí Hàn Quốc, (9/2012). Bài viết đã phân
tích những vấn đề: mơ hình tiếp nhận Hàn lưu trong học sinh, sinh viên Việt
Nam; tác động, ảnh hưởng của Hàn lưu đến đời sống của học sinh sinh viên; sự
đáp ứng với Hàn lưu và bản lĩnh của học sinh sinh viên Việt Nam trong xử lý
mối tương quan giữa ảnh hưởng ngoại nhập (Hàn lưu) và việc giữ gìn, phát huy
truyền thống, bản sắc dân tộc (Việt Nam).
- “Sự tiếp nhận văn hóa Hàn Quốc của các bạn trẻ Việt Nam hiện nay”
của Hà Thanh Vân đăng trên Chuyên san Khoa học Xã hội & Nhân văn,
Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, Đại học Quốc gia thành phố Hồ
Chí Minh, 12/2012. Thơng qua một cuộc điều tra xã hội học văn hóa trên 600
đối tượng là công chúng trẻ tuổi Việt Nam trong độ tuổi từ 15 đến 30, sống ở
12 tỉnh thành trong cả nước, bài viết đề cập tới thực trạng ảnh hưởng của văn
hóa, vấn đề thay đổi trong thị hiếu văn hóa của cơng chúng trẻ theo xu hướng
Hàn Quốc hóa, cũng như tính chất của q trình tiếp nhận văn hóa Hàn Quốc ở
thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay.
- Năm 2013, thạc sĩ Phan Thị Oanh đã nghiên cứu đề tài “Điện ảnh
trong làn sóng văn hóa Hàn Quốc và ảnh hưởng của nó tới giới trẻ Việt Nam”
– đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở của Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á. Đề
tài này đã phân tích, làm rõ vai trị của điện ảnh trong Làn sóng văn hóa Hàn
Quốc như những yếu tố tạo nên vai trò tiên phong của điện ảnh Hàn Quốc;
những lợi ích từ điện ảnh trong Làn sóng văn hóa Hàn Quốc và chỉ ra những
ảnh hưởng tích cực, tiêu cực của điện ảnh Hàn Quốc tới giới trẻ Việt Nam.
Các cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập đến các vấn đề lý luận cơ bản
và một số trường hợp trong hoạt động PR hình ảnh và những nhận định về văn
hóa Hàn Quốc cũng như ảnh hưởng của văn hóa, phim ảnh Hàn Quốc đến đời
sống xã hội Việt Nam nhưng chưa có cơng trình nào nghiên cứu, khảo sát sự
xâm nhập, xây dựng hình ảnh và ảnh hưởng của diễn viên điện ảnh Hàn Quốc
đến Việt Nam dưới góc độ của truyền thơng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích của đề tài là: Liên quan đến truyền thơng, quảng bá hình ảnh,
xây dựng hình ảnh, tác giả sẽ phân tích thực trạng hình ảnh diễn viên điện ảnh
Hàn Quốc trên báo mạng điện tử Việt Nam trong năm 2013 để đề xuất một số
giải pháp và kiến nghị nhằm cải thiện hình ảnh diễn viên điện ảnh trên báo
mạng điện tử Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích đã đề ra, đề tài tập trung vào những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài như: hình ảnh, diễn
viên điện ảnh, xây dựng hình ảnh, báo điện tử và hoạt động của báo điện tử.
- Khảo sát phân tích thực trạng hình ảnh diễn viên điện ảnh Hàn Quốc
trên 3 báo mạng điện tử lớn nhất tại Việt Nam trong năm 2013.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng và cải thiện hình ảnh diễn
viên điện ảnh Hàn Quốc trên báo mạng điện tử Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Hình ảnh diễn viên điện ảnh Hàn
Quốc trên báo mạng điện tử Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ luận văn, tác giả tập trung nghiên cứu khảo sát trên 3
tờ báo mạng điện tử VnExpress, VietNamNet, Thanh Niên Online trong năm
2013. Tác giả lựa chọn 3 tờ báo trên để khảo sát vì:
- VnExpress và VietNamNet là hai tờ báo điện tử độc lập.
- Thanh Niên Online là một sản phẩm của báo in Thanh Niên – một tờ
báo ngày.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
5.1. Phương pháp luận:
- Đề tài dựa trên cơ sở lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về hình ảnh và báo chí.
- Luật Báo chí
- Ngồi ra đề tài cịn lấy cơ sở lý luận về báo chí, công chúng, quan hệ
công chúng, lý thuyết truyền thông làm nền tảng để đánh giá hình ảnh diễn viên
điện ảnh Hàn Quốc trên báo mạng điện tử Việt Nam.
- Các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về định hướng xây
dựng văn hóa Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
Quá trình nghiên cứu thực hiện luận văn, tác giả sử dụng các phương
pháp cụ thể sau:
- Phương pháp nghiên cứu văn bản; thống kê, phân tích các bài viết,
chương trình, chuyên trang, chuyên mục về hình ảnh diễn viên điện ảnh Hàn
Quốc trên báo mạng điện tử Việt Nam.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: phỏng vấn các phóng viên, biên tập viên
viết bài, thực hiện các chương trình, chun trang, chun mục giải trí để tìm
hiểu thực trạng các tin bài về hình ảnh diễn viên điện ảnh Hàn Quốc được đăng
trên các báo mạng điện tử, tìm ra những đánh giá khách quan về vai trị của các
diễn viên điện ảnh trên báo mạng điện tử trong thời gian qua, đồng thời những
yêu cầu đối với báo chí thời gian tới.
- Phương pháp phỏng vấn sâu một số cơng chúng thường xun theo dõi
các chương trình, chuyên trang, chuyên mục về hình ảnh diễn viên điện ảnh
Hàn Quốc để tìm hiểu về tâm tư, suy nghĩ, đánh giá khách quan về hình ảnh và
vai trị của hình ảnh diễn viên điện ảnh Hàn Quốc trên báo mạng điện tử Việt
Nam trong thời gian qua.
6. Ý nghĩa lý luận và giá trị thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn sẽ là một cơng trình nghiên cứu nghiêm túc, có hệ thống về lý
luận của vấn đề hình ảnh diễn viên điện ảnh Hàn Quốc trên báo điện tử Việt
Nam dưới cách nhìn của một người được đào tạo chuyên sâu về quan hệ công
chúng và quảng cáo. Đây sẽ là một trong những cơ sở lý luận mới cho các
nghiên cứu chuyên sâu trong tương lai.
