Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Học thuyết về tồn tại trong triết học êpiquya

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.97 MB, 99 trang )

HOC VIEN CHINH TRI - HANH CHINH

QUOC GIA HO CHI MINH

VIEN KHOA HOC XA HOI VIET NAM

VIEN TRIET HOC

HOC VIEN BAO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYEN

DINH VAN HOANG

HOC THUYET VE TON TAI TRONG TRIET HOC
EPIQUYA
Chuyên ngành: Triết học

Mã số

: 60 22 80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. Đặng Hữu Toàn

Hà Nội - 2012


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghên cứu của riêng tôi được thực
hiện dưới sự hướng dẫn của PGS. TS. Đặng Hữu Toàn.
Các kết quả của luận văn chưa được cơng bố trong các cơng trình nào


ye.

khác.

|
Các số liệu,

tài liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực, khách

quan vả có nguồn gốc rõ ràng.
Tơi hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung của đề tài.
Hà Nội, Ngày 14

tháng 05 năm 2012

PX

sả

Tác giả luận văn

Đỉnh Văn

Hoàng


MUC LUC
MO DAU... .cccccccccscescscsscscecseseescscsscsssessssecsceecsssscassassstevsceeessaeeasareneseaeeaes 1
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI ..........................-22 s55+£EE£EE+£E+ZEz2EEvreersccsee 1


2. TINH HINH NGHIEN CUU DE TAL .....cssessssessessessesssstssseessteseverseesseesesen 3
3. MUC DICH VA NHIEM
VU CUA LUAN VAN uu. cccccssssssssccccscscseseceseecees 6
3.1. Mục đích ctia Luan Van... ecssccsssecsscecesssceesseseesscssessscsessecesseesescecnes 6
3.2. Nhiệm vụ của luận văn.......................... susssstsssastsesssiniseateesiesee 6

ee.

4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU........................... 74.1. Cơ sở lý luận. . . . . . . . . . . . .-

--- --< c4 241193

TH

KH ng ng ng

7

4.2. Phương pháp nghiên cỨU............................--- 5 «<< << <<<<=+s=zss2 —......

7

5. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU...........................---s+cseczzcszc 7

6. DONG GOP CUA LUAN VAN. vccccccsssssesesssesssssssessesssssssssssssseceesesserssssse 7
7. Y NGHIA LY LUAN VA THUC TIEN... cccsescseccecsecessesssessvessecssecssecsecseen 8
8. KET CAU CUA LUAN VAN... ecssssssssesssseecssesssssessvssssssessssecssseesiuvensaseenaes 8

aw


A

CHUONG 1: NHUNG DIEU KIEN KINH TE - XA HOI VA TIEN
ĐÈ LÝ LUẬN CHO SỰ HÌNH THÀNH HỌC THUT VỀ TỊN TẠI
TRONG TRIẾT HỌC ÊPIQUYA..............................SG Sex
EE.EEEerercrd 9
1:1. Điều kiện kinh tế - xã hội............................2 ss©+x+SEEE+EEE+EEEEtEEeCExerrrerrssrr 9
1.2. Tiền đề văn hóa và triết học........................---¿©22+e+22EEvevEEEEeezEEzecvrrrecr 13
1.3. Về cuộc đời và sự nghiệp của Êpiquya.......... esesesesesesessacssecerscsveseeses 18
1.4. Hệ thống triết học Êpiquya................. HH.

24

CHUONG 2: MOT SO NOI DUNG CO BAN TRONG HOC THUYET
CUA EPIQUYA VE TON TAI, GIA TRI VA HAN CHE CUA HOC

THUYET NAY oo ccceccsecscsssccsssececsseecessesssssesssecessssesssssesssessesseesssssesssee
45
2.1. Quan điểm của Êpiquya về NQUYEN ẦỬ .........................--.«c-cc2.2. Quan niệm của Êpiquya về sự vận động của nguyên tử trong không

g1an và thỜI B141 . . . . . . . . . . . . .

+ <2 t1 T1 1 13 HH HH TH Hưng ri 52


2.3. Quan niệm của Êpiquya về sự hình thành thế giới, vũ trụ và về
Thượng đế, linh hồn trong sự hình thành và tồn tại của con người, của
VUL LLU ooo.


..............................

61

2.4. Một số giá trị và hạn chế trong học thuyết của Êpiquya về tồn tại.......... 79

KẾT LUẬN.............................--+ - << se 1S 1S HH HT HE ng HT, 87

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................------<--.5.- ĐÔ


MO DAU
1. TINH CAP THIET CUA DE TAI
Ph.Ăngnghen đã từng khẳng. định: “Một dân tộc muốn đứng vững
trên đỉnh cao khoa học thì khơng thể khơng có tư duy lý luận”, song “tư
duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của người ta
mà có thơi” và do vậy, để có được tư duy lý luận thì năng lực tư duy của

mỗi người và của cả dân tộc “cần phải được phát triển hoàn thiện” và
“muốn hồn thiện nó thì cho tới nay, khơng có cách nào khác hơn là nghiên

cứu triết học thời trước”.
“Nghiên cứu tồn bộ triết học thời trước” có nghĩa là nghiên cứu lịch

