1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
ĐẶNG THỊ LOAN
THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở XÃ, PHƯỜNG
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỊA BÌNH
TỈNH HỒ BÌNH HIỆN NAY
Chun ngành : Chính trị học
Mã số
: 60 31 02 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Nguyễn Thị Thanh
HÀ NỘI - 2014
2
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng
tơi. Luận văn được hồn thành dưới sự hướng dẫn khoa học của
TS. Nguyễn Thị Thanh. Các số liệu và kết quả nêu trong luận
văn là chính xác, trung thực, bảo đảm tính khách quan khoa học
và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, tin cậy.
Hà Nội, ngày 16 tháng 10 năm 2014
Tác giả luận văn
Đặng Thị Loan
3
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................... 1
Chương 1: DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN .......... 8
1.1. Một số khái niệm cơ bản ......................................................................... 8
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước ta về dân chủ ................................................................................ 15
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG
THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỊA
BÌNH, TỈNH HỊA BÌNH HIỆN NAY ...................................................... 35
2.1. Khái qt tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Hịa Bình .......................... 35
2.2. Những kết quả đạt được trong thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn
thành phố Hịa Bình...................................................................................... 42
2.3. Những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện dân chủ cơ sở tại thành phố
Hịa Bình ...................................................................................................... 68
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC HIỆN PHÁP LỆNH DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HỊA BÌNH, TỈNH HỊA BÌNH HIỆN NAY.................... 77
3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ........................................................ 77
3.2. Một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn dân chủ ở cơ sở trong thời gian
tới................................................................................................................. 81
KẾT LUẬN............................................................................................... 103
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 106
PHỤ LỤC.................................................................................................. 110
TÓM TẮT LUẬN VĂN
4
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BCĐ
: Ban chỉ đạo
CNH, HĐH : Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH
: Chủ nghĩa xã hội
HĐND
: Hội đồng nhân dân
MTTQ
: Mặt trận Tổ quốc
PLDC
: Pháp lệnh dân chủ
QCDC
: Quy chế dân chủ
UBND
: Ủy ban nhân dân
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang trong quá trình giao lưu và hội nhập với các nước trong
khu vực và trên thế giới. Điều đó tạo cho chúng ta nhiều cơ hội nhưng đồng
thời đặt ra nhiều thách thức lớn. Trong quá trình mở cửa hội nhập đã có rất
nhiều những luồng tư tưởng, những sự kiện chính trị cho rằng Đảng, Nhà
nước ta đang mất dân chủ và đã lợi dụng điều đó để chống phá, gây mất lòng
tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước... Vì vậy, trong cơng cuộc đổi mới
hay trong quá trình CNH, HĐH đất nước chúng ta đặc biệt chú trọng đến vấn
đề dân chủ bởi dân chủ là bản chất của chế độ ta. Đảng ta đã khẳng định: Dân
chủ XHCN là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó
giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Xã hội càng phát triển văn minh, nền dân
chủ xã hội càng được mở rộng. Dân chủ là việc tôn trọng và thực hiện quyền
mọi người tham gia bàn bạc, quyết định các công việc chung. Lịch sử Việt
Nam đã chứng minh rõ thắng lợi của quá trình đấu tranh chống giặc ngoại
xâm, chống lại sự hà khắc của thiên nhiên cũng như xây dựng đất nước bởi
đều biết dựa vào sức mạnh của nhân dân. Từ khi nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà ra đời, với quan điểm “lấy dân làm gốc”, Đảng ta và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã dày cơng xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN). Trải
qua gần 70 năm, dân chủ được coi là bản chất của chế độ và nhà nước ta.
Trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng và Nhà nước đều có những chủ
trương, chính sách đảm bảo các giá trị dân chủ được thực hiện, tạo mọi điều
kiện để nhân dân tham gia vào công việc nhà nước và xã hội. Mở rộng dân
chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là
động lực trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Thể chế hoá những quan điểm của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân chủ, Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
2
nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân
dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Nhà
nước ta là nhà nước dân chủ, dân là chủ và dân làm chủ. Để giữ vững và phát
huy được bản chất dân chủ XHCN, điều quan trọng hiện nay là phải phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý và xây dựng
nhà nước mới có thể hồn thành mục tiêu cơng nghiệp hố, hiện đại hố, thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Từ năm 1986, Đảng ta khởi xướng lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, trọng tâm
là phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, các hiện tượng
tiêu cực như tệ quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu gây phiền hà cho dân… ngày
càng trở nên phổ biến. Quyền làm chủ của nhân dân có lúc, có nơi bị vi phạm
nghiêm trọng. Phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” chưa
được thực hiện nghiêm túc, chậm đi vào cuộc sống, việc thực hiện dân chủ của
nhân dân ở một số lĩnh vực cịn hình thức. Vào những năm 1997 - 1998, ở một
số địa phương như Thái Bình, Hải Phịng… đã xảy ra điểm nóng chính trị - xã
hội, nhân dân nổi dậy biểu tình, bắt giam cán bộ, đập phá trụ sở Ủy ban nhân dân
xã, huyện, tỉnh. Phải mất một thời gian dài, dưới sự chỉ đạo của Trung ương
Đảng, Chính phủ, tình hình mới dần ổn định.
Để khắc phục những hiện tượng tiêu cực đó, ngày 18/2/1998 Bộ Chính trị
đã ra Chỉ thị số 30-CT/TW về “Xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”.