Tổng quan có chọn lọc những vấn đề lý luận, phương pháp luận về quan
hệ công chúng trong hoạt động xây dựng hình ảnh nói chung, hình ảnh cá nhân
nói riêng. Trên cơ sở đó vận dụng vào việc nghiên cứu cụ thể hoạt động xây
dựng hình ảnh diễn viên điện ảnh Hàn Quốc. Đồng thời có thể làm tài liệu tham
khảo về quan hệ công chúng trong lĩnh vực xây dựng hình ảnh.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài là kết quả tham khảo phục vụ cho việc
nghiên cứu lý luận cũng như đề xuất những giải pháp trong thực tiễn xung
quanh vấn đề ảnh hưởng của văn hóa Hàn Quốc đến giới trẻ Việt Nam thơng
qua điện ảnh.
Tác giả hy vọng cơng trình nghiên cứu của mình sẽ góp phần giúp các
nhà quản lý tham khảo đưa ra những quyết định đúng hướng, hợp quy luật
trong lĩnh vực điện ảnh nói chung, xây dựng hình ảnh cá nhân trên báo mạng
điện tử nói riêng.
7. Kết cấu luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo
và phụ lục, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về hình ảnh diễn viên điện ảnh trên
báo mạng điện tử
Chương 2: Thực trạng hình ảnh diễn viên điện ảnh Hàn Quốc trên báo
mạng điện tử Việt Nam
Chương 3: Những bài học kinh nghiệm và những kiến nghị cải thiện hình
ảnh diễn viên điện ảnh trên báo mạng điện tử Việt Nam
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HÌNH ẢNH DIỄN VIÊN
ĐIỆN ẢNH TRÊN BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ
1.1. Khái niệm
1.1.1. Quảng bá
Cho đến nay, thuật ngữ “quảng bá” được nhắc đến nhiều trên các phương
tiện truyền thông đại chúng, các tài liệu nghiên cứu gắn liền với quảng bá hình
ảnh, quảng bá thương hiệu; song vẫn chưa có một định nghĩa cụ thể, thống nhất
về quảng bá. Quảng bá là một từ Hán Việt được ghép từ chữ “quảng” có nghĩa
là rộng lớn và từ “bá” có nghĩa là làm lan rộng. Vì vậy, ta có thể hiểu quảng bá
có nghĩa là tuyên truyền rộng rãi.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì “Quảng bá là phổ biến rộng rãi bằng các
phương tiện thông tin”. Quảng bá cũng được hiểu là “những hoạt động nhằm
tạo ra hoặc thúc đẩy lợi ích, lợi nhuận cho một cá nhân, một sản phẩm, một tổ
chức”.
Jane Johnston và Clara Zawawi, hai nhà nghiên cứu PR người Australia
đã đưa ra khái niệm quảng bá như sau: “Quảng bá (promotion) là những hoạt
động nhằm tạo ra hoặc thúc đẩy lợi ích, lợi nhuận cho một cá nhân, một sản
phẩm hay một tổ chức”.
Vậy ta có thể hiểu quảng bá hình ảnh một cá nhân hay của một diễn viên
điện ảnh chính là việc tạo ra hình ảnh và thơng tin tích cực của cá nhân, diễn
viên đó với mục đích giới thiệu rộng rãi, tạo ảnh hưởng có lợi trong cơng chúng
mục tiêu.
Vì là một lĩnh vực trong tạo dựng và quảng bá hình ảnh nên quảng bá
hình ảnh cá nhân chắc chắn sẽ mang những đặc điểm điển hình của quảng bá
nói chung nhưng ở quy mơ cá nhân. Lúc này nó đóng vai trị phát triển hình
ảnh của một cá nhân, của diễn viên điện ảnh thơng qua các hoạt động truyền
thơng.
Hình ảnh cá nhân phải luôn gắn liền với thực tế của cá nhân đó, khơng
thể tạo ra những hình ảnh giả tạo, che giấu sự thật trong thời đại công nghệ
thông tin và thế giới hội nhập với tính cơng khai, minh bạch ngày càng cao.
Một hình ảnh cá nhân hay một hình ảnh diễn viên điện ảnh chỉ có thể tồn tại lâu
dài khi nó phản ánh chân thực những giá trị của cá nhân đó như ngoại hình,
tính cách, học thức, tài năng, cách đối nhân xử thế, vị thế…
Như vậy có thể hiểu quảng bá hình ảnh diễn viên điện ảnh là phổ biến
rộng rãi các thông tin cần thiết, nổi bật và đặc trưng nhất của diễn viên đó, là
những hoạt động nhằm tạo ra hoặc thúc đẩy niềm tin và những ấn tượng của
công chúng lưu giữ mà diễn viên đó mong muốn.
1.1.2. Hình ảnh
Thuật ngữ “hình ảnh” có nguồn gốc từ tiếng Latin “Imago” và có quan
hệ mật thiết với một từ Latin khác là “Imatari” – dùng để chỉ sự mơ phỏng,
phịng theo.
Theo cuốn Đại từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên tái bản
năm 2010, giải thích: “Hình ảnh là hình của người hoặc vật được biểu hiện
bằng đường nét cụ thể hoặc bằng ấn tượng sâu sắc trong trí nhớ”. [38, tr.703]
Theo từ điển Tiếng Việt do Giáo sư Hoàng Phê làm chủ biên, của Viện
ngôn ngữ học tái bản 2010 đã giải thích khái niệm: “Hình ảnh là hình người,
vật, cảnh tượng thu được bằng khí cụ quang học như máy ảnh hoặc để lại ấn
tượng nhất định và tái hiện được trong trí óc, là khả năng gợi tả sống động
trong cách diễn đạt”. [27, tr.605]
Trong triết học, “hình ảnh” được coi là kết quả của sự phản ánh khách
thể, đối tượng vào ý thức của con người. Ở trình độ cảm tính, hình ảnh là
những cảm giác, tri giác và biểu tượng. Ở trình độ tư duy, đó là những khái
niệm, phán đoán và suy luận. Về mặt nguồn gốc, hình ảnh là khách quan, về
cách nhận thức tồn tại, hình ảnh là chủ quan. Hình thức thể hiện vật chất của
hình ảnh là các hành động thực tiễn, ngơn ngữ, các mơ hình kí hiệu khác nhau.
Theo Oxford Advanced Learner Dictionary, hình ảnh là ấn tượng mà một
người, một tổ chức hay một sản phẩm… đem lại cho công chúng. (The
impression that a person, an organization or a product, ect, gives to the public).
Xét về góc độ của cơng việc tạo dựng hình ảnh thì hình ảnh là nghệ thuật
mơ phỏng và mơ tả hình dáng bên ngồi của một đối tượng hoặc một con
người. Đó là sự hình dung về con người, đồ vật hay một tổ chức được hình
thành trong nhận thức cơng chúng với sự giúp đỡ của các chuyên gia quan hệ
công chúng, quảng cáo hoặc tuyên truyền.