sử tư tưởng triết học nhân loại. Nghiên cứu lịch sử tư tưởng triết học nhân
loại, chúng ta không thể không nghiên cứu tư tưởng của các nhà triết học Hy
Lạp cô đại. Bởi lẽ, tư tưởng của các nhà triết hoc Hy Lạp cỗ đại không chỉ đã
từng làm kinh ngạc biết bao trí tuệ anh minh, bao khối óc thiên tài, mà cịn có
tầm ảnh hưởng lớn lao đến sự tồn tại và phát triển của các nền văn hóa, văn
minh cả phương Tây lẫn phương Đông trong suốt nhiều thế kỹ đã qua. Với

một hệ thống triết học đa dạng, với những nhà triết học đã đạt đến đỉnh cao trí

tuệ nhân loại thời cơ đại, Hy Lạp cỗ đại đã trở thành cái nôi của triết học Châu
Âu và của cả thế giới, và “từ các hình thức mn hình mn vẻ ” của nó “ đã có
mầm mống đang nảy nở hầu hết tất cả các loại thế giới quan sau này”, đã khiến
chúng ta phải luôn trở lại với những thành tựu rực rỡ của nó.
Nghiên cứu triết học Hy Lạp cỗ đại, chúng ta không thể không nghiên
cứu triết học Êpiquya. Bởi lẽ, trong triết học Hy Lạp cỗ đại, triết học Êpiquya

được coi là sự thăng hoa cao nhất của tư duy duy vật trong đời sống tỉnh thần
của người Hy Lạp cỗ đại ở thời kỳ suy thoái của xã hội chiếm hữu nô lệ (thế


kỷ II - I trước Công nguyên). Nghiên cứu triết học Êpiquya, C.Mác đã coi

ông là “nhà khai sáng Hy Lạp vĩ đại bậc nhất”. Triết học Êpiquya khơng chỉ
có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống xã hội Hy Lạp đương thời, mà cả trong
suốt nhiều thế kỷ sau đó để làm nên một trường phái, một trào lưu triết học

độc đáo - “Vườn Êpiquya”, chủ nghĩa Êpiquya. Chính vì vậy mà C.Mác đã
chọn triết học tự nhiên của Êpiquya cùng với triết học tự nhiên của Đêmơcrít
làm đơi tượng nghiên cứu trong Luận án tiên sĩ của mình.
_ Êpiquya làm triết học, nghiên cứu triết học như một nghệ sĩ muốn làm
đẹp cho đời và ơng coi đó là hạnh phúc trí tuệ của mình. Ơng đã từng nói rằng:
“Đừng để cho một người nào xa rời triết học khi còn trẻ và cũng đừng để ai

mệt mỏi vì triết học khi tuổi già... Triết học cần thiết cho cả người già lẫn người
trẻ”. Câu nói nỗi tiếng này của Êpiquya khơng chỉ có giá trị sâu sắc trong thời
đại mà trí tuệ nhân loại đang đi những bước đi đầu tiên trên con đường tìm
kiếm sự thơng thái và uyên bác, mà còn mang ý nghĩa chuẩn mực cho tất cả

những ai gắn bó với triết học trong thế kỷ XXI này, thế kỷ của khoa học đang
ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong đời sống xã hội và thực sự trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp như C.Mác đã dự báo.
Nghiên cứu triết học Êpiquya để góp phần nâng cao hiểu biết và phát
triển năng lực tư duy lý luận, chúng ta không thể bỏ qua học thuyết của ông
về tồn tại. Bởi lẽ, cùng với đạo đức học, học thuyết về tồn tại đã đem lại cho
ông vinh quang của một nhà thông thái, nhà triết học duy vật và vô thần triệt

để, niềm kiêu hãnh của “nhà khai sáng Hy Lạp vĩ đại bậc nhất”. Không chỉ
thế, nghiên cứu học thuyết về tồn tại của Êpiquya cịn góp phần khơi dậy

“tình u đối với sự thông thái” mà giờ đây, trong bối cảnh của nền kinh tế
thị trường, với lỗi sống thực dụng, với việc đề cao giá trị vật chất, không Ít

người đã coi sự hiểu biết triết học chỉ là sự phù phiếm, giá trị tỉnh thần chỉ là


đồ trang sức khơng cần thiết, chắng có ích lợi gì trong cuộc sống hiện thực
với những mưu sinh, toan tính để làm giàu, kế cả với những người biết y
nghĩa thế giới quan và vai trò phương pháp luận của triết học. Với những

người vẫn cịn “tình u đối với sự thông thái”, đối với triết học, nghiên cứu
học thuyết về tồn tại của Êpiquya góp phần giúp cho họ thấy rõ vì sao nghiên
cứu lịch sử tư tưởng triết học nhân loại vẫn là cái cần thiết để nâng cao năng
lực tư duy lý luận và khi nhận thấy giá trị và hạn chế của học thuyết này, họ

sẽ hiểu vì sao mà triết học Êpiquya lại được C.Mác đánh giá cao đến như vậy
và vì sao mà sau gần 20 thế kỷ, triết học Êpiquya vẫn hiện diện trong lịch sử
tư tưởng triết học nhân loại thời nay.
Với những suy nghĩ trên, chúng tôi đã lựa chọn học thuyết về tồn tại

trong triết học Êpiquya làm đề tài cho luận văn thạc sĩ của mình.