Sau đó, Chính phủ ra Nghị định số 29/NĐ-CP ban hành kèm theo Quy chế thực
hiện dân chủ ở xã (sau này được thể chế hóa bằng Nghị định số 79/NĐ-CP, ngày
7/7/2003 ban hành QCDC ở xã; Nghị định số 71/1998/NĐ-CP, ngày 08/9/1998
ban hành Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan; Nghị định
3
07/1999/NĐ-CP ngày 13/2/1999 ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở doanh
nghiệp nhà nước). Phát triển những văn bản trên, Pháp lệnh thực hiện dân chủ
ở xã, phường, thị trấn đã được Uỷ ban thường vụ Quốc hội Việt Nam khố XI
thơng qua vào ngày 20 tháng 4 năm 2007 (Pháp lệnh số 34/2007/PLUBTVQH11) và có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 2007, và
được Chủ tịch nước Việt Nam ra lệnh cơng bố trên tồn quốc. Đây là văn bản
quy định về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn và là văn bản pháp lý
quan trọng nhằm phát huy quyền dân chủ của nhân dân ở xã, phường, thị trấn.
Tính đến nay Pháp lệnh là văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất (không kể
Hiến pháp Việt Nam) quy định về vấn đề dân chủ ở cấp xã. Đây là những văn
bản quan trọng nhằm tiếp tục phát huy quyền làm chủ của nhân dân, từng
bước đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực, tham nḥũng, chuyên quyền độc đoán,
hống hách, xa rời quần chúng, tạo động lực mạnh mẽ trong nhân dân, góp
phần thúc đẩy cơng cuộc đổi mới xây dựng đất nước theo định hướng XHCN.
Qua hơn 5 năm triển khai, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ đảng, sự tham
gia tích cực của các cấp chính quyền, sự đồng tình ủng hộ của nhân dân, việc thực
hiện PLDC ở cơ sở đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng.
Tuy nhiên, việc thực hiện PLDC ở cơ sở còn bộc lộ nhiều yếu kém,
một số cấp uỷ, chính quyền, chưa nhận thức đầy đủ, thiếu tập trung chỉ đạo về
xây dựng và thực hiện quy chế. Ở một số nơi việc thực hiện quy chế còn
mang tính hình thức, nhiều quy định đã ban hành nhưng chưa được thực hiện
nghiêm túc. Nhiều quy chế, quy ước, hương ước cịn dài, có điều chưa sát
thực tế, khó nhớ, khó thực hiện.
Vì vậy, hiện tượng lợi dụng dân chủ, dân chủ quá trớn đang là nguy cơ
đe dọa mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền với nhân dân, gây khơng ít khó
khăn cho việc phát triển kinh tế, ổn định xã hội... Từ thực tiễn trên, tác giả
chọn vấn đề "Thực hiện dân chủ ở xã, phường trên địa bàn thành phố Hịa
Bình tỉnh Hồ Bình hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
4
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay, vấn đề mở rộng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân
được nhiều nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu với nhiều bài viết, nhiều cơng
trình đã được công bố, xuất bản thành sách như:
- Nguyễn Thị Ngân (2003), Quá trình thực hiện QCDC cơ sở ở một số
tỉnh Đồng bằng sông Hồng hiện nay", đề tài khoa học cấp bộ. Tác giả tiến
hành nghiên cứu thực trạng việc thực hiện QCDC cơ sở ở các tỉnh đồng bằng
sơng Hồng, qua đó đề xuất những giải pháp nhằm đẩy mạnh và hoàn thiện
việc thực hiện QCDC ở khu vực này.
- Thái Ninh - Hồng Chí Bảo (1991), Dân chủ tư sản và dân chủ XHCN,
Nxb Sự thật, Hà Nội; Nguyễn Khắc Mai (1997), Dân chủ - di sản văn hóa Hồ
Chí Minh, Nxb Sự thật, Hà Nội. Trong các tác phẩm trên, các tác giả tập trung
làm rõ giá trị nên tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
về dân chủ, dân chủ XHCN, đánh giá khách quan những thành quả, tiến bộ
mà chủ nghĩa tư bản có được cũng như chỉ ra hạn chế do bản chất giai cấp tư
sản quy định, đồng thời nêu bật tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh, dân chủ
gắn với chế độ XHCN ở Việt Nam.
- Nguyễn Đình Lộc (1998), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của
dân, do dân, vì dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nội dung cơ bản của tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới - một nhà nước thật sự của dân, do
dân, vì dân. Kế thừa, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh, thật
sự của dân, do dân, vì dân.
- Dương Xuân Ngọc (2000), Quy chế thực hiện dân chủ cấp xã. Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả phân tích
cơ sở lý luận, khảo sát thực trạng 2 năm thực hiện QCDC ở cấp xã và đề xuất
các quan điểm, giải pháp thực hiện có hiệu quả QCDC ở các vùng nông thôn
Việt Nam.
5
- Nguyễn Cúc (2002), Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình
hiện nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn", Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội. Tác giả đã tập trung làm sáng tỏ một số khía cạnh chủ yếu về lý luận và
thực tiễn của việc thực hiện QCDC ở cơ sở trong tình hình hiện nay ở nước ta.
- Trần Bạch Đằng (2003), Dân chủ ở cơ sở một sức mạnh truyền thống của
dân tộc Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, số 35. Trong bài viết này, tác giả khẳng
định thực hiện dân chủ ở cơ sở là một khâu rất quan trọng nhằm hoàn thiện cơ
chế nhân dân làm chủ xã hội trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Theo tác giả,
đây là một vấn đề không chỉ mang ý nghĩa thời sự mà còn là một sự tiếp nối
truyền thống, phát huy sức mạnh của nhân dân được hình thành trong lịch sử
mấy nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
- Trần Khắc Việt (2004), Thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay, vấn đề đặt
ra và giải pháp, Tạp chí Lý luận chính trị, số 9. Tác giả chỉ ra những vấn đề nảy
sinh trong quá trình thực hiện dân chủ hoá đời sống xã hội ở nước ta, đồng thời
đưa ra những giải pháp nhằm tiếp tục phát huy dân chủ trong tình hình hiện nay.