Theo luận văn này, hình ảnh được hiểu là chân dung, diện mạo, hình
dáng, tính cách, cách ứng xử, là tồn bộ mọi khía cạnh của cá nhân. Hình ảnh
đó là kết quả của những gì cá nhân đã nói, đã làm, và là những gì mà người
khác nói về cá nhân đó và được lưu giữ trong tâm trí của cơng chúng.
Hình ảnh đóng vai trị quan trọng và hữu hiệu trong việc tạo dựng thiện
cảm ban đầu bởi những tính chất sau đây:
Thứ nhất, hình ảnh là kênh cung cấp nhiều thông tin cho người nhận,
không cần phải dịch ra các thứ tiếng khác nhau.
Bằng kênh thông tin này có thể chuyển một lượng thơng tin lớn hơn
nhiều so với tưởng tượng. Nếu nội dung thông điệp cung cấp 7% thơng tin thì
những đặc điểm về giọng nói là 38%, diện mạo của một người cung cấp lượng
thơng tin tối đa là 55%.
Thứ hai, hình ảnh là kênh thông tin cô đọng, được người xem ghi nhớ
tốt hơn.
Khi xem ti vi, khán giả chỉ ghi nhớ 10% lượng thơng tin bằng lời nói
trong khi đó lượng thông tin quan sát bằng mắt đạt đến 34%. Trong ma trận
thông tin hàng ngày, con người không đủ sức tiếp nhận tất cả mọi thông tin mà
thường bị thu hút bởi những hình ảnh bắt đầu một cách ấn tượng, từ đó mà
người ta có sự quan tâm, để ý đến những thơng tin liên quan; nói cách khác,
thơng tin được truyền qua thị giác và dần được lưu giữ, củng cố trong bộ não.
Ví dụ như hình ảnh về đất nước tươi đẹp, về một công ty phát đạt, về một vị
lãnh đạo tài ba, một thầy giáo tốt bụng, một nữ diễn viên Hàn Quốc trẻ trung,
xinh đẹp…
Việc điều chỉnh hình ảnh trong nhiều trường hợp là việc thay thế những
đặc điểm thị giác (hoặc những đặc điểm khác) khơng bản chất thành những đặc
điểm mang tính quan trọng hơn theo cách nhìn nhận của một hình ảnh nào đó.
Thứ ba, hình ảnh là kênh thơng tin có tác động ngồi tầm kiểm sốt của
ý thức.
Sự tác động đến công chúng phải được thực hiện bằng nhiều cách. Cùng
một thông điệp cần phải được đưa tới cơng chúng theo tất cả các cách có thể,
trong đó chủ đạo là kênh ngơn ngữ và kênh hình ảnh. Nếu kênh ngôn ngữ tác
động đến con người bằng lý trí nên chúng sẽ khiến những tấm kính lọc hồi
nghi của người nhận thơng tin hoạt động nhiều hơn thì những gì được hình ảnh
hóa tác động lại nằm ngồi tầm kiểm sốt của ý thức. Những người nhận thơng
tin theo đó sẽ tự dựng lại toàn bộ bức tranh mà họ đã được nhìn thấy. Họ sẽ coi
những kết luận nhận được là kết quả suy đốn riêng của mình. Thêm vào đó,
thơng tin ở cấp độ phi ngôn ngữ sẽ dễ dàng đi vào lịng người hơn.
Thứ tư, hình ảnh là kênh thông tin đáng tin cậy.
Thông tin truyền qua kênh hình ảnh là những thơng tin đáng tin cậy, điều
này có liên quan tới đặc điểm mang tính tâm lí đơn thuần khi cho rằng những gì
chúng ta nhìn thấy đều là thực. Vì thế niềm tin của khán giả đối với hình ảnh
trên truyền hình hoặc các phương tiện truyền thơng tích hợp video tăng lên.
Thứ năm, hình ảnh là bức tranh thu nhỏ về con người trong xã hội.
Chúng ta cố gắng thể hiện bản thân mình ở phương diện tốt đẹp nhất khi
nhấn mạnh những đặc điểm này hay đặc điểm khác của cá nhân. Chúng ta làm
điều đó một cách vơ thức, đặc biệt là trong những tình huống như khi lần đầu
làm quen với một người mà ta mong họ có tình cảm với mình. Một nhà nghiên
cứu đã từng khẳng định: Hình ảnh của cá nhân bạn là bức tranh nhỏ về bạn, ảnh
của mình giống như quảng cáo.
Trong tạo dựng hình ảnh, có một ngun tắc nhất qn. Đó là hình ảnh
phải được tạo dựng từ những cái có sẵn, tức là khơng thể nhào nặn hay tạo ra
một hình ảnh khơng có thật. Hình ảnh phải mang những đặc điểm mà đối tượng
thực sự có, phù hợp với khả năng, vị thế và đặc điểm của đối tượng.
1.1.3. Diễn viên điện ảnh
Diễn viên là người hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật, họ hóa thân vào
các nhân vật trong các bộ phim, kịch sân khấu và các chương trình nghệ thuật
khác nhau cho nhà hát, xưởng phim, đài phát thanh – truyền hình và các
phương tiện truyền thơng khác. Bằng ngơn ngữ cơ thể, cử chỉ, giọng điệu,
gương mặt… họ biến những nhân vật tưởng tượng trong kịch bản thành con
người thật, đầy sống động trong tác phẩm kịch, điện ảnh, truyền thanh. [3]
Các nhà phê bình điện ảnh thường đề cao vai trò chủ thể bộ phim là đạo
diễn hay nhà sản xuất. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, đối với công chúng,
diễn viên mới là chủ thể, trung tâm của mỗi bộ phim. Lý ho đầu tiên lôi kéo
được họ đến rạp là bộ phim có diễn viên họ yêu thích, kế đến là đề tài của bộ
phim và đạo diễn chỉ là yếu tố thứ ba.
Hiện nay, trong giới nghệ thuật, nghề diễn viên được chia thành nhiều
nhóm khác nhau: diễn viên sân khấu, diễn viên đóng thế, diễn viên võ thuật,
diễn viên hài, diễn viên truyền hình, diễn viên lồng tiếng, người kể chuyện,
diễn viên múa, diễn viên xiếc, diễn viên tạp kĩ… Tuy nhiên trong phạm vi đề
tài nghiên cứu khóa luận, tác giả luận văn xin chỉ đề cập đến khái niệm diễn
viên điện ảnh.
Có thể hiểu một cách đơn giản, diễn viên điện ảnh là người hóa thân vào
các nhân vật qua các vai diễn trong mỗi bộ phim họ đảm nhận. Nói cách khác,
bằng tồn bộ cơ thể, giọng nói, điệu bộ, cử chỉ, trí tuệ và tâm hồn mình, họ biến
những “con người” trên giấy trong kịch bản phim thành những con người thực
sự, sống động trên qua màn ảnh nhỏ.
