Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Phân tích điều 14 hiến pháp 2013 Nguyên tắc công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân và hạn chế quyền con người, quyền công dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (53.95 KB, 4 trang )

NGUYÊN TẮC CÔNG NHẬN, TÔN TRỌNG, BẢO VỆ,
BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
(ĐIỀU 14 HIẾN PHÁP NĂM 2013)
Nguyên tắc công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm là một trong những nguyên tắc
quan trọng được nêu trong bản HP2013, là sự phát triển cũng như là một bước tiến toàn
diện về cả nhận thức lẫn cách thức thể hiện trong suốt chiều dài lịch sử lập pháp của Nhà
nước ta về vấn đề nhân quyền.
Các bản Hiến pháp trước năm 1992 không thực sự thừa nhận và tồn tại của quyền
con người mà chỉ tồn tại quyền công dân bởi hai lí do chính:
1. Xuất phát từ tư duy có phần sai lầm của các nhà lập hiến xã hội chủ nghĩa nói
chung và các nhà lập hiến Việt Nam nói riêng đó là đồng nhất quyền con người và quyền
cơng dân làm một, trong khi đó hai phạm trù này tuy đồng dạng nhưng không đồng nhất,
ta thấy rõ nhất ở ba điểm lớn là chủ thể, nội dung và giá trị:
a) Xét về mặt chủ thể quyền, nội hàm của quyền con người rộng hơn quyền công
dân và không bị giới hạn bởi tiêu chí quốc tịch của mỗi cá nhân như quyền công dân.
b) Xét về mặt nội dung quyền, quyền công dân được xây dựng trên cơ sở tôn trọng
quyền con người và quyền con người chỉ có thể được đảm bảo bằng những quy định về
quyền công dân trong pháp luật mỗi quốc gia.
c) Xét về mặt giá trị, quyền con người mang tính tồn cầu và cả tính địa phương, tùy
thuộc vào sự phát triển kinh tế, tình hình chính trị, xã hội, đặc tính dân tộc, văn hóa,
truyền thống…mỗi quốc gia.
2. Trước năm 1992 trong bối cảnh “đóng cửa khép kín”, các nhà lập hiến từng nhận
thức quyền con người là một phạm trù mang tính chất nội bộ. Với tư cách là một quốc gia
có chủ quyền độc lập thì việc quy định quyền con người như thế nào tùy thuộc vào ý chí
của Nhà nước, căn cứ vào trình độ kinh tế, văn hóa, xã hội, khơng thể áp đặt nhân quyền
của Mỹ cho Việt Nam cũng như tồn thế giới. Nói khác đi, chủ quyền quốc gia phải được
đặt trên nhân quyền.
Thế nhưng, Điều 50 HP1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001, sau đây gọi là
HP1992) là một dấu mốc quan trọng, đánh dấu lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến của Việt
Nam đã chính thức thừa nhận sự tồn tại của quyền con người cùng với quyền cơng dân:
“Ở nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự,




