Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

VE DEP TRONG BAI THO VE TIEU DOI XE KHONG KINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.4 KB, 5 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Phân tích Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính của Phạm Tiến Duật.</b>


15 năm dạy lớp 9 là 13 năm mình sưu tầm tài liệu và hàng ngày mình, hàng đêm
khơng ngừng sửa chữa để tài liệu tốt hơn, dễ hơn. Quan niemj của mình là tài liệu hay hoặc
không hay chưa hẳn quan trọng. Điều quan trọng là HS có hiểu hay khơng, có dễ làm hay
khơng. Tài liệu của mình khó mà nói hay hoặc dở nhưng chắc chắn dễ hiểu, đơn giản vì điều
đó được chứng minh qua kết quả của HS mình trong 13 năm qua.


Nếu chỉ cho tơi, cho bạn thì đơn giản q nên muốn chia sẻ với mọi người.


Trong tài liệu của mình có hướng dẫn HS cách học, cách làm nên hầu như HS nào cũng rất
dễ học. (thông qua dấu mũi tên).


- Đặc điểm tài liệu mình chưa bao giưof có trên mạng, bạn nào chứng mình tài liệu có
trên mạng, mình cam kết bỏ nghề ln.


- Ngồi ra mình cịn có 1 số đề thi HSG lớp 6 theo hướng phát triển năng lực nhưng
khơng nhiều vì mới làm, hơn nữa làm 1 đề mất cả ngày mới xong ên số lượng còn
khiêm tốn.


Nếu bạn đọc thử mà thấy phù hợp thì liên hệ với mình nhé. 01233703100.


- Ngồi ra mình cịn có đầy đủ các đề thi vào lớp 10 theo hướng đổi mới và
HSG,


- Thú thật là mình khơng muốn chuyển cho trang tailieu.vn hay 123doc.org vì
lí do bản quyền.


Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền văn học VN hiện đại.
Trong sự nghiệp sáng tác của mình, ơng đã để lại nhiều tác phẩm đặc sắc. “Bài thơ về tiểu
đơi xe khơng kính” viết năm 1969 rút trong tập “ vầng trăng quầng lửa” là một trong những


tác phẩm tiêu biểu nhất của ông. Bài thơ thể hiện thành công tinh thần dũng cảm, lạc quan
yêu đời, giàu tình đồng chí đồng đội, ý chí chiến đấu vì miền Nam của người chiến sĩ trong
cuộc kháng chiến chng M.


1. Bốn câu thơ đầu là hình ảnh chiếc xe không kính và <b>t th ung dung ca ngời chiÕn</b>
<b>sÜ l¸i xe </b>


Xe khơng kính khơng phải vì xe khơng có kính / Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Mở đầu bài thơ người đọc bắt gặp ngay một giọng tự nhiên, tinh nghịch pha chút ngộ
nghĩnh về chiếc xe khơng kính. “Xe khơng kính khơng phải vì xe khơng có kính”, đơn giản
vì “bom giật bom rung kính vỡ mất đi rồi”. Nhận xét <sub></sub> Lời giải thích tuy khơng nói rõ nhưng
qua cách sử dụng động từ mạnh liên tiếp “bom giật, bom rung” kết hợp với điệp ngữ
“không” cũng cho ta thấy được sự ác liệt, hiểm nguy nơi chiến trường. Hình ảnh chiếc xe
khơng kính, khơng đèn, khơng mui và đầy vết xước gợi lên sự hiểm nguy, mất an toàn khi
phải ngồi trên một chiếc xe như thế nhưng những dòng thơ tiếp theo người đọc nhận thấy
một thái độ bình tĩnh, tự tin của những người chiến sĩ.