Theo Trương Mạn Ngọc (diễn viên điện ảnh Hồng Kong): “Người diễn
viên hồn tồn có thể khám phá mình bằng nhiều kiểu khác nhau. Mỗi nhân vật
là một cánh cửa mà người viên cần phải mở.”
Các diễn viên điện ảnh không bắt chước mà họ hoạt động lao động nghệ
thuật sáng tạo để thể hiện đúng bản chất và chuyển tải được nội tâm của nhân
vật bằng chính khả năng diễn xuất của người diễn viên.
Diễn viên điện ảnh là một diễn viên hóa thân thành một nhân vật theo
kịch bản, diễn xuất sao cho truyền tâm tư và cảm xúc của nhân vật đến được
với công chúng; làm việc cộng tác với đạo diễn, bạn diễn, các đạo cụ để tạo
nên một tác phẩm nghệ thuật, là một bộ phim.
Các nhà phê bình điện ảnh thường nói đến vai trò chủ thể bộ phim của
đạo diễn hay nhà sản xuất. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, đối với công
chúng, diễn viên mới là chủ thể, trung tâm của mỗi bộ phim. Lý do đầu tiên kéo
họ đến rạp là bộ phim có diễn viên họ u thích, kế đến là đề tài của phim và
đạo diễn chỉ là lý do thứ ba.
Trong luận văn này, hình ảnh diễn viên điện ảnh là sự tổng hợp của
nhiều yếu tố, không phải đơn phương do các diễn viên điện ảnh tạo ra, xây
dựng nên mà có, mà hình ảnh diễn viên điện ảnh cịn được hình thành trong
tâm trí, tình cảm của công chúng, của cơ quan quản lý nhà nước, của đồng
nghiệp, của báo chí,… thơng qua sự quan sát, cảm nhận của công chúng về các
hoạt động của diễn viên điện ảnh đó. Như vậy, một diễn viên điện ảnh dù
khơng hay có xây dựng hình ảnh cho mình cũng vẫn có một hình ảnh nào đó
trong lịng cơng chúng, và dù muốn hay khơng muốn thì hình ảnh diễn viên
điện ảnh vẫn có thể là tích cực hoặc tiêu cực. Tuy nhiên, diễn viên điện ảnh có
thể điều chỉnh cách đánh giá, thái độ và tình cảm của cơng chúng đối với mình
bằng cách xây dựng hình ảnh cho bản thân mình.
1.1.4. Báo mạng điện tử
Cách đây hơn một thập kỷ, báo mạng điện tử còn là một thuật ngữ khá lạ
lẫm ở Việt Nam. Dù vậy, với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ,
báo mạng điện tử ngày càng được nhiều người biết đến và sử dụng như một
phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần.
Mặc dù “sinh sau đẻ muộn” so với các loại hình báo chí lâu đời khác
nhưng sự ra đời của báo mạng điện tử đã mở ra một cuộc cách mạng về thông
tin, thực sự mang lại diện mạo mới cho nền báo chí hiện đại. Tại Việt Nam, dù
mới phát triển nhưng báo mạng điện tử đã nhanh chóng phát triển về số lượng,
chất lượng và ngày càng khẳng định được vị trí của mình trong đời sống báo
chí, đời sống xã hội của đất nước, tạo nên một mạng thơng tin báo chí điện tử
sơi động, có sức thu hút hàng triệu lượt người truy cập hàng ngày.
Cho đến nay người ta đã đưa ra những tên gọi khác nhau để chỉ loại hình
báo chí trên mạng Internet như: Báo trực tuyến (Online Newspaper), báo chí
Internet (Internet Newspaper), báo mạng (Cyber Newspaper), báo điện tử
(Electronic Journal)… Tuy nhiên ở nước ta hiện nay, thuật ngữ được sử dụng
rộng rãi hơn cả là Báo mạng điện tử, đây là một sự kết hợp các tên gọi có nội
dung riêng biệt như báo – mạng – điện tử, dùng để chỉ loại hình báo chí được
xây dựng dưới hình thức một trang web và được phát hành trên mạng Internet.
Theo Điều 3, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí 1989,
số 12/1999, QH10 ngày 12/6/1999 quy định: “Báo điện tử là loại hình báo chí
thực hiện trên mạng thơng tin máy tính”. Theo đó, các trang thông tin điện tử
chỉ được gọi là báo điện tử khi đã được Bộ Thông tin và Truyền thông Việt
Nam cấp “Giấy phép hoạt động báo điện tử”.
Năm 2011, Học viện Báo chí và Tuyên truyền xuất bản cuốn sách “Báo
mạng điện tử - Những vấn đề cơ bản” do TS. Nguyễn Thị Trường Giang chủ
biên đã sử dụng thuật ngữ “Báo mạng điện tử” để nghiên cứu, với những lý do:
[14, tr. 52]
- Thuật nghữ “Báo mạng điện tử” khẳng định loại hình báo chí mới này là
con đẻ của sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin, hoạt động
được nhờ các phương tiện kỹ thuật tiên tiến, số hóa, các máy tính nối
mạng và các server, phần mềm ứng dụng.
- Nó cho phép hiểu một các chính xác về bản chất, đặc trưng của loại hình
báo chí này: tính đa phương tiện, tính tương tác cao, tính tức thời, phi
định kỳ, khả năng truyền tải thông tin không hạn chế, với các lưu trữ
thông tin dưới dạng dữ liệu siêu văn bản, khả năng siêu liên kết – các
trang báo được tổ chức thành từng lớp, có cơ chế “nở” ra với số trang
không hạn chế.
- Tên gọi này chỉ rõ người làm báo và người đọc báo đểu phải có trình độ
nhất định.
- Đây là sự kết hợp các tên gọi có nội dung riêng biệt như: báo, mạng, điện
tử. Chính vì vậy tên gọi này thỏa mãn được các yếu tố Việt hóa, đặc
trưng khu biệt của loại hình báo chí mới, khắc phục được sự “thiếu” về
nghĩa, sự máy móc của từ ngoại lai.
Về vấn đề này PGS.TS Đức Dũng, trong cuốn “Báo chí và đào tạo báo
chí” đưa ra cách hiểu: “Báo mạng điện tử là một loại hình báo chí được sinh ra
từ sự phát triển vượt bậc về khoa học công nghệ thông tin, hoạt động được nhờ
các phương tiện kỹ thuật tiên tiến, số hóa, các máy tính nối mạng và các server,
các phần mềm ứng dụng… ” [10, tr.220]
Cùng với đó PGS.TS Nguyễn Đức Dũng trích dẫn quan niệm của tiến sĩ
báo chí Mark Dueze về loại hình báo mạng điện tử như sau:
Báo mạng điện tử là hình thức báo chí kế thứ tư sau báo in, báo nói, báo
hình nhưng lại có những đặc điểm khác hẳn so với các loại hình báo chí truyền
thống. Báo mạng điện tử sử dụng công nghệ cao như một nhân tố quyết định.