2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐÈ TÀI
Quan niệm về tồn tại, những vần đề bản thể luận, nhận thức luận đã
được đặt ra từ rất sớm cùng với sự hình thành, phát triển của triết học và xã

hội loài người. Triết học Êpiquya đã được quan tâm nghiên cứu ngay từ thời
cổ đại và kéo dài trong suốt tiến trình phát triển của lịch sử triết học cho tới

tận ngày nay. Những công trình triết học bàn về Êpiquya và hệ thống triết học
của ông mà các học giả trên thế giới cũng như các học giả Việt Nam đã thực

hiện chủ yếu đi sâu tìm hiểu về học thuyết đạo đức của ông, bởi trong hệ
thống triết học của ông, học thuyết về đạo đức được nhiều học giả đánh giá là

cong hiến lớn nhất, có giá trị nhất và cũng nổi bật nhất. Song, cùng với nghiên
cứu này, các học giả trên thế giới và Việt Nam cũng đã nghiên cứu, luận bàn
về học thuyết tồn tại của Êpiquya trên một phương diện nào đó và từ những
góc độ, mục đích khác nhau. Sở dĩ các học giả này tập trung nghiên cứu học

thuyết về bản thể luận, hay học thuyết về tồn tại của Êpiquya là do, cho đến


nay, vẫn có nhiều nhà triết học, học giả cho rằng, nguyên tử luận của ông

chẳng qua chỉ là “sự sao chép” học thuyết ngun tử của Đêmơcrít; song, bên
cạnh đó, khơng ít nhà triết học, học giả lai cho rang, dau nguyên tử luận của

Êpiquya có là “sự sao chép” học thuyết ngun tử của Đêmơcrít thì đó vẫn là
“sự sao chép một cách hồn hảo”, “sao chép có bổ sung, phát triển” để xây

dựng nên thuyết nguyên tử cỗ điển về cấu tạo vật chất và do vay, ho cé gang
đi tìm sự khác biệt, sự vượt trội trong nguyên tử luận của ông so với hoc

thuyết về ngun tử của Đêmơcrít.
Điều nói trên trước hết được thể hiện trong Luận án tiến sĩ của C.Mác.
Với đề tài “Sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Đêmôcrit và triết học tu

nhiên của Epiquya” (Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen. Tồn tập, t.40.Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội; 2000), Luận án tiến sĩ của C.Mác đã được coi là một tác
phẩm lớn, một cơng trình nghiên cứu chun sâu đi tìm sự khác biệt, sự vượt

trội trong triết học tự nhiên

của Êpiquya

so với triết học tự nhiên của

Đêmơcrít đúng như tên gọi của nó. Có thể nói, C.Mác chính là người đầu tiên
đã chỉ ra quan điểm biện chứng trong tư tưởng của Êpiquya về “sự đi chệch
hướng” một cách tự phát của nguyên tử và coi đó là sự khác biệt, sự vượt trội

so với quyết định luận mang tính chất khắc kỷ của Đêmơcrít trong học thut
vé ngun tử của ơng.
Ở phương Tây, chúng ta thấy đã có những cơng trình nghiên cứu có
liên quan đến triết học Hy Lạp cỗ đại nói chung, triết học Êpiquya nói riêng.
Trong số những cơng trình nghiên cứu này đã có một vài cơng trình được dịch
sang tiếng Việt, chẳng hạn như “Hành trình cùng triết học” (Ted Honderich

chủ biên, Lưu Văn Hy dịch. Nxb Văn hóa - Thơng tin, Hà Nội), “7rzy ¿ẩm
triết học ” (M.Gail, J Tresday - Karsten, ..., Lưu Văn Hy dịch, Nxb Văn hóa -


Thơng trn, Hà Nội), “Những œ tưởng lớn từ những tác phẩm vĩ đạt


(Mortimer Adler, Pham Vién Phuong va Mai Sơn dịch, Nxb Văn hóa - Thơng
tin, Hà Nội),... Đặc biệt là cơng trình “Tuyén tdp danh tac triét hoc tir Platén
dén Derrida” (Forrest E.Baird, Dd Van Hudn va Luu Van Hy dich, Ngun
Việt Long hiệu đính, Nxb Văn hóa - Thơng tin, Hà Nội). Đây được coi là

cơng trình hồn thiện nhất giới thiệu về triết học Êpiquya nói chung, học
thuyệt về tơn tại của ơng nói riêng với ngun tác các tác phâm của Epiquya.
Trong cơng trình “Lịch sử phép biện chứng, t.1 - Phép biện chứng cô
đại” (Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô, Đỗ Minh Hợp dịch, Đặng Hữu Tồn

hiệu đính, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội), các nhà khoa học Xô viết đã tập
trung luận giải tư tưởng biện chứng của Êpiquya trong nguyên tử luận của
ông, đặc biệt là từ quan niệm của ông về “sự chệch hướng” một cách tự do

của ngun tử.
Ngồi những cơng trình đó, trén thế giới, có lẽ, cịn nhiều cơng trình
khác nữa có đề cập đến triết học Êpiquya và học thuyết về tồn tại của ông;
song, do khả năng có hạn và rào cản ngơn ngữ, chúng tơi khơng thể tiếp cận
được các cơng trình đó
Trong cơng trình biên soạn “707 ứriếr gia” (Mai Sơn biên soạn, Bùi
Văn Nam

Sơn hiệu đính, Nxb

Tri thức, Hà Nội), triết học Êpiquya


và học

thuyết của ông về tồn tại được giới thiệu một cách khái quát.