Ung dung buồng lái ta ngồi / Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

tự tin. Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng là cái nhìn nghiêm trang, bất khuất như lời thề. Nhìn
thẳng cũng là cái nhìn về phía trước, nhìn vào khó khăn, nhìn vào sự hi sinh, gian khổ nhưng
không hề run sợ, không hề né tránh. Đó cũng là cái nhìn của người chiến thắng mà đạn bom
quân thù không thể nào cản được. Ba điệp ngữ “nhìn” liên tiếp như một lời thề “quyết tử cho
Tổ quốc quyết sinh”


2: Chiếc xe khơng kính lại tạo điều kiện cho ngời chiến sĩ lái xe đợc tiếp xúc với thiên
<b>nhiên với thế giới bên ngồi. </b>


Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng //…Như sa như ùa vào buồng lái



Nhận xét <sub></sub> Thì ra chiếc xe khơng kính đã giúp người chiến sĩ được gió mát Trường Sơn
xoa dịu đi những cơn mất ngủ vì phải lái xe thâu đêm. “ Xoa” là cử chỉ nhẹ nhàng vuốt ve
âu yếm. Gió khơng làm đau, làm rát mắt của người lái xe mà ngược lại gió cịn vỗ về nhè
nhẹ vào đơi mắt . Điệp ngữ “nhìn” kết hợp với nhịp thơ nhanh dồn dập như muốn nhấn chìm
người chiến sĩ. Các anh vẫn xem thường tất cả thử thách gian nguy để tiếp tục đưa xe vào
chiến trường.


Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc


Khơng phải “bụi” hay “ướt” làm các anh khó chịu mà cái chính là tuổi trẻ ngang tàng, niềm
tin chiến thắng và lòng dũng cảm khiến các anh chịu đựng một cách dễ dàng và có phần
thách thức. “ chưa cần rửa….chưa cần thay”. Thiên nhiên, đất trời luôn sát cánh với người
chiến sĩ lái xe trên suốt chặng đường dài ra trận. Bằng nghệ thuật nhân hoá , Phạm Tiến
Duật đã biến những khó khăn trở ngại khi lái những chiếc xe khơng kính trở thành một cơ
hội để thử thách lịng dũng cảm, ý chí của các anh. Giọng điệu thơ có khi ngang tàng, tự
nhiên như bất chấp gian khổ được thể hiện rõ trong cấu trúc đựơc lặp lại <i>“ Ừ thì...”, “Chưa</i>
<i>cần rửa”, “Chưa cần thay” ..., “Lái trăm cây số nữa...”. Dường như gian khổ nguy hiểm,</i>
ác liệt của chiến tranh không làm ảnh hưởng đến tinh thần của họ, trái lại, những người lính
lái xe xem như là một nhịp để rèn thử thách sức mạnh và ý chí của mình<i>. Lời thơ khơng văn</i>
vẻ mà bình dị mộc mạc đầy chất lính tráng thật đáng yêu. “Khơng có kính ừ thì có bụi…ừ
thì ướt áo” Một tiếng "ừ" quả quyết, ngắn gọn, bất chấp tất cả, cả mưa tn, cả gió thổi, cả
ướt áo, tiếng “ ừ thì” cứ lặp lại thật nhẹ nhàng như một tiếng đùa vui. Chỉ một tiếng “ừ thì”
thơi nhưng hàm chứa cả bao nhiêu thách thức với khó khăn, gian khổ. Nêu suy nghĩ <sub></sub> Ai đã
từng được sống, được đọc hoặc được nghe kể về cuộc chiến tranh ác liệt ở Trường Sơn có lẽ
sẽ hiểu hơn về cuộc sống của họ. Người lính trong bài thơ được tác giả thể hiện thật chân
thực. Trên đầu là hàng tấn bom của giặc Mỹ không ngừng dội xuống, họ lại phải đối mặt với
bao nhiêu thách thức và hiểm nguy “ mưa tn, mưa xối” “ gió vào xoa mắt đắng” …rồi
những trận sốt rét vậy mà họ có hề chi, vẫn “ phì phèo châm điếu thuốc” vẫn “ lái trăm cây
số nữa” vẫn “cười ha ha”.



3 : Những khổ thơ tiếp theo Phạm Tiến Duật cho ta biết thêm về cuộc sống tuy gian khổ
<b>hiểm nguy nhng các anh rất lạc quan yêu đời. </b>


Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha // Những chiếc xe từ trong bom rơi
…Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

hoàn cảnh chiến tranh. Trên đường đi, họ bắt tay nhau qua cửa kính, lúc nghỉ cùng nhau
châm điếu thuốc, đến bữa chung bát đũa. Tất cả xem nhau là người cũng 1 gia đình, để rồi
họ lại cùng nhau lên đường:" lại đi lại đi trời xanh thờm". Câu thơ này kh ông chỉ chan chứa
hy vọng về 1 tương lai tốt đẹp đang tới gần mà còn thể hiện tinh thần lạc quan của người
lính.