Các phóng viên báo mạng điện tử phải lựa chọn phương tiện nào là tốt nhất để
đăng một câu chuyện (tính đa phương tiện), phải đặt ra một khơng gian, một
đường dẫn để tạo ra sự tương tác giữa tác phẩm và cơng chúng (tính tương tác
cao), phải cân nhắc để kết nối, đồng thời mở rộng những câu chuyện, đưa
người đọc từ không gian này đến không gian khác (tính siêu văn bản). [10,
tr.221]
Mặc dù cịn nhiều ý kiến khác nhau về việc định danh và khái niệm,
nhưng để tạo sự thống nhất trong quá trình nghiên cứu của luận văn này, tác giả
sử dụng thuật ngữ báo mạng điện tử để nghiên cứu. Vậy “Báo mạng điện tử là
một loại hình báo chí được xây dựng dưới hình thức của một trang web và phát
hành trên mạng Internet.” [14, 53]
Báo mạng điện tử khác với báo giấy là nó được cập nhật thường xuyên
hơn, nhanh hơn và mới hơn. Nó khác với trang thông tin điện tử về tần suất cập
nhật, nguồn gốc và độ tin cậy của thông tin, số người thường xuyên truy cập.
Hiện nay báo mạng điện tử ở Việt Nam rất phong phú và được chia
thành hai dạng. Thứ nhất là các tờ báo mạng điện tử hình thành và phát triển
độc lập, không phải là phiên bản của báo in: Vnepress.net,Vietnamnet.vn,
Dantri.com, Vnmedia, Vietnamplus… Loại thứ hai là báo mạng điện tử ra đời
được coi như là một phiên bản của báo in như: Thanh niên Online,
tuoitreonline, tienphongonline, Lao động điện tử…
Báo mạng điện tử có các đặc điểm chính: là của một tổ chức chính trị, xã
hội nhất định, được cấp phép hoạt động. Có thể sử dụng tích hợp các loại hình
báo chí khác để truyền tải thông tin đến công chúng. Hoạt động của một tờ báo
mạng điện tử phải tuân theo luật Báo chí và được coi là hoạt động chính trị,
phục vụ cơng tác tư tưởng, lợi ích của Tổ quốc, nhân dân.
Đặc trưng của báo mạng điện tử
Nhiều nghiên cứu đều thống nhất nhận định, báo mạng điện tử sở hữu
một số đặc điểm ưu việt như tích hợp đa phương tiện trên một trang báo, có thể
xuất bản nhanh chóng tức thời mọi lúc, mọi nơi, có lượng đăng tải và lưu trữ
gần như vơ hạn, có tính tương tác – xã hội hóa cao, khả năng cá thể hóa tốt.
Trong cuốn sách chuyên khảo “Báo mạng điện tử – Những vấn đề cơ bản”, TS.
Nguyễn Thị Trường Giang đã thâu tóm các đặc điểm này về 4 đặc trưng cơ
bản: 1 – Tính đa phương tiện, 2 – Tính tức thời và phi định kỳ, 3 – Tính tương
tác, 4 – Khả năng lưu trữ và tìm kiếm thơng tin.
Khả năng đa phương tiện trên báo mạng điện tử là việc sử dụng nhiều
loại phương tiện (ngôn ngữ văn tự và phi văn tự) để thực hiện và tạo nên một
sản phẩm báo chí. Một sản phẩm báo chí được coi là sản phẩm đa phương tiện
khi nó tích hợp nhiều trong số các phương tiện truyền tải thông tin sau: văn bản
(text), hình ảnh tĩnh (still image), hình ảnh động (animation), đồ họa (graphic),
âm thanh (audio), video và các chương trình tương tác (interactive program).
[14, 106]
Tính tức thời và tính phi định kỳ là một trong những ưu điểm lớn nhất
của báo mạng điện tử so với báo in, phát thanh và truyền hình. Trên các loại
hình báo in, phát thanh, truyền hình, thơng tin thường có tính định kỳ: ở báo in
thường có các tờ nhật báo/tuần báo, số báo mới nhất được phát hành vào các
buổi sáng của mỗi ngày/cuối tuần; trên sóng phát thanh, truyền hình thơng tin
được phân bổ trong những khoảng thời gian ấn định – giờ này phát chương
trình này, giờ khác phát chương trình khác. Đơi khi trên sóng phát thanh,
truyền hình cũng có thể thực hiện truyền sóng trực tiếp; nhưng đó hầu như là
các sự kiện, chương trình đã được dự báo và chuẩn bị kỹ từ trước. Lịch phát
sóng trên phát thanh, truyền hình ngày nay có thể đã được ấn định và thơng báo
trước vài tuần – 1 tháng. Đối với báo in, việc cập nhật thông tin lập tức gần như
là bất khả thi; một số rất ít tịa soạn có nỗ lực xuất bản “báo buổi chiều” – và dù
thế nào cũng khơng thể nhanh chóng, tức thời như báo mạng điện tử.
Trong khi đó, báo mạng điện tử có tính phi định kỳ - thông tin được cập
nhật một cách liên tục, trải dài trong suốt 24h; thậm chí là ngay khi sự kiện vừa
mới xảy ra/đang diễn ra. Ngày nay, sự phát triển chóng mặt của cơng nghệ giúp
cho thời gian giữa khâu sáng tạo tác phẩm với xuất bản tác phẩm càng được rút
ngắn. Nhà báo có thể sử dụng máy tính xách tay, thiết bị kết nối Internet lưu
động, thậm chí điện thoại di động thơng minh, máy tính bảng… để tác nghiệp
và gửi bài về tịa soạn hoặc trực tiếp đăng tải thơng tin. Chính vì thế, thơng tin
trên báo mạng điện tử có thể sống động, nóng hổi đến từng giờ, từng phút,
thậm chí là từng giây. Người ta gọi báo mạng điện tử là báo giờ bởi khả năng
cập nhật thông tin kịp thời của nó.
Tính tương tác là đặc trưng quan trọng của phương tiện truyền thơng
mới, nó liên quan nhiều đến trao đổi đa chiều giữa các cá nhân hoặc giữa các
thành viên trong một cộng đồng, chứ không chỉ dừng lại ở sự trao đổi giữa nhà
báo với một tập hợp đại chúng phân tán và “vô danh”. Công chúng được đặt
vào vị trí trung tâm và các nhà quản lý truyền thông đặt mục tiêu thỏa mãn
công chúng nhiều hơn, đề cao việc thu hút sự tham gia của công chúng, hơn là
chỉ chú ý cung cấp nội dung có giá trị thơng tin.