Ở Việt Nam, Êpiquya là một trong những nhà triết học ít được nghiên
cứu một cách trực diện. Vì vậy, có thé khang

định, ở nước ta, chưa có một

cơng trình nào nghiên cứu chuyên sâu về triết học Êpiquya nói chung, học
thuyết của ơng về tồn tại nói riêng. Các học giả Việt Nam thường viết về ông
và triết học của ông khi viết về nền triết học Hy Lạp cơ đại và được trình bày
dưới dạng sách giáo khoa, giáo trình lịch sử triết học. Chắng hạn như, Trần
Đức Thảo - “Lịch sử tư tưởng trước Mác”

(Nxb khoa học xã hội, Hà Nội;


1995); Thái Ninh - “Triết học Hy Lạp cổ đại? (Nxb Sách giáo khoa Mác Lênin, Hà Nội; 1987); Nguyễn Hữu Vui chủ biên - “Lịch sử triết học” (Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội; 1998); Bùi Thanh Quất - “L/ch sử triết học” (Nxb

giáo dục, Hà Nội 2000); Chiêm Tế - “Lịch sử thể giới cổ đại, t.2” (Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội 1977); Đinh Ngọc Thanh - “Triết học Hy Lạp cổ đạt”

(Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999); Hà Thúc Minh - “7ziế! học Hy Lạp La Mã cổ đại ” (Nxb Mũi Cà Mau, 2000); Trần Văn Phòng - “7riếf học Hy
Lạp cổ đại ” (Nxb lý luận chính trị, Hà Nội; 2006); v.v...
Do vậy, chúng tôi chọn vẫn đề “Học thuyết về tồn tại trong triết học
Epiquya” lam dé tai cho Luan van này với hy vọng góp phần làm rõ những
cống hiến, đóng góp của ơng trong lịch sử tư tưởng triết học nhân loại với học

thuyết này.

3. MUC DICH VA NHIEM VU CUA LUAN VAN
3.1. Mục đích của luận văn
Mục đích của luận văn là làm rõ những nội dung cơ bản của học thuyết
về tồn tại trong triết học Êpiquya để trên cơ sở đó, bước đầu chỉ ra giá trị và
hạn chế của nó.

3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Thực hiện mục đích trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau đây:

Thứ nhất, luận giải và phân tích những điều kiện kinh tế - xã hội và
tiền đề lý luận cho sự hình thành học thuyết về tồn tại trong triết học Epiquya.
Thứ hai, luận giải va phân tích những nội dung căn bản trong học
thuyết của Êpiquya về tổn tại.
Thứ ba, bước đầu nêu ra một số nhận xét về giá trị và hạn chế trong

học thuyết của Êpiquya về tồn tại.


4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên nền tảng lý luận là quan điểm của các nhà

sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin về lịch sử triết học nói chung, về triết học Hy
Lạp cỗ đại nói riêng: đồng thời, kế thừa, tham khảo có chọn lọc các cơng trình

của các nhà nghiên cứu có liên quan đến đề tài, chủ yếu là các cơng trình về
lịch sử triết học nói chung, triết học Hy Lạp cỗ đại nói riêng.
Đặc biệt, luận văn dựa vào nguồn tư liệu của C.Mác về đi sản triết học


của Êpiquya mà C.Mác đã chuẩn bị cho Luận án tiến sĩ của mình trong C.Mác
và Ph.Ăngghen. Tồn tập, t.40, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000; vào

những tác phẩm của Epiquya ma Forrest E.Baird da dua vao trong “7; uyễn tập
danh tác triết học từ Platôn đến Đerrida" đã được Đỗ Văn Huấn và Lưu Văn
Hy

dịch

sang tiếng

Việt;

đồng

thời

tham

khảo

luận văn

“Đạo

đức

học


Êpiquya” của Nguyễn Vũ Ngọc Dung (bảo vệ năm 2009, tại trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nộ)).

4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp lơgíc và lịch sử của triết học
mácxít; đồng thời sử dụng kết hợp một số phương pháp khác, như phân tích,
tổng hơp, hệ thống hóa, so sánh,...

5. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những nội dung căn bản trong
học thuyết của Êpiquya về tồn tại. Trong quá trình luận chứng tác giả có đề
cập đến một số quan điểm, tư tưởng của các nhà triết học khác trong chừng

mực mà chúng có liên quan đến triết học Êpiquya.

6. ĐĨNG GĨP CỦA LUẬN VĂN


Luận văn góp phan làm sáng tỏ những nội dung căn bản trong học
thuyết của Êpiquya về tồn tại và qua đó, chỉ ra những đóng góp nỗi bật của

ơng so với ngun tử luận của Đêmơcrít, đồng thời bước đầu đưa ra một vài
nhận xét về học thuyết này.

7. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIẾN
- Về phương diện lý luận, luận văn góp phần nghiên cứu học thuyết
của Êpiquya về tồn tại nói riêng, triết học Êpiquya nói chung.
- Về phương diễn thực tiễn, luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu và giảng dạy về lịch sử triết học nhân
loại nói chung, triết học Hy Lạp cơ đại và triết học Êpiquya nói riêng ở Việt

Nam hiện nay.