- Nguyễn Minh Thi (2000), Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở tại các
vùng nông thôn miền núi của tỉnh Bắc Giang hiện nay, Luận văn Thạc sĩ bảo
vệ tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Phan Văn Bình (2001), Thực hiện QCDC ở cơ sở trên địa bàn thành
phố Vinh - Những vấn đề đặt ra và giải pháp", Luận văn Thạc sĩ bảo vệ tại
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Thanh Sơn (2003), Thực hiện quy chế dân chủ ở xã trên địa
bàn tỉnh Sơn La. Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ bảo vệ tại Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Vương Ngọc Thịnh ( 2010), "Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở
trên địa bàn Hoài Đức( Hà Nội)", Luận văn thạc sỹ bảo vệ tại Học viện Chính
trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
6
Ở tỉnh Hồ Bình cho đến nay, ngồi báo cáo sơ, tổng kết việc thực hiện
Chỉ thị 30-CT/TW, ngày 18/2/1998 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng
và thực hiện QCDC ở cơ sở; Chỉ thị 22/1998/CT-TTg, ngày 15/5/1998 của
Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai quy chế thực hiện dân chủ ở xã; Nghị
định 71/1998/NĐ-CP, ngày 08/9/1998 của Chính phủ ban hành quy chế thực
hiện dân chủ trong hoạt động cơ quan; Chỉ thị 10-CT/TW, ngày 28/3/2002 về
tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở.
Đến nay, chưa có cơng trình khoa học nào đề cập riêng đến việc thực hiện
dân chủ tại chính quyền xã, phường trên địa bàn thành phố Hịa Bình, tỉnh Hồ
Bình. Nhìn chung, các bài viết, các cơng trình nghiên cứu của các tác giả nêu
trên đã tập trung làm rõ cơ sở lý luận, ý nghĩa thực tiễn của việc thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở, đồng thời phân tích, lý giải yêu cầu, cách thức tổ chức, biện
pháp để thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở một các khá sâu sắc. Do vậy,
những tài liệu nêu trên sẽ là nguồn tư liệu tham khảo bổ ích đối với tác giả.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận về dân chủ và dân chủ cơ sở, tác
giả đề tài khảo sát thực trạng thực hiện dân chủ ở cấp xã, phường trên địa bàn
thành phố Hịa Bình, tỉnh Hịa Bình hiện nay và đề xuất một số quan điểm, giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện dân chủ cơ sở đáp ứng yêu cầu
của thời kỳ mới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về dân chủ và thực hiện dân chủ ở
cơ sở
- Nghiên cứu thực trạng việc thực hiện dân chủ ở cấp xã, phường trên
địa bàn thành phố Hịa Bình, tỉnh Hồ Bình hiện nay.
- Đề xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực
hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn thành phố Hồ Bình.
7
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Việc thực hiện dân chủ cơ sở ở chính quyền cấp xã, phường trên địa
bàn thành phố Hịa Bình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tiến hành phân tích đánh giá thực trạng thực hiện dân chủ ở
chính quyền cấp xã, phường trên địa bàn thành phố Hịa Bình từ năm 2007
đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận về dân chủ của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và chính sách
của Nhà nước về dân chủ và dân chủ cơ sở.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài sử dụng kết hợp một
số phương pháp nghiên cứu: logic, lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp. Bên
cạnh đó đề tài còn điều tra khảo sát thực tiễn, nghiên cứu tài liệu...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Luận văn đóng góp một phần nhỏ vào việc nghiên cứu lý luận đi đến
thống nhất nhận thức và hành động trong quá trình xây dựng, thực hiện dân
chủ cơ sở ở Hồ Bình. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài
liệu tham khảo bổ ích cho Ban chỉ đạo thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã,
phường, thị trấn ở Hồ Bình hiện nay.
Ngồi ra, cịn có thể dùng làm tài liệu tham khảo đối với những địa
phương khác có đặc điểm tương đồng với Hồ Bình.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương 7 tiết.
8
Chương 1
DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm dân chủ
Dân chủ là một khái niệm đa nghĩa, phức tạp. Nó ln là vấn đề tế nhị
và nhạy cảm trong chính trị. Từ lâu, vấn đề này đã thu hút được sự quan tâm,
chú ý và gây nhiều tranh cãi của các học giả và chính khách ở nhiều quốc gia.
Cách đây hàng ngàn năm trước công nguyên( từ cuối xã hội cơng xã ngun
thuỷ) do lợi ích chung của cộng đồng, con người đã biết cử ra người đứng đầu
để thực thi công việc chung của cộng đồng. Đồng thời người đứng đầu cộng
đồng cũng có thể bị phế bỏ nếu chính họ vi phạm nội quy của cộng đồng.
Việc cử ra hay phế bỏ người đứng đầu đều do quyền và sức lực của dân quyết
định. Về thực chất đó chính là dân chủ.
Dân chủ là từ ghép bởi hai chữ Hy Lạp démos và kratos có nghĩa là nhân
dân và chính quyền. Từ thời Hy Lạp cổ đại, dân chủ đã được hiểu là “quyền lực
thuộc về nhân dân”, hoặc “nhân dân cai trị”. Ngày nay, có rất nhiều quan niệm,
định nghĩa khác nhau về dân chủ, nhưng cốt lõi nhất của dân chủ vẫn là quyền
làm chủ của nhân dân đối với quyền lực nhà nước. Sự khác nhau căn bản giữa
các nền dân chủ chỉ là ở chỗ ai được coi là nhân dân của nó.
Khi nói đến dân chủ là nói đến quyền của nhân dân đối với quyền lực
nhà nước được thiết lập như thế nào. Dân chủ được thể chế hóa thành chế độ
dân chủ. Chế độ đó thể hiện trong kinh tế, chính trị, xã hội. Chế độ đó khi
được định hình thành nề nếp, thành lối sống, thành văn hóa thì đó là nền dân
chủ. Nền dân chủ là một cơ cấu xã hội với tư cách là một hệ thống, một chỉnh
thể được vận hành theo những quy luật khách quan nhất định. Lịch sử nhân
loại đã trải qua các mơ hình dân chủ điển hình:
- Nền dân chủ quân sự cuối thời kỳ cộng sản nguyên thủy.