kinh tế, văn hóa và xã hội được tơn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy
định trong Hiến pháp và pháp luật”. Việc thừa nhận quyền con người bởi hai lí do chính:
1. Trong xu thế hội nhập đổi mới, người Việt Nam đã có điều kiện được nhận thức
lại rằng quyền con người và quyền công dân không đồng nhất ở ba điểm lớn đã nghiên
cứu ở trên. Đặc biệt, trong xu hướng toàn cầu hóa về nhân quyền thì con người là một
thực thể có hai tư cách: là cơng dân của một Nhà nước và là thành viên của cộng đồng
nhân loại.
2. Vào tháng 10 năm 1948, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua Tuyên ngôn
Nhân quyền quốc tế, khẳng định quyền con người là các quyền tự nhiên, vốn có, không
thể chuyển nhượng của các cá nhân và đưa ra những trừng phạt nghiêm khắc đối với bất
cứ hành vi nào áp bức bóc lột, phân biệt đối xử con người được coi là man rợ, xa lánh
con người. Để hưởng ứng các tuyên ngôn của Liên hợp quốc, các quốc gia trên thế giới,
trong đó có Việt Nam, đã ký kết các điều ước quốc tế song phương/đa phương nhằm bảo
vệ quyền con người, và khi đã ký kết thì các quốc gia phải có nghĩa vụ tơn trọng các cam
kết quốc tế đó.
Có thể thấy, bảo vệ nhân quyền trong xu thế hội nhập đổi mới đã không còn chỉ là
câu chuyện của nội bộ mà là một vấn đề mang tính tồn cầu, là câu chuyện mang tính
quốc tế hóa. Nhân quyền giờ đây khơng chỉ là thành tựu của Anh, Pháp, Mỹ mà đã trở
thành văn minh nhân loại. Nói khác đi, nhân quyền là trên hết và nhân quyền phải đặt
trên chủ quyền.
Tuy nhiên, ta vẫn có thể thấy được Điều 50 HP1992 vẫn cịn những hạn chế, thiếu
sót. Thái độ của Nhà nước trước vấn đề quyền con người được đề cập trong Điều 50 là
“tôn trọng”, cho thấy sự không rõ ràng, như hơ hào cho có, chưa thực sự thể hiện sự cứng
rắn của Nhà nước về việc bảo vệ và bảo đảm các quyền con người trước sự xâm phạm.
Ngoài ra, việc quy định quyền con người “thể hiện qua các quyền công dân” đã làm thu
hẹp đi phạm trù quyền con người bởi quyền con người không chỉ được thể hiện ở các
quyền cơng dân mà cịn được thể hiện thông qua các quyền của nhiều chủ thể khác như
quyền của người khơng quốc tịch, người nước ngồi,…

Rút kinh nghiệm, Điều 14 HP2013 đã sửa đổi, bổ sung hợp lý hơn, cụ thể ở Khoản 1
Điều 14: “1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền
cơng dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được cơng nhận, tơn trọng, bảo vệ,
bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Ở đây đã bỏ đi đoạn “được thể hiện ở các quyền
công dân” và quy định đầy đủ các thái độ của Nhà nước đối với quyền con người:


- Công nhận: Nhà nước thừa nhận nhân quyền thông qua hoạt động ký kết các điều
ước song phương/đa phương về quyền con người.
- Tôn trọng: Nhà nước thừa nhận nhân quyền với thái độ trân trọng bởi nhân quyền
đã trở thành văn minh nhân loại và với việc ký kết các điều ước quốc tế về quyền con
người, Đảng và Nhà nước ta có nghĩa vụ tơn trọng các cam kết quốc tế đó.
- Bảo vệ: Nhà nước sử dụng sức mạnh về cả vật chất lẫn pháp lý để đứng ra bảo vệ
quyền con người khi quyền con người bị xâm phạm.
- Bảo đảm: Không chỉ ghi nhận và bảo vệ quyền con người, Nhà nước cịn có trách
nhiệm tạo mọi điều kiện về vật chất và cả pháp lý để thực thi nhân quyền trong đời sống
thực tế.
Ngồi ra, HP2013 cịn quy định thêm một điều khoản hoàn toàn mới, cụ thể là
Khoản 2 Điều 14: “2. Quyền con người, quyền cơng dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy
định của luật trong trường hợp cần thiết vì lí do quốc phịng, an ninh quốc gia, trật tự, an
ninh xa hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Để hiểu thêm về sự ra đời của điều
khoản vô cùng mới lạ này, ta sẽ đi vào phân tích sâu hơn, bắt đầu vào thời kỳ trước năm
1992 cho đến hiện nay.
Vào khoảng thời gian trước năm 1992 từng tồn tại một nhận thức rất phổ biến là
quyền công dân sẽ do Hiến pháp và pháp luật quy định. Chính nhận thức này đã dẫn tới
hệ lụy vô cùng nguy hiểm là các cơ quan nhà nước tùy tiện xâm phạm nhân quyền. Hệ
thống pháp luật Việt Nam được chia ra làm hai loại: những văn bản có giá trị là luật (Hiến
pháp, luật do Quốc hội ban hành) và những văn bản có giá trị dưới luật (Hướng dẫn luật,
phù hợp với các đạo luật). Vì vậy, nếu hiểu quyền cơng dân do pháp luật quy định có
nghĩa đương nhiên thừa nhận các cơ quan bộ máy nhà nước có quyền ban hành các văn