8. KET CAU CUA LUAN VAN
Ngoài phân mở đâu, kêt luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn

gồm 2 chương § tiết.


Chuong 1

NHUNG DIEU KIEN KINH TE - XA HOI VA TIEN DE LY LUAN
CHO SU HINH THANH HOC THUYET VE TON TAI TRONG
TRIET HQC EPIQUYA

1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội
Về phương điện kinh tế, chúng ta đều biết, vào thé kỷ thứ IX - VII trước
Công nguyên, nền sản xuất chiếm hữu nô lệ được coi là nền sản xuất phát

triển của thời kỳ cỗ đại. Đó là thời kỳ từ thời đại đồ đồng chuyển sang đồ sắt.
Sự xuất hiện của quan hệ tiền - hàng đã làm cho thương mại và sự trao đối
hàng hóa phát triển. Thuộc địa mở rộng đã tạo điều kiện cho sự giao lưu văn

hóa giữa các dân tộc.
Sự phát triển của nền sản xuất chiếm hữu nô lệ đã làm cho các quan hệ
và tô chức xã hội cũ bị đảo lộn, dẫn đến sự xuất hiện tư tưởng tư hữu và sau

đó là chế độ tư hữu về của cải. Sản xuất phát triển cùng với sự ra đời của chế
độ tư hữu đã dẫn đến sự phân công lao động mới trong xã hội. Phân công lao
động phát triển dẫn đến sự xuất hiện tầng lớp những người chun sống bằng
lao động trí óc, nhờ đó, hàng loạt nhà tư tưởng, nhà triết học ra đời mà Hy


Lạp cỗ đại là một trung tâm lớn, là cái nôi nuôi dưỡng, ươm mầm sáng tạo
cho nhiều nhà triết học vĩ đại, trong đó có Êpiquya.
Về bối cảnh lịch sử, xã hội, nhà duy vật vô thần vĩ đại Epiquya da sinh
ra và lớn lên trong thời kỳ suy tàn của chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp cỗ
đại. Chiến tranh giữa Aten và Spác là cột mốc đánh dấu sự suy tàn của Hy
Lạp cô đại. Năm 383 trước Công nguyên, Hy Lạp cỗ đại nằm dưới sự thống
trị của Maxêđoan. Chế độ thành bang bị bãi bỏ, khối Đồng minh Hy Lạp được

thành lập, đất nước Hy Lạp bước vào một thời kỳ mà lịch sử gọi là thời kỳ Hy
Lạp hóa.


10

Cuộc đời và hoạt động sáng tạo lý luận của nhà duy vật vô thần vĩ đại

Êpiquya diễn ra từ nửa cuối thế kỷ IV và đến đầu thế kỷ III trước Công
nguyên. Khoảng thời gian này chủ yếu diễn ra trong giai đoạn cai trị của
Alêchxăngđrơ Maxeđoan trong lịch sử Hy Lạp (từ năm 323 đến năm 300
trước Công nguyên).

Lịch sử Hy Lạp cô đại từ thế kỷ IV trước Cơng ngun được gọi là thời
kỳ Hy Lạp hóa và cũng được coi là giai đoạn lịch sử dài nhất của thời kỳ

Chiếm hữu nơ lệ. Nó kéo dài hơn 8 thế kỷ, với nhiều sự kiện lịch sử nổi bật,
bắt đầu là các cuộc chiến tranh chỉnh phục của Hoàng đế Maxêđoan và người
La Mã để rồi kết thúc bởi các cuộc đấu tranh của những người nô lệ nhằm
thốt khỏi ách nơ lệ của mình. Cuộc đấu tranh của giai cấp nô lệ là một trong
những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đồ của chế độ Chiêm hữu nơ lệ.

Vào thời kỳ đó, ở phía Bắc Hy Lạp cỗ đại, Maxêđoan là một quốc gia
theo chế độ chiếm hữu nơ lệ đã hình thành, phát triển và tiếp sau những quốc
gia thành bang, hay còn được gọi là quốc gia thị thành Hy Lạp, đang bước
vào thời kỳ hưng thịnh. Lợi dụng tình trang suy yếu và sự chia rẽ của các
thành bang Hy Lạp, Maxêđoan đã bắt đầu cuộc Nam tiến. Năm 338 trước
Công nguyên, quân đội Maxêđoan dưới sự chỉ huy của vua Philíp II đã đánh
bại lực lượng Aten, Tebơ tại Kêrônê, rồi tổ chức Hy Lạp thành một liên minh

dưới quyền thống trị của mình. Cục diện tồn tại độc lập của các thành bang
Hy Lạp đã chấm dứt từ đó. Hy Lạp thống nhất trong một khối thành bang là
Maxêđoan. Sau khi vua Philíp II bằng hà (năm 336 trước Cơng ngun), các
đảng chống Maxêđoan ở Hy Lạp đã gia tăng những hoạt động chống đối của
mình. Điều này đã khiến cho hy vọng làm thay đổi hiện trạng kinh tế - xã hội
ở Hy Lạp của Maxêđoan nhanh chóng sụp đỗ. Con trai, đồng thời là người kế
tục sự nghiệp cai trị của Philíp II là Alếchxandđrơ (356 - 323 trước Cơng
ngun), sau khi khắc phục được những khó khăn trong nước, đã khôi phục

|


11

lai su théng tri Maxédoan

tai Hy Lap và nhanh chóng chuẩn bị cho cuộc

hành qn tới phía Đơng, khi vừa bước vào tuổi 20. Trong 12 năm trị vì,
ơng đã đẹp tan các cuộc nổi dậy của những người Hy Lạp do người Tebơ
cầm đầu, rồi vượt biển Êgiê, đánh bại những người Ba Tư nỗi loạn, chiếm
lại toàn bộ vùng đất thuộc khu vực Tiểu Á, chỉnh phục Xyrl, Palétxtin, Ai