9
- Nền dân chủ chủ nô Hy Lạp, La Mã cổ đại.
- Nền dân chủ tư sản.
- Nền dân chủ XHCN.
Dân chủ là sản phẩm tiến hóa của lịch sử và chỉ tồn tại trong một thời
kỳ lịch sử nhất định. Nhà nhân chủng học người Mỹ đầu thế kỷ XIX,
L.Moocgan đã nhận xét trong xã hội cộng sản nguyên thủy toàn thể các thành
viên của thị tộc đều là những người tự do, có nghĩa vụ bảo vệ tự do của nhau,
họ đều có quyền cá nhân ngang nhau, cả tù trưởng lẫn thủ lĩnh qn sự đều
khơng địi hỏi những quyền ưu tiên nào cả, họ kết thành một tập thể thân ái,
gắn bó với nhau bởi những quan hệ dịng máu. Tự do, bình đẳng, bác ái tuy
chưa bao giờ được nêu thành công thức nhưng vẫn là những nguyên tắc cơ
bản của thị tộc. Lực lượng sản xuất dần phát triển, sự phân công lao động
trong xã hội đã làm nảy sinh mâu thuẫn và nhà nước đã ra đời.Ngay từ khi
mới ra đời, giai cấp chủ nô dùng pháp luật để lập ra nhà nước thơng qua bầu
cử và họ gọi đó là nhà nước dân chủ( từ cí thế kỷ VIII đến thế kỷ VI. CN ở
Aten và Hy Lạp cổ). Giai cấp chủ nô quy định trong luật: Chỉ ai là dân mới
được tham gia bầu cử nhà nước. Nhưng dân theo quan niệm của họ lại chỉ bao
gồm giai cấp chủ nô, tăng lữ, thương gia, một số trí thức và người tự do. Đa
số cịn lại khơng phải là dân mà là người nơ lệ - những "cơng cụ biết nói" nên
không được tham gia vào việc của nhà nước. Như vậy về thực chất, nhà nước
dân chủ chủ nô không phải là một nhà nước dân chủ bởi lẽ quyền lực của dân
đã bị giai cấp chủ nô chiếm đoạt.
Chế độ chuyên chế phong kiến là một bước phát triển mới so với xã hội
chiếm nô nhưng bản chất đây là một nhà nước độc đoán, chuyên quyền kết
hợp với thế lực thần quyền nên nhân dân hầu như bị gạt bỏ khỏi cơ chế quyền
lực, bị mất hết quyền lực và họ là những "thần dân".
Đến thế kỷ XVI, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa dân được hình
thành ở các nước phương Tây. Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, nhà nước dân
10
chủ tư sản được thành lập và đã đạt được những thành tựu to lớn trong việc
thực thi dân chủ. Tuy chế độ dân chủ tư sản tuy là một bước tiến bộ lịch sử
lớn lao so với thời trung cổ nhưng vẫn là nền dân chủ phục vụ giai cấp tư sản,
quyền lực thực sự vẫn tập trung vào giới chủ. Đúng như C.Mác đã nhận xét:
Bầu cử tự do trong chủ nghĩa tư bản biến thành "tự do" của nhân dân lựa chọn
những người thống trị mình, tuyệt nhiên không phải là sự lựa chọn những
người đại diện cho lợi ích của mình. Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư
bản của giai cấp vô sản, chủ nghĩa Mác – Lênin đã ra đời. Đó là một hệ thống
lý luận về một chế độ dân chủ kiểu mới của giai cấp vơ sản đã ra đời, đó là lý
luận về nhà nước vô sản với chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, quyền lực
chính trị thuộc về đại đa số nhân dân lao động, khơng có áp bức bóc lột, mọi
người đều tự do, bình đẳng. Và đó chính là nền dân chủ XHCN. Theo các
ơng, dấu hiệu đặc trưng cơ bản của chế độ dân chủ là chế độ nhà nước thể
hiện ra là một trong những tính quy định, cụ thể là sự tự quy định của nhân
dân. Dưới chế độ dân chủ, không phải con người tồn tại vì luật pháp, mà luật
pháp tồn tại vì con người. Khi đã xây dựng được một “chế độ dân chủ thực
sự” thì “nhà nước chính trị”, theo cách diễn đạt của C.Mác là bộ máy nhà
nước, cơng cụ bạo lực khơng cịn nữa. [9, tr.35]
Phát triển tư tưởng của Mác và Ăngghen, Lênin khẳng định rằng “chế
độ dân chủ là một hình thức nhà nước, một trong những hình thái của nhà
nước. Chế độ dân chủ cũng là nhà nước, do đó nhà nước mà mất đi thì chế độ
dân chủ cũng mất theo” [31, tr.24]. Lênin cũng như C.Mác cho rằng Công xã
Paris là hình thức nhà nước dân chủ nhất cuối cùng cũng đã được tìm ra. Mơ
hình nhà nước này sau được áp dụng trong Cách mạng 1905 - 1907 và Cách
mạng tháng Mười ở nước Nga, gọi là các xô viết công - nông - binh. Trong
các xô viết, nhân dân trực tiếp tự quyết định luật lệ, tự thi hành các luật lệ đó
và tự xét xử những ai vi phạm luật lệ của xơ viết. Để có một nhà nước như
11
vậy, V.I.Lênin cho rằng: “Cần xây dựng ngay chế độ dân chủ, bắt đầu từ cơ
sở, dựa vào sáng kiến của bản thân quần chúng, với sự tham gia thực sự của
quần chúng vào tất cả đời sống của nhà nước, khơng có sự giám sát từ trên,
khơng có quan lại”. [30, tr.336-337]. Các cấp trên của cơ sở sẽ là đại biểu các
xô viết cho đến Xô viết tối cao. Mơ hình này được xây dựng trong thực tiễn
sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917.