<b>4: Vẽ đẹp kiêu hùng, khí phách hiên ngang, ý chí sắt đá, tinh thần dũng cảm bất chấp </b>
<b>hiểm nguy của người lính lái xe được khắc họa rõ nét ở khổ thơ cuối.</b>


…Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước // …. Chỉ cần trong xe có một trái tim.


Khổ thơ cuối kết thúc bất ngờ, khiến người đọc vỡ òa bao cảm xúc. Chỉ 2 câu thơ mà điệp từ
“không” được vang lờn 3 lần, “khơng có kính, khơng có đèn, khơng có mui”, chiếc xe chỉ cú
một thứ duy nhất là “có xước” nhưng đó thực chất cũng là một tổn thất đấy thơi- khơng lành
lặn. Hai dịng thơ ngắt làm bốn khúc " khơng có kính, khơng có đèn, khơng có mui / thùng
xe có xước" như bốn chặng gập ghềnh, khúc khuỷu, đầy chơng gai bom đạn. Nói cái
“khơng” 1 mặt để nhấn mạnh sự khó khăn, mức độ ác liệt của chiến tranh, mặt khác lại
khẳng định quyết tâm của những người chiến sĩ lái xe. Nhà thơ nói cái “khơng” về vật chất
là để khẳng định cỏi “có” về tinh thần. Đó là ý chí, là là niềm kiêu hãnh của người lính giải
phóng qn. Bom đạn qn thù có thể làm biến dạng xe nhưng khơng thể đè bẹp được tinh
thần chiến đấu của những người lính lái xe. Xe chạy khơng chỉ vì có 1 động cơ máy móc mà
cịn có 1 động cơ tinh thần " vì miền Nam phía trước". Đối lập với tất cả những cái “khơng”
ở trên là một cái “có” đó là “chỉ cần trong xe có một trái tim” trái tim yêu nước nồng nàn,
trái tim đầy tinh thần trách nhiệm trước vận mệnh của đất nước, vì miền Nam ruột thịt, vì


hịa bình thống nhất của đất nước. Đến đây ta hiểu vì sao người chiến sĩ lái xe có thể bất
chấp hiểm nguy để lái chiếc xe “trần trụi” kia băng ra chiến trường. Đó là cội nguồn sức
mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ anh hùng của mỗi người cầm lái tích tụ, kết đọng ở hình ảnh
hán dụ "trái tim" gan gúc, kiên cường, chứa chan tình yêu nước này. Ẩn sau ý nghĩa câu thơ
"chỉ cần trong xe có một trái tim" là chân lý của thời đại: sức mạnh quyết định, chiến thắng
khơng phải là vũ khí, cơng cụ mà là con người giàu ý chí, anh hùng, lạc quan, quyết thắng
như Tố Hữu đó ca ngợi :


Thiếu tất cả, ta rất giàu dũng khí
Sống chẳng cúi đầu, chết vẫn ung dung
Giặc muốn ta nơ lệ, ta lại hóa anh hùng
Sức nhân nghĩa mạnh hơn cường bạo


Thì ra chiếc xe khơng kính trên kia là cái nền để tôn thêm vẽ đẹp của người lính. Chiếc xe
càng trần trụi bao nhiêu thì khí phách kiên cường, dũng cảm của người lính càng được tôn
thêm bấy nhiêu. Nhận xét <b> (nghệ thuật) Lời thơ không phô trương mà giản dị, khơng bóng</b>
bẩy mà trần trụi như chính chiếc xe khơng kính. Đó là độc đáo trong cách nói của nhà thơ
Phạm Tiến Duật.


