Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Báo mạng điện tử với vấn đề quản lý chất lượng truyền thông cho đồng bào dân tộc thiểu số (khảo sát 3 tờ báo điện tử www baoyenbai com vn; baokontum com vn; baosoctrang org vn từ tháng 12019 đến tháng 62019)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.9 MB, 125 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGUYỄN QUỲNH THƢƠNG

BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ VỚI VẤN ĐỀ
QUẢN LÝ CHẤT LƢỢNG TRUYỀN THÔNG CHO
ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
(Khảo sát 3 trang báo điện tử : www.baoyenbai.com.vn;
baokontum.com.vn; baosoctrang.org.vn )
Chuyên ngành: Quản lý Phát thanh – truyền hình và Báo mạng điện tử
Mã số: 8 32 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Trƣờng Giang

HÀ NỘI - 2019


Luận văn đã đƣợc chỉnh sửa theo khuyến nghị của Hội đồng chấm
luận văn thạc sĩ.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 20


CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG

PGS.TS. Mai Đức Ngọc


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học do chính tơi
thực hiện. Luận văn được nghiên cứu một cách nghiêm túc, thực hiện và hoàn
thiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Nguyễn Thị Trường Giang.
Tài liệu và số liệu được sử dụng trong luận văn là hồn tồn trung thực,
có nguồn gốc rõ ràng, cụ thể, tin cậy và được trích dẫn đầy đủ theo đúng quy
định. Kết quả nghiên cứu trong luận văn khơng trùng lặp với những cơng
trình khoa học đã được công bố trước đây.

Tác giả luận văn

Nguyễn Quỳnh Thƣơng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CHẤT LƢỢNG
TRUYỀN THÔNG CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ TRÊN
BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ VIỆT NAM HIỆN NAY ........................................... 9
1.1. Những khái niệm cơ bản ....................................................................... 9
1.2. Chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp quản lý chất lượng
truyền thông cho đồng bào dân tộc thiểu số .............................................. 21
1.3. Đặc điểm, nguyên tắc, vai trò của quản lý chất lượng truyền thông cho
đồng bào dân tộc thiểu số trên báo mạng điện tử ở Việt Nam hiện nay........ 27
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ VỚI VẤN ĐỀ

QUẢN LÝ CHẤT LƢỢNG TRUYỀN THÔNG CHO ĐỒNG BÀO
DÂN TỘC THIỂU SỐ ...........................................................................................39
2.1. Thực trạng việc truyền thông cho đồng bào dân tộc thiểu số ........... 39
2.2. Khái quát về những tờ báo chọn để khảo sát ..................................... 45
2.3. Khảo sát vấn đề quản lý chất lượng truyền thông cho Đồng bào dân
tộc thiểu số của 3 tờ báo mạng điện tử (Báo Sóc Trăng Online, Báo Yên
Bái Online và báo Kon Tum Online từ tháng 1 đến tháng 6/2019) ......... 50
2.4. Đánh giá về thành công và hạn chế của vấn đề quản lý chất lượng
truyền thông cho Đồng bào dân tộc thiểu số ............................................. 67
CHƢƠNG 3: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG
HIỆU QUẢ VIÊC QUẢN LÝ CHẤT LƢỢNG TRUYỀN THÔNG CHO
ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ TRÊN BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ THỜI
GIAN TỚI....................................................................................................................72
3.1. Những vấn đề đặt ra ............................................................................. 72
3.2. Một số giải pháp tăng cường quản lý truyền thông cho đồng bào dân
tộc thiểu số trên báo mạng điện tử trong thời gian tới. ............................. 78
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ .....................................................................91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................95
PHỤ LỤC ...................................................................................................................99
TÓM TẮT LUẬN VĂN .......................................................................................119


DANH MỤC ẢNH, BẢNG
Ảnh 2.1: Giao diện báo Kon Tum Online ............................................................45
Ảnh 2.2: Giao diện báo Yên Bái Online ..............................................................47
Ảnh 2.3: Giao diện báo Sóc Trăng Online ..........................................................49
Bảng 2.1: Tỷ lệ tin bài có nội dung truyền thơng cho đồng bào DTTS ....................55
Bảng 2.2: Tỷ lệ tin, bài có nội dung về văn hóa – xã hội ...........................................58



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Dân tộc thiểu số : DTTS
Báo mạng điện tử: BMĐT