Như vậy, chủ nghĩa Mác -Lênin đã đề cập đến những nội dung cơ bản
nhất về khái niệm dân chủ. Trong đó các ơng nhấn mạnh đến sự tham gia của
nhân dân vào công việc quản lý nhà nước, quản lý các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Quán triệt sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề này
sẽ góp phần to lớn vào cơng cuộc xây dựng CNXH ở nước ta.
Nói tóm lại, dân chủ theo nghĩa thơng thường trong xã hội là chế ddooj
chính trị trong đó quyền làm chủ thuộc về nhân dân. Với nghĩa đó, dân chủ
phải đảm bảo được các đặc trưng tương ứng sau:
- Nhân dân bầu cử hệ thống chính trị
- Hai nguyên tắc cơ bản của chế độ đó là mọi cơng dân bình đẳng tiếp
cận chính quyền và mọi cơng dân được hưởng quyền tự do
- Hình thức thực hiện quyền dân chủ: phổ thông đầu phiếu, nhân dân ủy
quyền, mọi hoạt động đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của nhân dân.
- Quyền dân chủ phải được ghi nhận và đảm bảo thực hiện thông qua
Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật khác.
1.1.2. Khái niệm cơ sở và dân chủ ở cơ sở
Dân chủ là quyền làm chủ thuộc về nhân dân. Tuy nhiên, quan niệm về
nhân dân trong mỗi chế độ xã hội, mỗi hình thức dân chủ lại hồn tồn khác
nhau. Và nó chỉ ngun nghĩa tức nhân dân là tồn bộ những người dân bao
gồm mọi tầng lớp dân cư trong xã hội có quyền bình đẳng như nhau thì chỉ ở
xã hội XHCN. Và như vậy nền dân chủ XHCN phải được thực hiện ở tất cả
12
các cấp, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, do đặc điểm của cơ sở,
nên việc thực hiện dân chủ ở đây có vị trí đặc biệt quan trọng.
Cơ sở được hiểu là đơn vị ở cấp dưới cùng, nơi trực tiếp thực hiện các
hoạt động sản xuất, công tác… của một hệ thống tổ chức, trong quan hệ với
các bộ phận lãnh đạo cấp trên. Trong hệ thống chính trị, kinh tế - xã hội của
nước ta có nhiều loại hình cơ sở. Đối với hệ thống tổ chức hành chính 4 cấp:
Trung ương, tỉnh (thành), huyện (quận) và xã (phường, thị trấn) của Nhà nước
ta thì xã, phường, thị trấn là các đơn vị hành chính cơ sở (thường được gọi tắt
là cơ sở).
Cơ sở luôn gắn liền với đời sống hàng ngày của quần chúng nhân dân.
Quần chúng nhân dân là những người sản xuất trực tiếp ra những giá trị vật
chất và sáng tạo ra những giá trị tinh thần. Họ là những người gắn bó mật
thiết với địa bàn cư trú của mình được gọi là cơ sở. Ở đó nhân dân thực hiện
quyền làm chủ của mình bằng hai hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại
diện. Trong đó dân chủ trực tiếp là hệ thống báo động nhạy cảm nhất với
những vấn đề về chính trị, kinh tế, văn hóa. Dân chủ trực tiếp giúp cho Đảng
và Nhà nước kiểm nghiệm chính sách, pháp luật một cách nhanh nhất, sát với
thực tế khách quan, khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí, tăng cường mối liên
hệ mật thiết giữa chính quyền với nhân dân.
Tăng cường, hồn thiện và thực hiện dân chủ thực sự là mục tiêu lâu
dài và thường xuyên của Đảng và Nhà nước ta. Mỗi bước phát triển của dân
chủ phải được ghi nhận bởi các quy định của pháp luật. Song việc phát huy và
mở rộng dân chủ phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội, trình dộ
dân trí, truyền thống văn hóa, phong tục tập quán của mỗi cộng đồng, dân chủ
phải gắn liền với kỷ cương, phép nước. Nếu không sẽ trở thành dân chủ quá
trớn, vô chính phủ. Và đó cũng là lý do, là kẽ hở để các thế lực phản động và
thù địch lợi dụng lơi kéo nhân dân chống phá chính quyền.
13
Thực hiện dân chủ cơ sở là con đường ngắn nhất và hiệu quả nhất để
mọi công dân được hưởng quyền dân chủ một cách trực tiếp và rộng rãi nhất.
Đây là động lực mạnh mẽ để đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Tuy nhiên, việc thực hiện
dân chủ ở cơ sở là cả quá trình lâu dài, phải tiến hành từng bước từ thấp đến
cao, từ chưa hồn thiện đến hồn thiện. Khơng thể sốt ruột, khơng vì những
hiện tượng tiêu cực hay những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân
ở nơi này, nơi khác, lúc này lúc khác mà phủ nhận hay mất niềm tin vào khả
năng thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Đánh giá 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ đi lên CNXH( 1991 – 2011), Đảng ta đã nhận định : "Dân chủ XHCN
có bước phát triển. Quyền của cơng dân tham gia vào các công việc nhà nước
và xã hội, xây dựng các quyết định quan trọng của Đảng và Nhà nước được
mở rộng và có tiến bộ. Trình độ và năng lực làm chủ của nhân dân từng bước
được nâng lên"[7, tr73]. Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN của dân,
do dân, vì dân do đó pháp luật thực sự dân chủ nhằm bảo vệ quyền lợi chính
đáng, cơng bằng, bình đẳng cho mọi người. Pháp luật XHCN là hệ thống các
quy tắc xử sự thể hiện ý chí của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động,
dưới sự lãnh đạo của Đảng do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện bằng
sức mạnh cưỡng chế của nhà nước trên cơ sở giáo dục, thuyết phục mọi người
tôn trọng và thực hiện. Pháp luật đảm bảo thực hiện nền dân chủ XHCN, phát
huy quyền lực của nhân dân, đảm bảo công bằng xã hội. Dân chủ được thể
chế hóa thành pháp luật. Những quyền tự do, dân chủ của công dân phải được
quy định cụ thể trong pháp luật, Nhà nước phải đảm bảo cho cơng dân thực
hiện các quyền đó trong khn khổ luật định đồng thời pháp luật cũng quy
định những nghĩa vụ tương ứng mà công dân phải thực hiện.