Bài thơ đã khép lại với một hình ảnh thơ thật đẹp “ chỉ cần trong xe có một trái tim”
Nhà thơ Phạm Tiến Duật với tất cả tình cảm yêu mến, trân trọng của người trong cuộc đã
viết về các anh thật chân thực mà cũng rất khoẻ khoắn, hào hùng. Có thể nói rằng “ Bài thơ
về tiểu đội xe khơng kính” là “một nốt trầm xao xuyến” trong bản hòa ca trầm hùng của đất
nước vang tên tuổi của những con người bất tử.


(Vì khn khổ của giấy nên bài văn đã lược bỏ trích dẫn thơ và một số ý )
<b>ĐỀ THI HSG CẤP TỈNH </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>ĐỀ BÀI: Sức hấp dẫn của cách nói “khơng có” trong bài thơ về tiểu đội xe khơng</b>
<b>kính của Phạm Tiến Duật</b>



Bài thơ bề tiểu đội xe khơng kính được viết năm 1969, trích trong tập thơ “vầng trăng
quầng lửa” là tác phẩm đầu tay và cũng là tập thơ giá trị nhất trong đời thơ Phạm Tiến Duật.
Bài thơ đã có một tứ thơ độc đáo. Tứ thơ ấy được xây dựng trên cơ sở tương phản đối lập
giữa cái “không” và cái “có” của những chiếc xe khơng kính, gợi lên nhiều liên tưởng thú vị
và ý nghĩa sau xa.


<b>Trước hết từ cách nói “khơng có” nhà thơ Phạm Tiến Duật được xây dựng một</b>
<b>hình tượng thơ lạ: hình tượng những chiếc xe khơng kính. Qua đó phản ánh hiện thực</b>
<b>khốc liệt của chiến tranh. Từ xưa đến nay, hình ảnh xe cộ trong thơ ca thường được lí</b>
tưởng hóa, lãng mạn hóa và mang ý nghĩa biểu tượng nhiều hơn là tả thực. Với Phạm Tiến
Duật nhà thơ đã chọn cho mình một lối đi riêng. Những chiếc xe trong thơ ông được dặc tả
bằng những chi tiết hiện thực xù xì đến thơ ráp gây ấn tượng cho người đọc ngay từ khổ thơ
đầu tiên.


Khơng có kính khơng phải vì xe khơng có kính
Bom giật bom rung kinh vỡ đi rồi


Chỉ với hai câu thơ ngắn ngủi mà điệp từ “không” xuất hiện đến ba lần cùng với điệp
ngữ “khơng có, khơng phải khơng có”. Phải chăng đây là cách tác giả lựa chọn để tạo ấn
tượng cho những chiếc xe khơng kính? Chỉ với điệp ngữ “khơng” ấy thôi mà người đọc
<b>cảm nhận được cái thản nhiên, ngang tàng trong ngữ điệu của hai dòng thơ này. </b>Đi dọc
tứ thơ “bài thơ về tiêu đội xe không kính’ đến tận khổ thơ cuối, cái “khơng” ngày càng gia
tăng để hiện lên trong thơ Phạm Tiến Duật hình ảnh chiếc xe tồi tàn, xơ xác, trần trụi.


Khơng có kính rồi xe khơng có đèn
Khơng có mui xe thùng xe có xước


Chính bom đạn tàn khốc ác liệt trên tuyến đường Trường Sơn đã hủy hoại những chiếc xe
thành biến dạng, méo mó. Những chiếc xe khơng kính đã trở thành chứng tích của bom đạn


và tội ác quân thù.


Những chiếc xe khơng kính khơng chỉ là chứng tích cho sự ác liệt của chiến tranh mà
nó cịn là minh chứng hào hùng, vẻ vang của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, của
tuổi trẻ VN thời chống Mĩ cứu nước.Vậy nên nói về cái” khơng có” Phạm Tiến Duật
<b>nhằm tơn thêm những cái “có” trong vẽ đẹp tâm hồn của những người lính.</b> Cho dù khó
khăn, cho dù thiếu thốn, các anh vẫn luôn giữ được một tâm thế ung dung, bình thản, coi
thường thử thách, gian khổ.