Cập, vùng Trung Á... Năm 327 trước Công nguyên, Alếchxanđrơ đã xâm
chiếm

vùng

Tây

- Bắc

Ấn

Độ.

Sự xâm

chiếm

này đã

đưa

quốc

gia

Maxédoan tro thanh mot quéc gia lớn mạnh nằm trên cả 3 châu Âu - Á -

Phi rộng lớn mênh mông, lấy Babilon - thủ phủ của quốc gia Lưỡng Hà


thời cỗ đại làm kinh đơ.
Sau cuộc chiến tranh chỉnh phạt Alếchxanđrơ đã nhanh chóng bắt tay
vào việc tổ chức chế độ cai trị tại những vùng đất rộng lớn mới chiếm được.
Chính sách cai trị của ơng được thực hiện bằng nhiều hình thức: tran áp, mua

chuộc và lôi kéo bọn quý tộc địa phương để thống trị. Tổ chức chính quyền
của đế chế Maxêđoan

dựa trên sự phối hợp giữa chế độ chính trị của các

thành bang Hy Lạp với nội dung chuyên chế của các quốc gia phương Đơng.
Alếchxanđrơ được thần thánh hóa cao độ và nắm trong tay quyền lực lớn
nhất. Những người thân cận của ông được giao giữ các trọng trách trong bộ
máy nhà nước. Quân đội của để chế Maxêđoan được tăng cường bằng ba vạn
thanh niên Ba Tư luôn sẵn sàng đàn áp những cuộc nổi dậy của quần chúng
nhân dân nô lệ. Để làm dịu mâu thuẫn giai cấp, Alếchxandrơ đã dùng chính
sách mị dân và mong dùng văn hóa Hy Lạp làm sợi dây liên hệ chung cho cả
để chế và cho việc thiết lập hàng chục thành phố ở nhiều nơi, đưa người Hy

Lạp tới đó định cư và dự tính rằng mỗi thành phố sẽ là một trung tâm truyền
bá và phát triển văn hóa Hy Lạp.
Ý tưởng về một thế giới thống nhất, mà chúng ta có thể nói rằng,

Alếchxanđrơ là người đầu tiên khởi xướng, đã không thể trở thành hiện


12

thực. Những người kế nghiệp ông không nghĩ tới điều đó. Sau khi ơng chết,
các tướng lĩnh của ơng đã tiến hành những cuộc


nội chiến lẫn nhau để

giành đất đai và vào đầu thế kỷ III trước Công nguyên, đế chế Maxêđoan
đã bị chia làm 3 vùng: Hy Lạp - Maxêđoan, Ai Cập, Xyri dưới sự cai quản
của các tướng lĩnh.
Maxêđoan tiếp tục thống trị các thành bang Hy Lạp với vương triều
Ăngtigơn.

Vương

triều Ptơlêmê

đóng

đơ

ở Alếchxăngđri

theo

truyền

thống chun chế Ai Cập: tất cả ruộng đất đều là của vua, thương mại và
thuế khóa do vua định đoạt, các vùng định cư Hy Lạp chỉ được nhận một

vài đặc quyền không đáng kể. Vương triều Xêlơxít đóng đơ ở Ăngtiốt
(Bắc Xyri) cai trị một vùng gồm phần lớn Tây Á, có nơi dùng hệ thống
cai trị theo kiểu Ba Tư, có nơi thì dùng hệ thống cai trị theo kiểu những
thành bang của Hy Lạp.

Ba vương quốc Hy Lạp trong thời đại Hy Lạp hóa nói trên ln tranh
giành lẫn nhau vai trị thống trị những vùng đất dọc bờ Đông Địa Trung Hải.
Trong khi 2 vương quốc trở thành những trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa
lớn, thì Hy Lạp ngày càng khủng hoảng và suy yếu trầm trọng. Đến giữa thé
ký II trước Cơng ngun, tồn bộ Hy Lạp bị rơi vào vòng thống trị của đề chế

theo chế độ chiếm hữu nô lệ La Mã.
Sau khi Alécxanđrơ Maxêđoan qua đời, Hy Lạp cỗ đại bước vào giai
đoạn suy thoái. Nguyên nhân sâu xa của sự suy thoái này là từ những mâu
thuẫn về lợi ích kinh tế, chính trị giữa các tầng lớp trong giai cấp chủ nô, giữa

chú nô mà trước hết là chủ nô quý tộc với nô lê, nông dân.

|

Chiến tranh đã làm cho xã hội Hy Lạp cỗ đại thời Êpiquya bị chia rẽ
sâu sắc, nền kinh tế bị kiệt quệ, đời sống nhân dân khốn khổ. Điều này đã có

ảnh hưởng nhất định đến quá trình hình thành và phát triển tư tưởng triết học
của Epiquya nói chung, học thuyết về tơn tại của ông nói riêng.