Tính tương tác của báo mạng điện tử được Tiến sĩ Nguyễn Thị Thoa
nhận định trên 3 góc độ:
- Tương tác có định hướng: là sự định vị trên các văn bản, như các nút
“xem tiếp”, “trở về đầu trang”… Điều này giúp cho công chúng chủ
động và dễ dàng di chuyển trong một trang báo hay giữa các trang báo
với nhau.
- Tương tác chức năng: là sự linh hoạt của các đường dẫn cho phép người
đọc khả năng tham chiếu tới nội dung khác.
Có thể thấy, một bài viết trên báo mạng có thể tạo các đường dẫn liên kết
(link) với những bào báo khác, tạo nên một hệ thống thơng tin có tính xun
suốt, dài kỳ, thuận tiện cho độc giả trong việc theo dõi. So sánh với báo in, có
thể thấy tính liên kết bị hạn chế hơn rất nhiều. Nếu một bài báo có nhiều kỳ và
người đọc bị bỏ lỡ một kỳ báo nào thì có thể sẽ khơng hiểu thơng tin một cách
xuyên suốt, trọn vẹn và phải mất công để có thể thu thập, đọc lại nội dung đã bị
bỏ lỡ. Như vậy, so với các loại hình báo chí khác thì báo mạng điện tử có lợi
thế về việc cung cấp thông tin một cách hệ thống.
- Tương tác tùy biến: là tính thơng minh của các cơng cụ cá nhân (hộp thư
điện tử) cho phép báo mạng điện tử tự thích ứng để đón tiếp cơng chúng,
nhận sự phản hồi về tin bài, về tác giả bài báo, về hình thức tờ báo… và
nhanh chóng trả lời họ.
Khả năng lưu trữ và tìm kiếm thơng tin trên báo mạng điện tử gần như
là vô biên. Báo mạng điện tử là một kho lưu trữ thông tin, dữ liệu khổng lồ, gần
như là không giới hạn, tạo điều kiện thuận lợi cho người sử dụng tra cứu, tìm
hiểu. Nhờ đó, báo mạng điện tử đem đến cho bạn đọc sự chủ động về chọn
cách tiếp nhận thông tin, nội dung thông tin, thời gian tiếp cận… chỉ bằng một
cú “click” chuột. Mọi tin bài được xuất bản trong quá khứ, hiện tại, hay tương
lai đều được lưu trữ tại cơ sở dữ liệu khổng lồ của tòa soạn; cho phép độc giả,
tác giả tìm kiếm và tra cứu bất cứ lúc nào chỉ qua vài lần nhấn chuột. Mặc dù
cả báo in, phát thanh và truyền hình đều có khả năng lưu trữ thơng tin nhưng
việc tìm kiếm thơng tin cũ khơng hề đơn giản, địi hỏi nhiều cơng sức và chi
phí khơng nhỏ. Cịn với truyền hình và phát thanh, việc tra cứu và xem lại các
chương trình đã phát cịn khó khăn và bất tiện hơn rất nhiều. Vì hiện nay mặc
dù nhiều chương trình được nhà đài phát lại nhưng người xem luộn bị động về
tiếp nhận thơng tin, về thời gian phát sóng…
Trên mỗi trang báo mạng điện tử hiện nay đều cung cấp một hoặc tích
hợp các chức năng tìm kiếm chính sau [14, 144]:
- Tìm kiếm theo chủ đề, chun mục (chính trị, xã hội, văn hóa, thể
thao…).
- Tìm kiếm theo từ khóa.
- Tìm kiếm theo ngày tháng.
1.2. Đặc điểm và vai trị của hình ảnh diễn viên điện ảnh trên báo
mạng điện tử
1.2.1. Đặc điểm diễn viên điện ảnh
Điện ảnh là nghệ thuật tái hiện những câu chuyện của cuộc sống bằng âm
thanh, hình ảnh. Nếu kịch bản được đánh giá là yếu tổ tiên quyết để quyết định
tới chất lượng của bộ phim thì diễn viên điện ảnh cũng đóng vai trị khơng kém
phần quan trọng trong việc biến kịch bản thành một tác phẩm nghệ thuật sống
động. Vì vậy có thể nói diễn viên điện ảnh là người thổi linh hồn cho kịch bản,
biến hóa từ “con người” trên giấy thành người thực qua màn ảnh.
Thứ nhất, diễn viên điện ảnh có niềm đam mê và tình u bất tận với
nghề. Họ thích được đứng trước ống kính, thử vai và hóa thân trở thành những
con người khác nhau trong mỗi tác phẩm.
Thứ hai, diễn viên điện ảnh đều là người của công chúng. Thông qua các
vai diễn trong các bộ phim hoặc hoạt động nghệ thuật khác, họ có được sự quý
mến từ các fan.
Thứ ba, diễn viên điện ảnh là người có khả năng diễn xuất tốt, tự tin
trước ống kính, hóa thân vào các nhân vật trong kịch bản. Có thể nói một diễn
viên điện ảnh giống như một ảo thuật gia, họ có thể biến hóa từ một cơ gái sinh
ra trong một gia đình nghèo khổ trở thành một thiên kim tiểu thư đài các của
gia đình q tộc… Họ có khả năng nhập tâm, hóa thân vào nhân vật trong kịch
bản để diễn, để lay động trái tim người xem.
Thứ tư, diễn viên điện ảnh là người có khả năng thấu hiểu tâm tư, tình
cảm, suy nghĩ của mọi đối tượng trong cuộc sống: giàu hay nghèo, cán bộ công
chức hay người lao động chân tay… để có thể diễn lại đúng nhất về nhân vật
trong vai diễn mà họ đảm nhận. Diễn viên điện ảnh là người có vốn hiểu biết
sâu rộng về phong tục, tập quán, văn hóa, xã hội… của con người được nhắc
tới trong kịch bản phim. Mỗi một chi tiết nhỏ trong phim đều đòi hỏi người
diễn viên phải hiểu biết tường tận, để chi tiết đưa vào được “đắt” mà không bị
“non”. Chẳng hạn, để làm một bộ phim về cuộc sống của người dân vùng ven
chài, diễn viên phải thông hiểu không chỉ những vấn đề tâm lí mà phải hiểu rõ
cả nếp sinh hoạt, ngơn ngữ địa phương của vùng đó.
Thứ năm, diễn viên điện ảnh là người có năng lực sáng tạo tuyệt vời, có
khả năng giao tiếp tốt và linh hoạt, chủ động trong mọi tình huống.
Thứ sáu, diễn viên điện ảnh là người có sức khỏe tốt, có thể làm việc với
cường độ cao, áp lực lớn. Bởi, đối với họ khơng có khung giờ làm việc cụ thể.