Khơng có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc


Nhìn nhau mặt lấm cưới ha ha
Khơng có kính ừ thì ướt áo
Mưa tn mưa xối như ngồi trời
Chưa cần thay lái trăm cây số nữa


Mưa ngừng gió lùa khơ mau thôi


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

một gian lao nguy hiểm. Vậy mà, người lính ln tìm thấy trong khó khăn, gian khổ những
nét đẹp để yêu hơn cuộc sống. Ngang tàng làm sao ngạo nghễ làm sao cái hành động” phì
phèo châm điếu thuốc”. Táo tếu làm sao, lạc quan làm sao cái điệu cười ha ha đầy sảng
khoái. Thơ Phạm Tiến Duật là thế, cứ rạo rực một niềm tin tất thắng.


<b>Chính những cái “khơng có”, chính những cái khó khăn, hiểm nguy đã tạo ra nơi</b>
<b>tầm hồn người lính sự lãng mạn, sự mộng mơ. Thật thú vị khi từ những chiếc xe khơng</b>
kính lại hịa nhập được với vẽ đẹp thiên nhiên đầy chất thơ của núi rừng Trường Sơn


Thấy sao trời và độ ngột cánh chim


Như sa như ùa vào buồng lái


Qua khung cửa của những chiếc xe khơng kính, các anh cảm nhận được khoảng cách
giữa bầu trời và mặt đất như ngắn lại. Dường như cả sao trời và cánh chim đều hòa làm một,
ùa vào buồng lái người chiến sĩ. Có lẽ cả thiên nhiên vạn vật: gió, sao trời, cánh chim… đều
theo người lính ra trận. Điều đó thể hiện một tâm hồn trẻ trung, tươi vui nơi những chàng
lính xế. Vượt lên mọi gian khổ, vượt lên những cái khơng có là tình đồng chí, đồng đội
<b>cao đẹp, thiêng liêng mà xúc động. Chính khung cả kính vỡ lại là điều thú vị để những</b>
người lính gặp mặt nhau với cái bắt tay ân cần thắm thiết qua cửa kính vỡ rồi.


Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi


Có thể nói đây là một chi tiết rất độc đáo thú vị mà nếu không phải là một người quan sát
đến từng chi tiết nhỏ, từng động tác nhỏ thi khó có thể phát hiện được. Phạm Tiến Duật là
như thế, một chi tiết nhỏ cũng có thể làm nên một nghệ sĩ lớn. Và trên mọi cái “không”, trên
những điều đối lập tương phản đã hiện rõ một cái “có”: một trái tim yêu nước, một ý chí
<b>quyết thắng của những người lính trẻ:</b>


Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim


Vẫn là cấu trúc thơ đối lập tương phản giữa cái khơng và cái có, giữa vẽ bề ngồi và
giá trị bên trong mỗi chiếc xe. Câu thơ mang ngữ điệu khẳng đinh, nhấn mạnh “chỉ cần trong
xe có một trái tim”. Hình ảnh trái tim cầm lái là một nghệ thuật hoán dụ đầy ý nghĩa. <b>Trái</b>
<b>tim yêu nước, trái tim cháy bỏng, khát khao được độc lập, thống nhất nước nhà.</b> Có
được một trái tim như thế thì khó khăn gian khổ và những điều khơng có kia có hề gì. Phải
chăng đó là sức mạnh được tạo ra từ tinh thần, từ ý chí nghị lực của những người lính, từ
chính những cái khơng có thiếu thốn kia.



Ai đó khi đọc thơ Phạm Tiến Duật đã khẳng định: “thơ ông độc đáo trong tứ thơ, say
mê trong tình cảm”. Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính quả thật là một tứ thơ độc đáo vì cách
nói “khơng” chính là nghệ thuật địn bẩy làm đậm nét hơn những cái ‘có”. Tứ thơ độc đáo
bởi nghệ thuật đối lập tương phản, tất cả những cái “khơng có” chỉ là bức phông làm tôn nổi
người sáng vẽ đẹp tâm hồn người lính. Cách nói “khơng có” cũng đã tạo nên một giọng điệu
hào hùng, kiêu bạc, hóm hỉnh, tếu táo rất lính – nét đặc sắc trong thơ Phạm Tiến Duật thời
kháng chiến chống Mĩ.


</div>

<!--links-->

×