bản pháp luật về quyền và nghĩa vụ của công dân một cách tùy tiện và không phù hợp.
Rút kinh nghiệm, Điều 51 HP1992 đã chính thức quy định “quyền và nghĩa vụ của
công dân do Hiến pháp và luật quy định”, tức chỉ có Quốc hội bằng những văn bản có giá
trị luật là các đạo luật mới có quyền quy định các quyền và nghĩa vụ của công dân, cịn
các cơ quan nhà nước khơng được bằng những văn bản có giá trị dưới luật quy định về
quyền và nghĩa vụ của công dân. Tuy nhiên, trong quá trình hơn 10 năm thực thi quy định
này thì đã có nhiều bất cập và khơng phù hợp với đời sống pháp lý của Việt Nam ở chỗ
tính chất vơ đũa cả nắm: ở Việt Nam văn bản dưới luật có nhiều loại và khơng phải loại
nào cũng có nguy cơ vi phạm nhân quyền. Ví dụ, Nghị định của Chính phủ có ba loại:


1. Nghị định khơng đầu: lĩnh vực đó chưa có luật điều chỉnh, Chính phủ sẽ ra Nghị
định để tạm thời điều chỉnh, tức đang thúc đẩy nhân quyền.
2. Nghị định có đầu: lĩnh vực đó có luật do Quốc hội ban hành điều chỉnh nhưng
chưa rõ, Chính phủ ban hành Nghị định để làm rõ, tức cũng đang thúc đẩy nhân quyền.
3. Nghị định quản lý: có nguy cơ vi phạm nhân quyền.
Có thể thấy, việc khơng cho các cơ quan nhà nước ban hành các văn bản dưới luật
để quy định về nhân quyền tại Điều 51 HP1992 là khơng hợp lý, bởi những văn bản dưới
luật có nhiều loại, khơng phải loại nào cũng có nguy cơ vi phạm nhân quyền mà cịn có
các văn bản có tác dụng thúc đẩy nhân quyền.
Để khắc phục những hạn chế, thiếu sót, bất cập trong Điều 51 HP1992, HP2013 đã
bổ sung thêm Khoản 2 tại Điều 14 về hạn chế quyền con người, quyền công dân. Khoản
2 Điều 14 HP2013 quy định rõ quyền con người và quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế
vì một số lí do cụ thể “trong trường hợp cần thiết” và “theo quy định của luật”, tức chỉ có
Quốc hội bằng 1 đạo luật trong những trường hợp thật sự cần thiết được nêu trong Khoản
2 mới được hạn chế quyền con người, quyền công dân. Các cơ quan nhà nước không thể
ban hành những văn bản dưới luật để hạn chế quyền con người, quyền công dân nhưng
nếu để thúc đẩy nhân quyền thì khơng cấm, từ đó có thể ngăn chặn tối đa vấn đề các cơ
quan nhà nước xâm phạm một cách tùy tiện nhân quyền mà vẫn có thể bảo đảm, bảo vệ
nhân quyền.

Các sửa đổi, bổ sung, bố cục lại quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân của HP2013 đã khẳng định vai trò quan trọng của chế định này, cho
thấy rõ sự chuyển biến tích cực về nhận thức và tư duy trong việc ghi nhận quyền con
người trong Hiến pháp. HP2013 đã thể hiện nhất quán đường lối của Đảng và Nhà nước
ta trong việc công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân, phù hợp các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là
thành viên, khẳng định cam kết mang tính hiến định của Nhà nước trước Nhân dân và
trước cộng đồng quốc tế về trách nhiệm tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy quyền
con người, quyền công dân ở Việt Nam.



×