Đơi lúc có cảnh quay đêm, cảnh quay lúc trời gần sáng…hoặc đôi khi vào
những vai khó phải diễn đi diễn lại nhiều lần mới đạt theo đúng yêu cầu của
đạo diễn.
1.2.2. Vai trị của hình ảnh diễn viên điện ảnh trên báo mạng điện tử
1.2.2.1. Vài nét về diễn viên điện ảnh Hàn Quốc
Với đặc tính mơi trường nghề nghiệp, tính chất công việc, các diễn viên
điện ảnh được đông đảo công chúng biết đến với hình ảnh các nhân vật trong
“thế giới ảo” – thế giới phim ảnh qua màn ảnh nhỏ nhưng phản ánh đúng bản
chất hoặc một khía cạnh nào đó của cuộc sống thực tại.
Làm nên thành cơng của phim Hàn là những tên tuổi diễn viên khả ái.
Hầu hết việc tuyển chọn diễn viên ở Hàn rất khắt khe, trước hết phải là ngoại
hình bắt mắt, sau đó mới đến diễn xuất. Chính vì vậy mà lớp diễn viên trẻ của
Hàn Quốc ai cũng mang nét đẹp lý tưởng, từ ánh mắt đến dáng người, từ khoé
môi đến làn da. Lợi thế đó góp phần khơng nhỏ đánh trúng vào thị hiếu người
xem: vốn thích chiêm ngưỡng cái đẹp. Song nếu chỉ ngoại hình đẹp thì diễn
viên Hàn sao có thể đứng vững trong lịng người hâm mộ.
Bề ngồi chỉ là một yếu tố làm địn bẩy cho thành cơng, cốt lõi nhất – cái
trục chính của đòn bẩy – phải là diễn xuất. Diễn viên Hàn Quốc được đào tạo
bài bản trong nước, bên cạnh đó cịn có hàng trăm sinh viên sang Mỹ học các
khoa của điện ảnh ở các cấp độ cơ bản, cao học, đỉnh cao. Chính vì vậy, xem
phim Hàn, người ta như thấy diễn viên đang diễn tả chính cuộc đời của họ vậy.
Họ vui, khóc, giận, thương với một tình cảm chân thực, điều mà lớp diễn viên
trẻ Việt Nam phải học tập nhiều.
Đặc biệt, họ ln tìm kiếm cái mới với sự năng động của tuổi trẻ luôn
muốn thử sức mình ở những vai diễn khác nhau, tránh việc gị mình vào một
tp người đơn nhất. Người ta khơng chỉ thấy diễn viên Hàn đóng phim hiện
đại rất hay mà cịn thấy sự hóa thân tài tình trong những phim cổ trang - vốn
đòi hỏi rất khắt khe. Diễn viên đóng phim cổ trang khơng chỉ cần ngoại hình
đặc sắc, đẹp những nét đẹp cổ điển mà phải có vóc dáng cao sang, quyền quý
cộng với diễn xuất sắc sảo và khả năng nói theo ngơn ngữ ngày xưa. Nhưng
dám đối mặt với thách thức, các diễn viên Hàn Quốc đã thử sức mình trong
những thước phim cổ trang dài tập, đưa đến cho khán giả hết ngạc nhiên này
đến ngạc nhiên khác. Một So Ji Sub “nóng như lửa” và yêu cháy bỏng trong
“Giày thuỷ tinh” lại cũng là một chàng tướng quân đẹp trai, dũng cảm, có trái
tim chung tình trong “Thiên niên chí ái”. Một Kim Hyun Soo đầy nữ tính và
bản lĩnh trong “Giày thuỷ tinh” khi bước vào “Trương Thuỷ Bình” lại là một
Kim Hyun Soo táo bạo, sắc sảo và có những “bước tiến gợi cảm” mà từ trước
đến nay luôn bị bản thân cô tránh né. Một Bae Young Joon lãng mạn, hào hoa
trong những câu chuyện tình yêu đương đại, bỗng chốc hóa thân thành một
thanh niên phong lưu thời Choson. Làm sao ta có thể quên được một Lee
Young Ae nhân ái, dịu dàng và rất bản lĩnh trong “Nàng Dae Jang Kum”. Còn
rất nhiều những gương mặt nữa đã tạo nên một “kỳ tích” điện ảnh sáng lạn như
ngày hôm nay.
Điểm nổi bật của điện ảnh Hàn Quốc là dàn diễn viên trẻ đẹp, năng động
và cống hiến hết mình cho nghệ thuật. Họ ln tỏ ra tâm huyết với vai diễn. Có
những ngơi sao lớn sẵn sàng xuất hiện trong những vai phụ chỉ kéo dài nửa
giây như Kim Hye Soo và Kim Min Jong trong “Tuổi dậy thì” (Changes, 1997)
miễn là gặp được kịch bản hay.
Các diễn viên Hàn Quốc hầu hết đều nằm trong danh sách những ngôi
sao Hàn lưu với đầy đủ các tiêu chí cần thiết của một nghệ sĩ đa năng, đa tài:
xinh đẹp, nổi tiếng, hát hay, nhảy giỏi, diễn xuất tốt, độ phủ sóng rộng khắp và
họ chính là những yếu tố đảm bảo quan trọng làm nên thành công của bộ phim.
1.2.2.2. Vai trị của hình ảnh diễn viên điện ảnh nói chung
Diễn viên điện ảnh là những người nổi tiếng, được nhiều người biết đến.
Thông qua các nhân vật phong phim, họ là sứ giả của văn hóa, đưa văn hóa của
các vùng miền đến với nhau, xích lại gần nhau, đưa của các dân tộc đến gần
nhau hơn. Cho nên nói một cách khác, trong điện ảnh, diễn viên điện ảnh như
một biểu tượng để gắn kết văn hóa các vùng miền, các dân tộc, các đất nước lại
với nhau.
Ngồi ra diễn viên điện ảnh là ngơi sao, thần tượng của nhiều fan hâm
mộ nên họ dễ dàng trở thành những tấm gương tốt, nơi để cho giới trẻ nhìn vào
ngưỡng mộ, học theo. Chính vì thế nên hình ảnh của các diễn viên điện ảnh khi
được đăng tải trên báo mạng điện tử có một sức ảnh hưởng rất lớn và độ lan tỏa
rất nhanh. Với những cám dỗ, thói hư tật xấu đầy rẫy và dễ lây nhiễm như hiện
nay, rất cần những tấm gương sáng, tốt để cho giới trẻ noi theo mà học tập.