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở nước ta có 54 dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đó các dân tộc
ít người chiếm khoảng 11% dân số nước ta. Trong suốt q trình đấu tranh
cho hịa bình dân tộc thì lực lượng đến từ các dân tộc ít người đã góp vào
đó một phần khơng nhỏ. Điều đó cho thấy được mối liên kết cộng đồng bền
vững và sự đoàn kết của cả dân tộc ta.
Hiện nay, cùng với hệ thống chính trị, các phương tiện truyền thơng
đại chúng nói chung và báo chí nói riêng đã làm tốt vai trị của mình trong
việc làm “cầu nối”, cụ thể hóa các chính sách, chủ trương của Đảng và nhà
nước đến với đồng bào các dân tộc thiểu số (DTTS). Lượng thơng tin trên
báo chí trở thành cẩm nang, tài liệu truyền đạt những kinh nghiệm phát
triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống, từng bước làm thay đổi nếp nghĩ,
cách làm; đóng góp tích cực vào việc ổn định đời sống, nâng cao dân trí,
bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc của đồng
bào các DTTS.
Tuy nhiên, truyền thông phục vụ cho đồng bào DTTS vẫn còn rất
nhiều hạn chế. Là kênh tuyên truyền, phục vụ cho đồng bào nhưng vẫn cịn
nhiều điểm bất cập, khó khăn chưa được khắc phục, vẫn chưa có được
nhiều tác phẩm xuất sắc, mang hơi thở cuộc sống của đồng bào. Những khó
khăn trong cuộc sống của đồng bào vẫn còn chưa được phát hiện kịp thời
và phản ánh thực sự chân thực. Điều này địi hỏi cơng tác truyền thơng phải
có đổi mới nhằm phù hợp hơn, tác động tích cực hơn đến cuộc sống của

đồng bào các DTTS.
Hiện nay, chất lượng truyền thơng cho người đồng bào DTTS vẫn
cịn khá nhiều những hạn chế, đặc biệt là hoạt động truyền thông trên một
loại hình báo chí mới là BMĐT. Cho đến nay, thì việc truyền thơng cho


2
đồng bào các DTTS trên BMĐT cũng đã có những hoạt động cụ thể nhất
định. Thông qua các tờ báo, đã có nhiều chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước, cũng như chương trình, dự án quốc gia về vấn đề phát triển
cho các dân tộc đến được với đồng bào DTTS. Tuy nhiên, vẫn còn khá
nhiều rào cản khiến cho việc tiếp cận với truyền thông của đồng bào DTTS
trở nên khó khăn hơn. Tình trạng bất đồng về ngơn ngữ, tỷ lệ đọc thơng
viết thạo cịn thấp, truyền thông vẫn chủ yếu bằng tiếng Việt hay thiếu
phương tiện tiếp cận truyền thông đã khiến cho công tác này chưa mang lại
được hiệu quả cao như mong muốn, hiệu quả truyền thông cho người
DTTS vẫn chưa thực sự tốt.
Bên cạnh đó, đằng sau mỗi một hoạt động truyền thơng đều có dấu
ấn của hoạt động quản lý. Từ sau khi hoạt động truyền thông cho đồng bào
DTTS trên BMĐT được khởi động, việc quản lý chất lượng truyền thơng
cho đồng bào DTTS trên loại hình báo chí này cũng bắt đầu và cũng đã có
được những thành cơng. Tuy nhiên, việc quản lý chất lượng truyền thông
trên BMĐT vốn là đã là việc làm khó thì ở đây, vấn đề quản lý chất lượng
truyền thông cho đồng bào DTTS trên BMĐT lại càng khó khăn hơn bao
giờ hết, đó thực sự là một “vấn đề” hóc búa đối với những người làm công
tác quản lý.
Mặt khác, như đã nói ban đầu, nước ta có 54 dân tộc anh em, trong
đó có 53 dân tộc là DTTS sống rải rác khắp cả nước. Xét về địa lí, nước ta
được chia thành nhiều vùng nhỏ, nhưng nơi mà đồng bào dân tộc thiểu số
tập trung sinh sống đông đúc hơn cả thì phải đề cập đến các vùng như Tây

Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam bộ. Tuy nhiên, do phạm vi khảo sát của cả 3
vùng địa lý này là khá rộng, nên ở luận văn này, tác giả chỉ xin được khảo
sát tại 3 tờ báo điện tử của 3 tỉnh tiêu biểu là báo Kon Tum Online (Tây
Nguyên), báo Yên Bái Online (Tây Bắc) và báo Sóc Trăng Online (Tây
Nam Bộ).


3
Với mong muốn đánh giá đúng thực trạng việc quản lý chất lượng truyền
thơng cho người DTTS, để tìm ra được những thuận lợi, những khó khăn của
cơng tác này. Từ đó có thể phát triển những thuận lợi và khắc phục những khó
khăn, tìm ra những giải pháp khả thi nhất giúp mang lại hiệu quả cao cho công
tác quản lý chất lượng truyền thông cũng như công tác truyền thơng đến đồng
bào DTTS, góp phần phát triển đất nước. Tôi quyết định chọn đề tài: “Báo mạng
điện tử với vấn đề quản lý chất lượng truyền thông cho đồng bào dân tộc thiểu
số (Khảo sát 3 tờ báo điện tử: www.baoyenbai.com.vn; baokontum.com.vn;
baosoctrang.org.vn từ tháng 1/2019 đến tháng 6/2019)” cho Luận văn Thạc
sĩ Báo chí học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những đề tài về báo mạng điện tử khơng cịn q xa lạ, nhưng đề tài
“Báo mạng điện tử với vấn đề quản lý chất lượng truyền thơng cho
đồng bào dân tộc thiểu số” thì lại là một đề tài còn khá mới mẻ. Những tài
liệu có liên quan chủ yếu có nội dung tách rời giữa BMĐT và vấn đề truyền
thơng cho người DTTS.
Trước đó, đã có khá nhiều tài liệu được nghiên cứu liên quan tới
những vấn đề xung quanh đề tài ở báo mạng điện tử và cả những loại hình
báo chí khác. Phải kể đến như:
- Cuốn sách: “Truyền thông đại chúng” của tác giả GS.TS. Tạ
Ngọc Tấn (Nxb Chính trị Quốc Gia, 2001) đã nêu được những vấn đề lí
luận cơ bản của truyền thơng nói chung và các loại hình truyền thơng nói