13

1.2. Tién dé van héa va triét hoc
Là một trung tâm văn hóa thời cơ đại, ngay cả ở giai đoạn suy tàn, văn

hóa Hy Lạp vẫn có sự phát triển mạnh mẽ, được phố biến rộng rãi và có ảnh
hưởng lớn trong khu vực. Ngay cả khi đã trở thành thuộc địa của đế chế La
Mã vào đầu thế kỷ II trước Cơng ngun, văn hóa Hy Lạp vẫn chiếm quyền

thống trị khu vực, có ảnh hưởng rộng lớn và có lẽ do vậy mà thời kỳ này đã
được lịch sử gọi là thời kỳ Hy Lạp hóa.

Đây cũng là thời kỳ mà khoa học kỹ thuật có sự phát triển rực rỡ, nhiều
thành tựu khoa học mới xuất hiện. Về triết học, đây là thời kỳ mà các trào lưu
triết học Hy Lạp đã thể hiện khá rõ nét các cuộc đấu tranh giai cấp trong xã

hội đương thời qua một loạt trường phái triết học, như trường phái khắc ký,
trường phái hoài nghỉ và trường phái Êpiquya. Trong số này, chủ nghĩa duy
vật và vô thần Êpiquya đã trở thành ngọn cờ tư tưởng của lực lượng xã hội
tiến bộ là tầng lớp chủ nô dân chủ trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy
tâm, tôn giáo.
Thời kỳ Hy Lạp hóa là đỉnh cao của sự giao lưu văn hóa giữa các

quốc gia với việc đế chế La Mã đánh chiếm Hy Lạp và nhiều miền đất
khác đã tạo điều kiện cho văn hóa Hy Lạp - La Mã mở rộng phạm vi ảnh
hưởng và phát triển. Điều đó đã làm cho triết học thời kỳ này mang nhiều
đặc thù riêng. Các nhà triết học thời kỳ này thường bàn luận nhiều về
những vẫn đề triết lý của cuộc sống con người. Khi đó, những người dân
Aten vẫn là những cá nhân đóng vai trị chủ đạo trong việc phát triển các
tư tưởng triết học, mặc dù kinh tế và chính trị ở vùng đất này đã suy tản.
Trong số ba trường phái triết học vĩ đại nhất của thời kỳ Hy Lạp hóa
(trường phái triết học Êpiquya, chủ nghĩa hồi nghi và chủ nghĩa Khắc
kỷ) thì trường phái triết học Êpiquya là trường phái có ý nghĩa và ảnh
hưởng nhiều nhất ở Aten.


14

Có thể nói, sau Aritxtốt, triết lý thuần túy Hy Lạp bắt đầu đi xuống để


rồi chấm dứt hẳn. Hầu hết các nhà nghiên cứu lịch sử triết học đều gọi thời kỳ
này là “/hởi k) suy tàn”. Nhiều nhà nghiên cứu sau này cho rằng lý do của sự
suy sụp ấy có lẽ là vì sau một sự cố gắng suy tư hầu như phi thường, trí não
của người Hy Lạp đã đến lúc kiệf sức. Do đó, cùng với Aritxtốt đang ngự trị
trên đỉnh cao chót vót, tư tưởng triết học Hy Lạp đã phải /

xuống những

niềm sâu. Bên cạnh những hệ thống triết học vĩ đại và phong phú, những

trường phái triết học ở thời kỳ này bỗng nhiên trở thành những

“chú bé tý

hon” và nghèo nàn, khơng cịn đủ nghị lực để có thể gây nên một sự hào hứng
nào đó cho những suy tư triết học cao siêu nữa. Cũng do vậy, trong ba thời kỳ
phát triển của triết học Hy Lạp thời kỳ Hy Lạp hóa được xem là ít ý nghĩa

giáo khoa nhất.

|

|

_ Thực vậy, các nhà tư tưởng của thời kỳ Hy Lạp hóa đã bị chỉ phối bởi
một nguồn cảm hứng khác hắn khuynh hướng mang phong cách suy lý và
siêu hình của thời Hy Lạp cực thịnh. Đó là nguồn cảm hứng thực tiễn và nhân
sinh quan theo luân lý đạo đức. Bằng một con đường khác, nguồn cảm hứng
nay lại tiếp nối ý hướng đạo đức nguyên thủy của Xôcrát sau một thời kỳ bị

quên lãng. Với họ, đời sống đạo đức thực tiễn có một giá trị quan trọng và cần
thiết hơn sự suy tư về những vấn để thuần túy lý luận hay lý thuyết siêu hình.
Theo quan điểm của nhà triết học nỗi tiếng - Aritxipơ (435 - 355 trước Cơng
ngun), học trị của Xơcrát, người sáng lập trường phái Khối lạc, thì những
khoa học thuần túy như tốn học khơng ích lợi gì cả, vì chúng khơng nói đến
cái thiện, cũng khơng nói đến cái ác.
Chính vì vay, tat cả những tư tưởng, kế cả những tư tưởng hết sức khác
nhau của các nhà triết học nhằm mục tiêu duy nhất là mưu cầu, là đem lại
hạnh phúc cho con người trong cuộc sống hiện tại. Hơn nữa, mọi vấn đề thuộc