1.2.2.3. Vai trị của hình ảnh diễn viên điện ảnh Hàn Quốc
Chỉ gần hai thập niên trở lại đây, điện ảnh Hàn Quốc đã làm nên cuộc
chiếm ngơi ngoạn mục, xâm nhập, thậm chí là thống trị màn ảnh nhỏ tại nhiều
quốc gia Châu Á. Hàng chục các bộ phim điện ảnh, phìm truyền hình như: Anh
em nhà Bác sĩ (Medical brother, 1997), Thần Y Hơ Jun (Heo Jun, 1999 –
2000), Trái tim mùa thu (Autumn in my heart, 2000), Cô nàng ngổ ngáo (My
sassy girl, 2001), Bản tình ca mùa đơng (Winter sonata, 2002), Nấc thang lên
thiên đường (Stairway to heaven, 2003), Nàng Dae Jang Geum (Dae Janggeum, 2003), Ngôi nhà hạnh phúc (Full house, 2004), Chuyện tình Havard
(Love story in Havard, 2004), Tuyết tháng tư (April snow, 2005)…. với những
diễn viên thuộc thế hệ đầu của Hàn lưu như: Jang Dong Gun, Bae Yong Joon,
Lee Hyung Hwa, Woon Bin, Kwong Sang Woo, Kim Hee Soon, Lee Yong-Ae,
Kim Tae Hee… nhanh chóng trở nên quen thuộc với khán giả Châu Á, đặc biệt
tại các nước khu vực Đông Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan và Đông
Nam Á như Thái Lan, Việt Nam… Ngay tại Mỹ, kinh đô điện ảnh thế giới –
địa vị độc ton của Hollywood cũng bị “lung lay” và điện ảnh Hàn đã đặt được
một chân vào thị trường vốn khó tính này. Sự thâm nhập của điện ảnh Hàn
cũng như tên tuổi, hình ảnh của các diễn viên điện ảnh Hàn Quốc vào thị
trường thế giới từng bước được khẳng định, vị trí cũng như vai trị của nó là sứ
giả trong việc quảng bá, truyền tải thông điệp về đất nước con người, văn hóa
dân tộc.
Bí quyết thành cơng của phim điện ảnh Hàn Quốc là nền văn hóa – vũ
khí mềm của Hàn Quốc tạo sự ảnh hưởng tới các quốc gia khác, được gói trọn
trong nội dung nhưng lại được thể bằng nhiều phương tiện và kĩ thuật hiện đại,
đội ngũ diễn viên có khả năng diễn xuất tài tình và ngoại hình bắt mắt thu hút
nhiều cơng chúng. Hay có thể nói phim điện ảnh chính là một cơng cụ “xuất
khẩu văn hóa” của Hàn Quốc.
Diễn viên Hàn Quốc cùng với điện ảnh Hàn Quốc đã khiến thế giới chú ý
đến Hàn Quốc. Công chúng được tiếp cận qua phim ảnh, đọc các bài báo mạng
điện tử và biết đến nền văn hóa ẩm thực truyền thống đặc sắc của xứ sở Kim
Chi cũng như những bộ đồ Hanbok truyền thống đã khơng cịn xa lạ nữa. Diễn
viên luôn là một kênh quảng bá, tuyên truyền tốt nhất. Thông qua những tin bài
đăng tải chi tiết về hình ảnh, phong cách sống, hoạt động đời thường (như họ
ăn gì, mặc gì, làm gì, đi đâu…) của các diễn viên Hàn Quốc xinh đẹp, tài giỏi,
công chúng và những fan hâm mộ có thể bị tác động đến lối sống, bị ảnh hưởng
cả “gu” thời trang, cách ăn mặc, phong cách làm đẹp. Từ đó tạo nên một trào
lưu thời trang, ẩm thực và phong cách Hàn, tạo nên một ấn tượng Hàn Quốc,
làm thay đổi cách nhìn của thế giới về đất nước này.
Từ Châu Á tới Châu Âu qua Địa Trung Hải lan tới Châu Phi, điện ảnh đã
đưa làn sóng Hàn Quốc vươn ra bên ngoài biên giới nước này một cách mạnh
mẽ, ngoạn mục, thuyết phục được tất cả mọi người bằng sức mạnh văn hóa.
Văn hóa Hàn Quốc, truyền thống lẫn hiện đại, con người và đất nước này đều
được các diễn viên diễn xuất đậm nét trong các bộ phim. Những diễn viên Hàn
Quốc nổi tiếng, được nhiều người biết đến, họ chính là sứ giả của văn hóa, đưa
văn hóa của các vùng miền đến với nhau rất gần, đưa các quốc gia xích lại với
nhau. Cho nên hình ảnh của họ nói một cách khác trong điện ảnh nó như một
biểu tượng để gắn kết văn hóa các vùng miền, các dân tộc, quốc gia với nhau.
Có thể nói hình ảnh diễn viên điện ảnh Hàn Quốc trên báo mạng điện tử
là một công cụ hữu hiệu nhất để truyền bá văn hóa. Hầu hết những bộ phim
Hàn Quốc được trình chiếu trên màn ảnh của chúng ta, nét văn hóa trong đời
sống sinh hoạt hàng ngày của người Hàn Quốc được khai thác khá sâu, Đó là
mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, dịng tộc, quan hệ giữa đồng
nghiệp với nhau, làng xóm với những tình huống rất thực, rất đời thường.
Không chỉ thế, những các đối nhân xử thế đó, những hoạt động đời thường đó
cịn được các diễn viên nổi tiếng sử dụng hàng ngày, được các phóng viên đưa
tin và được ghi nhận lại qua các bài viết. Chính vì thế nó càng có ảnh hưởng và
ăn sâu vào tiềm thức của người đọc.
Một điển hình của sự ảnh hưởng đó là văn hóa ẩm thực. Qua phim ảnh,
các nhà làm phim đã xây dựng lên một bữa tiệc ẩm thực đầy đủ tinh hoa của
đất nước Hàn Quốc. Trong nhiều bộ phim, nét văn hóa này được thể hiện rất rõ
thơng qua sinh hoạt thường ngày với những chi tiết như nhân vật làm kim chi,
chăm sóc nhau bằng những món ăn truyền thống, nấu canh rong biển trong
ngày sinh nhật… Trên các trang báo mạng điện tử đăng tin về diễn viên Hàn,
khi đề cập đến sở thích, thói quen và các hoạt động hàng ngày cũng đều nhắc
đến một trong những món ăn điển hình của Hàn Quốc. Chính vì thế, với những
người thích xem phim Hàn và yêu thích diễn viên Hàn Quốc đều biết đến
Tteokbokki (bánh gạo), hay Jajangmyeo (mì đen), canh rong biển, kim chi củ
cải… dù thực tế chưa từng đặt chân tới đất nước xinh đẹp này. Và đến giờ thì
khơng nhất thiết phải đến Hàn Quốc mà cơng chúng u thích có thể thưởng