Tuy nhiên, quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh
vực cịn bị vi phạm. Khơng ít trường hợp việc thực hành dân chủ còn mang
14
tính hình thức, có nơi, có lúc cịn biểu hiện lợi dụng dân chủ khiếu kiện đông
người, vượt cấp hoặc gấy mất đoàn kết nội bộ, gây rối ảnh hưởng đến trật tự
an tồn xã hội. Tình trạng quan liêu, khơng thực sự tơn trọng dân chủ cịn khá
nặng trong bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức. Năm 1998, Bộ Chính trị
Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng đặt ra vấn đề dân chủ tại xã trong đó có nêu
việc "phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thu hút nhân dân tham gia
quản lý Nhà nước... để khắc phục tình trạng suy thối, quan liêu, mất dân chủ
và nạn tham nhũng". Và có đề cập đến "khâu quan trọng và cấp bách trước
mắt" là "phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở".
Sau khi có chỉ đạo của Bộ Chính trị, Chính phủ Việt Nam đã ban hành
các Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11 tháng 5 năm 1998 (sau được sửa
đổi bằng Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 07 tháng 7 năm 2003) kèm theo
Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn quy định các nội dung,
phương thức và trách nhiệm của chính quyền cấp xã trong việc thực hiện
quyền dân chủ của nhân dân. Đây được coi là những văn bản pháp lý quan
trọng, thể chế hoá phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra của
Đảng Cộng sản.
Đến văn kiện đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ X đã lặp lại chủ
trương "Xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và cơng
chức phải thật sự là công bộc của nhân dân. Xác định các hình thức tổ chức và
có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền dân chủ trên các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hố, xã hội. Đề cao trách nhiệm của các tổ chức Đảng, Nhà
nước đối với nhân dân" và có nhấn mạnh "Phát huy dân chủ là vấn đề có ý
nghĩa chiến lược đối với tiến trình phát triển nước ta".
Chiều ngày 29 tháng 1 năm 2007, tại ngày làm việc thứ 3 của phiên họp
thứ 46 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các thành viên của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội đã thảo luận về dự án Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường,
15
thị trấn. Mục đích là để người dân được bàn và quyết định những nội dung
liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của nhân dân tại cấp xã, cộng đồng
dân cư thôn và tổ dân phố và đã thảo luận sôi nổi về chủ đề này nhưng thống
nhất chung là phải chỉnh sửa văn bản cũ.
Trên cơ sở sao chép lại những nội dung Quy chế thực hiện dân chủ ở xã
năm 2003 của Chính phủ đồng thời để nâng cao tính pháp lý của vấn đề, ngày
20 tháng 4 năm 2007, Uỷ ban thường vụ Quốc hội Việt Nam khố XI đã
thơng qua Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
Trước tình hình đó, Uỷ ban thường vụ quốc hội khoá XI đã ban hành
Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn( Pháp lệnh số 34/2007/PL
- UBTVQH11 ngày 20 tháng 4 năm 2007). Đây là văn bản quy định về thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn và là văn bản pháp lý quan trọng nhằm
phát huy quyền dân chủ của nhân dân ở xã, phường, thị trấn. Tính đến nay
Pháp lệnh là văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất (không kể Hiến pháp Việt
Nam) quy định về vấn đề dân chủ ở cấp xã. Vậy Pháp lệnh dân chủ ở xã,
phường, thị trấn là văn bản pháp lý quan trọng nhằm phát huy quyền dân chủ
của nhân dân ở cơ sở.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước ta về dân chủ
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về dân chủ
và thực hiện dân chủ ở cơ sở
Trong lịch sử nước ta, đại đoàn kết toàn dân tộc là yêu cầu tất yếu
khách quan của cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước. Ngay từ khi ra đời,
cộng đồng dân tộc Việt Nam đã phải không ngừng đấu tranh với thiên nhiên,
đấu tranh chống giặc ngoại xâm để giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc. Từ
khi có Đảng lãnh đạo, đại đồn kết dân tộc được nâng lên một tầm cao mới.
Đảng ta khẳng định rằng: Để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải phát
16
huy dân chủ trong mọi đời sống xã hội. Chỉ có phát huy quyền làm chủ thực
sự của nhân dân, thực hiện dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra trong quá
trình hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách mới phát huy
được sức sáng tạo của nhân dân, huy động được sức mạnh tổng hợp của nhân
dân, củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, nhà nước với nhân dân, thực
hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng.
Quan điểm coi trọng sức dân, lấy dân làm gốc của Đảng ta hiện nay là
sự kế thừa quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong suốt cuộc đời hoạt
động của mình, vấn đề trung tâm trong suy nghĩ và hành động của Người là
xây dựng một nhà nước dân chủ, nhà nước của dân, do dân và vì dân. Kế thừa
và phát huy truyền thống lịch sử, văn hoá của dân tộc, tiếp thu và vận dụng
những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin vào hồn cảnh Việt Nam, Hồ Chí
Minh đã đưa ra những quan điểm của mình về dân chủ và về Nhà nước kiểu
mới. Dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh là “Của quý báu nhất của nhân dân”;
thực hành dân chủ là “chìa khố vạn năng” để giải quyết mọi vấn đề. Hồ Chí
Minh quan niệm: “Dân chủ nghĩa là dân là chủ và dân làm chủ” [29, tr. 77].