đời sống thực tiễn ấy của con người còn được họ giải quyết bằng sự kết hợp


15

những phương pháp văn tắt, đơn sơ với những phương pháp lý luận dài dòng
của Arixtốt. Đây được coi là một sự chuyển hướng rõ ràng trong triết học Hy
Lạp cơ đại.
Sự chun hướng này hình như đã khởi phát từ nhiều nguyên nhân
khá phức tạp. Trước hết, trong số những người kế tục trực tiếp sự nghiệp
của Arixtốt, không một ai có đủ khả năng tư duy siêu hình và lý luận như

Arixtốt dé tiếp tục tinh thần của ông. Tứ hai, kê từ khi đại đế Alếchxandrơ
băng hà, nền văn hóa Hy Lạp vốn đã được truyền bá sâu rộng khắp Địa
Trung Hải thì nay đã chuyển về những đô thị láng giềng. Một sự bành
trướng như thế không khỏi tạo nên những cuộc gặp gỡ hầu như ngẫu nhiên
giữa nhiều nền văn hóa khác nhau, cũng như giữa những luồng tư tưởng
khác nhau. Từ cuộc gặp gỡ đầy hào hứng này, sự trao đôi tư tưởng giữa các
dân tộc đã trở thành một lẽ tự nhiên.
Với những cuộc chinh phục và bành trướng văn hóa như thế, cơng việc

truyền bá triết học địi hỏi một sự cải biến sâu rộng để có thể thích ứng với

hồn cảnh, điều kiện mới. Từ sự thích ứng này, khuynh hướng thực tiễn và
mang đậm tính cách nhân sinh của trường phái triết học đạo đức này hình như

đã ít nhiều chịu ảnh hưởng của quan niệm về sự thanh bình nơi tâm hồn của

người phương Đông. Những ý niệm về sự vơ cảm, sống theo thiên nhiên, hồi
nghỉ khả năng của lý trí, v.v., nếu khơng tương tự như vậy thì ít ra cũng tương
đồng với một vài ý niệm căn bản của người phương Đông, như quan niệm về

vô vi, về tự nhiên như nhiên, triết lý về cái “vơ ngã”, “vơ thường”,v.v...
Su suy sup về chính trị như đã nói ở trên, kéo theo su suy sup vé tinh

thần và do vậy, người ta chỉ còn chú ý đến vấn đề thân phận con người, đến
đời sống riêng tư của con người, đến vấn đề hạnh phúc và giải thốt cá nhân.
Vì vậy, điều người ta kỳ vọng nhất ở triết lý trong một hoàn cảnh suy sup,
hoang tàn như thế về tỉnh thần là một phương thuốc trị liệu có thể chữa được


16

những lo âu, đau khổ cho tâm hồn mỗi cá nhân. Có thể nói, đặc điểm chính
của thời kỳ tư tưởng suy tàn này là thái độ chú quan cá nhân chủ nghĩa, ở
đây khơng cịn ai chú ý đến giải pháp cho những vấn đề vũ trụ. Tinh thần

khoa học, kiến thức vì kiến thức theo tri thức luận đã biến mất. Thái độ bỡ
ngỡ, suy tư mà Platôn và Arixtốt xem như khởi điểm và là sự khích lệ cho

những suy tư triết học cũng đã khơng cịn nữa. Tất cả mọi nỗ lực suy tư chỉ

xoay quanh cá nhân, số phận,

số mệnh và sự vên ôn nơi tâm hồn cho mỗi

cá nhân. Và, có lẽ cũng do vậy mà học thuyết về tồn tại và học thuyết về -

nhận thức của Êpiquya dường như có phần “yếu thế” hơn so với học thuyết
vê đạo đức của ông.
Tuy nhiên, trong bối cảnh mà các khuynh hướng triết học của thời kỳ
Hy Lạp hóa đều mang tính chất một học thuyết dạy nghệ thuật sống cho con

người, trường phái triết học Êpiquya - đại diện xuất sắc cuối cùng của triết
học với tư cách một khoa học ở Hy Lạp cơ đại vẫn có những đóng góp tích
cực cho sự phát triển của triết học duy vật. Trường phái triết học Êpiquya đã
không chỉ chống lại các học thuyết triết học duy tâm, mà còn cương quyết

phủ nhận ?hế giới

tưởng”,

“Thế giới ý niệm” của Platơn, phê phán “cú

hích đâu tiên ” của Arixtốt và các thế lực siêu nhiên khác mà các trường phái
triết học khác nhau của thế giới cô đại đã đưa ra và luận chứng cho chúng.
Một trong những cái đã đem lại vinh quang đó cho triết học Êpiquya
chính là học thuyết của ơng về tồn tại - học thuyết mà ông đã xây dựng nên
trên cơ sở kế thừa và phát triển thuyết nguyên tử cơ điển về cấu tạo vật chất
của Đêmơcrít. Thuyết nguyên tử cỗ điển về cấu tạo vật chất của Đêmơcrít,
như chúng ta đều biết, được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát triển quan
niệm về nguyên tử của Lơxíp. Do vậy, có thể nói, học thuyết ngun tử Loxip

- Démécrit 1a tiền đề lý luận cho học thuyết về tồn tại của Êpiquya.



×