Theo Hồ Chí Minh, dân chủ trong lĩnh vực chính trị là dân làm chủ nhà
nước, nhà nước là của dân, do dân, vì dân, do Đảng cộng sản lãnh đạo, thực
hiện dân chủ với đa số nhân dân và chuyên chính với thiểu số phản động,
chống lại nhân dân. Bởi vậy, để hiểu được tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền
làm chủ của nhân dân phải tìm hiểu tư tưởng của Người về nhà nước. Thực
thể chính trị đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân.
Ngay từ năm 1927, trong tác phẩm Đường kách mệnh Người đã chỉ rõ,
"chúng ta đã hi sinh làm kách mệnh thì nên làm cho đến nơi nghĩa là làm kách
mệnh rồi thì giao quyền cho dân chủ số nhiều chớ để trong tay một bọn ít
người. Thế mới khỏi bị hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh
phúc". Sau cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ
17
Cộng hoà ra đời, bản Hiến pháp đầu tiên do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì
soạn thảo đã nêu rõ: “Nước Việt Nam là nước dân chủ, Nhà nước Việt Nam là
Nhà nước do nhân dân lao động làm chủ... tất cả quyền bính trong nước là
của tồn thể nhân dân Việt Nam khơng phân biệt nịi giống, gái, trai, giàu
nghèo, giai cấp, tôn giáo” [21].
Tư tưởng “dân là chủ” được Hồ Chí Minh nhắc lại nhiều lần sau khi
nước độc lập, khi miền bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Dân là chủ, nghĩa là
trong xã hội Việt Nam, nhân dân là người chủ của nước, nước là nước của
dân, các cơ quan Đảng và nhà nước là tổ chức được dân uỷ thác làm công vụ
cho dân. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nếu nước độc lập mà dân khơng được
hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập ấy cũng chẳng nghĩa lý gì. Giá trị cao nhất
của độc lập dân tộc là đem lại quyền làm chủ thực sự cho dân, phải trao lại
cho dân mọi quyền hành.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định chỉ có một nền dân chủ thực sự,
đó là nền dân chủ của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản. Ý tưởng đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản
Việt Nam thực hiện ngay sau thắng lợi của cách mạng tháng Tám
năm 1945. Bất chấp thù trong, giặc ngồi đang rắp tâm tiêu diệt
chính quyền non trẻ, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ
trương kiên quyết tiến hành tổng tuyển cử dân chủ bầu ra Quốc hội
đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ vào ngày 6/1/1946.
Đó là một chủ trương đúng đắn và sáng suốt của Người, đáp ứng
khát vọng dân chủ của nhân dân sau những đêm dài nô lệ nên được
nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng. Cổ động, kêu gọi nhân dân đi bỏ
phiếu bầu Quốc hội, Người đã viết: “Ngày mai, là một ngày vui
sướng của đồng bào ta, vì ngày mai là ngày tổng tuyển cử, vì ngày
mai là ngày đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mà nhân dân bắt đầu
18
hưởng dụng quyền dân chủ của mình... Ngày mai dân ta sẽ tự do
lựa chọn bầu ra những người xứng đáng thay mặt cho mình gánh
vác việc nước” [29, tr.133].
Kết quả là hơn 90% cử tri cả nước đi bỏ phiếu; kẻ thù phải bó tay trước
khí thế mạnh mẽ của nhân dân. Tổng tuyển cử dân chủ đầu tiên ở nước ta đã
bầu ra Quốc hội mà số đại biểu là công nhân, nông dân, chiến sỹ cách mạng
chiếm tới 82,7%, đặc biệt có 10 đại biểu nữ. Đó thực sự là Quốc hội của nhân
dân, là nghị viện của nhân dân. Trong bối cảnh vận nước như “ngàn cân treo
sợi tóc”, thắng lợi đó khơng chỉ thể hiện quyết tâm, sự lãnh đạo tài tình, mưu
lược của Đảng và Hồ Chí Minh, mà cịn khẳng định sự tin tưởng sâu sắc của
Đảng và Hồ Chí Minh đối với nhân dân cũng như của nhân dân đối với sự
lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ. Điều đáng nói là Quốc hội mới được bầu đã
bắt tay ngay vào việc xây dựng Hiến pháp. Hiến pháp năm 1946 chính là Hiến
pháp dân chủ đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ, đặt nền móng
cho một nhà nước kiểu mới, nhà nước dân chủ nhân dân và cũng là bản Hiến
pháp dân chủ, tiến bộ nhất Đông Nam Á lúc đó.
Theo Người, quyền quyết định của nhân dân về các vấn đề liên quan
đến vận mệnh quốc gia “những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa
ra nhân dân phúc quyết” [21, tr 32]. Thực chất đó là chế độ trưng cầu ý dân,
một hình thức dân chủ trực tiếp được đề ra khá sớm ở nước ta.
Nhà nước của dân là Nhà nước đại diện cho ý chí và quyền lợi của
nhân dân. Nhà nước của dân phải bằng mọi nỗ lực hình thành các thiết chế
dân chủ để thực thi quyền làm chủ của nhân dân. Người dân được hưởng mọi
quyền dân chủ, có quyền làm bất cứ việc gì pháp luật khơng cấm, và có nghĩa
vụ tuân theo pháp luật.
Nhà nước do dân là các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa
phương đều do dân trực tiếp và gián tiếp bầu ra; nhân dân bầu ra đại biểu
19
Quốc hội và bầu ra đại biểu hội đồng nhân dân các cấp; Quốc hội bầu ra bộ
máy nhà nước ở Trung ương; Hội đồng nhân dân các cấp bầu ra bộ máy nhà
nước ở địa phương. Nhà nước đó do dân phê bình, xây dựng, giúp đỡ. Hồ Chí
Minh yêu cầu tất cả các cơ quan nhà nước phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt
chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và sự kiểm soát của nhân dân.
Nhà nước vì dân là Nhà nước vừa thực hiện chức năng quản lý xã hội
vừa phục vụ cho lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; các cơ quan, cán
bộ, công chức nhà nước đều là công bộc của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: Chỉ có nhà nước thực sự của dân, do dân tổ chức, xây dựng và
kiểm sốt mới có thể là nhà nước vì dân. Nhà nước vì dân là nhà nước phục
vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, khơng có đặc quyền đặc lợi, thật sự
trong sạch, cần kiệm liêm chính. Trong bài báo “chính phủ là cơng bộc của
dân” đăng trên báo Cứu quốc ngày 19/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ
rất rõ về trách nhiệm của chính quyền và cán bộ đối với dân. Người viết: “...
các cơng việc của Chính phủ phải làm nhằm mục đích duy nhất là mưu tự do
hạnh phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ, nhân dân bao giờ cũng phải
đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì có hại đến dân, ta phải hết sức tránh”.
Hồ Chủ tịch nhấn mạnh nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội
và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng
với sự tín nhiệm của nhân dân. Cán bộ nhà nước phải là đầy tớ của nhân dân,
đồng thời là người lãnh đạo nhân dân. Đầy tớ thì phải trung thành, tận tuỵ,
cần kiệm, liêm chính, chí cơng, vơ tư, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ.
Người lãnh đạo phải trí tuệ hơn người, minh mẫn, sáng suốt, nhìn xa, trơng
rộng, gần gũi nhân dân, trọng dụng hiền tài. Như vậy, người thay mặt nhân
dân phải đủ cả đức và tài, vừa hiền lại vừa minh.
Quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện thông qua dân chủ trực
tiếp và dân chủ đại diện. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân,
20
cơ quan quyền lực cao nhất của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam. Quyền lực
nhà nước là thống nhất đồng thời có sự phân cơng, phối hợp giữa các cơ quan
nhà nước:
- Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp và quyền giám sát.
- Chính phủ thực hiện quyền hành pháp.
- Viện kiểm sát, Toà án nhân dân thực hiện quyền tư pháp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Làm sao cho nhân dân biết hưởng
quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm” [41, tr.
279, 280]. “Để phát triển ưu điểm, điều quan trọng nhất là để cho dân nói.
Dân biết nhiều việc mà các cấp lãnh đạo khơng biết. Việc gì cũng bàn với
dân, dân sẽ có ý kiến hay” [42, tr. 420].
Hồ Chí Minh cịn là người lên án mạnh mẽ tệ quan liêu, mệnh lệnh, cửa
quyền, tham ơ, lãng phí. Người coi tham ơ là trộm cắp, cịn lãng phí tuy
khơng lấy của dân đút lót song cũng rất tai hại cho nhân dân, cho Chính phủ,
có khi cịn tác hại hơn cả nạn tham ô và quan liêu, tham ơ, lãng phí hồn tồn
trái với bản chất của nhà nước dân chủ mới. Người cho rằng quan liêu, tham
ô, lãng phí có quan hệ mật thiết với nhau và đều là một thứ giặc (giặc nội
xâm), là kẻ thù vơ cùng nguy hiểm vì nó nằm ngay trong các tổ chức của
chúng ta. Vì vậy, Người coi chống tham ô, quan liêu, lãng phí là rất quan
trọng, cần kíp như đánh giặc trên mặt trận; chống tham ô, quan liêu, lãng phí
là cách mạng, là dân chủ.
Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh là một trong những di sản tư tưởng
quý báu mà Người để lại cho chúng ta. Cho đến hơm nay tư tưởng đó vẫn cịn
vẹn nguyên giá trị trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nền dân chủ
của dân, do dân và vì dân.
Vận dụng, học tập tư tưởng của Người, trong suốt chặng đường lãnh
đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn luôn tôn trọng và phát huy quyền làm
21
chủ của nhân dân nên đã tạo được sức mạnh vô địch, đánh thắng mọi kẻ thù,
giành được độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Cương lĩnh chính trị (3/2/1930) của Đảng đã xác định: “Cách mạng
Việt Nam là tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng”; đồng thời
chỉ rõ nhiệm vụ: “Đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp và giai cấp phong kiến,
làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, nhân dân được tự do, lấy ruộng
đất của đế quốc làm của cơng và chia cho dân nghèo...tổ chức ra chính quyền
công nông binh” [19, tr.15].
Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và truyền thống của dân tộc, Đảng ta đã có nhận thức rất sớm và sâu sắc về
vấn đề dân chủ. Đại hội Đảng lần thứ VI (từ ngày 15 đến 18/12/1986) mở đầu
công cuộc đổi mới, với thái độ nghiêm túc “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá
đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đảng ta rút ra bốn bài học, trong đó bài học đầu
tiên là: Trong tồn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy
dân làm gốc”, xây dựng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Đại hội Đảng lần thứ VII (từ ngày 24 đến ngày 27/6/1991) thông qua
cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, với nhiệm vụ
sửa đổi hệ thống tổ chức nhà nước, cải cách bộ máy hành chính, kiện tồn các
cơ quan pháp luật để thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý của nhà nước.
Đại hội Đảng lần thứ VIII (từ ngày 28/6 đến 1/7/1996) đã xác định xây
dựng Nhà nước XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do
Đảng lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ
cương xã hội, chuyên chính với mọi hoạt động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc
và của nhân dân.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII, Hội nghị lần thứ ba
Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII về phát huy quyền làm chủ của nhân