riêng, trong đó có Báo mạng điện tử.
- Cuốn sách: “Báo mạng điện tử-những vấn đề cơ bản” của
PGS.TS Nguyễn Thị Trường Giang (Nxb Chính trị - Hành chính, 2011) đã
đưa ra được những vấn đề lí luận cơ bản của thể loại báo mạng điện tử.
- Cuốn sách: “Báo mạng điện tử- Đặc trưng và phương pháp sáng
tạo” do TS. Đỗ Trí Nhiệm và TS. Nguyễn Thị Trường Giang đồng chủ


4
biên (Nxb Chính trị Quốc gia, 2014) đã cho thấy được những đặc trưng của
thể loại báo mạng điện tử, cũng như cách thức, phương thức mà báo mạng
điện tử sử dụng trong công tác truyền thông.
- Cuốn sách “Lãnh đạo và quản lý hoạt động báo chí ở Việt Nam
hiện nay” của Hồng Quốc Bảo, (Nxb Chính trị- Hành chính, 2010) khơng
chỉ cung cấp cho người học tri thức về lãnh đạo, quản lý báo chí mà cịn
góp phần quan trọng vào việc hình thành năng lực tham mưu, lãnh đạo, chỉ
đạo của Đảng và năng lực tham gia vào việc tổ chức thực hiện sự quản lý
nhà nước đối với hoạt động báo chí của người cán bộ văn hóa- tư tưởng ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Cơng trình nghiên cứu: Các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ XX,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001.
- Cuốn sách “Truyền thông phát triển – truyền thông dân tộc:
Những vấn đề lý luận và thực tiễn (Nghiên cứu trường hợp vùng Tây Bắc
Việt Nam)” của PGS.TS Đặng Thị Thu Hương làm chủ biên (Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2018) cũng đã phần nào nói lên được thực trạng vấn đề
truyền thơng cho người DTTS ở vùng Tây Bắc nước ta, những thuận lợi,
khó khăn trong công tác truyền thông cũng được thể hiện khá rõ ràng.
Mặc dù đã có rất nhiều những cơng trình nghiên cứu liên quan đến
đề tài nhưng chưa có sự gắn kết nào giữa BMĐT với việc truyền thông cho
đồng bào DTTS. Vì vậy, tác giả xin khẳng định, đề tài “Báo mạng điện tử

vấn đề quản lý chất lƣợng truyền thông cho đồng bào dân tộc thiểu số”
là một đề tài hoàn toàn mới chưa từng được nghiên cứu trước đây.
Đề tài này có thể sẽ giúp ích rất nhiều cho việc giữ ổn định và phát
triển công tác truyền thơng, phát triển kinh tế, văn hóa xã hội cho vùng các
dân tộc tộc thiểu số.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là hệ thống hóa những vấn đề lý luận
và thực tiễn của đề tài, khảo sát vấn đề nghiên cứu vấn đề quản lý chất


5
lượng truyền thông cho đồng bào DTTS trên BMĐT, để từ đó đề xuất
những giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả về vấn đề
này trong thời gian tới.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên, tác giả luận văn phải
thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu chính sau đây:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến đề tài.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng vấn đề quản lý chất lượng
truyền thông cho đồng bào dân tộc thiểu số trên báo Yên Bái Online, báo
Kon Tum Online và báo Sóc Trăng Online trong thời gian từ tháng 1/2019
đến tháng 6/2019, từ đó rút ra được những thành công và hạn chế trong
công tác quản lý chất lượng truyền thông cho đồng bào dân tộc thiểu số.
- Đề xuất những giải pháp phù hợp và kiến nghị nâng cao chất lượng
vấn đề này trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề quản lý chất lượng truyền
thông cho đông bào dân tộc thiểu số trên báo mạng điện tử hiện nay.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài này tập trung khảo sát trên 3 tờ báo điện tử là báo Yên Bái Online
(www.baoyenbai.com.vn); báo Kon Tum Online (www.baokontum.com.vn) và
báo Sóc Trăng Online (www.baosoctrang.org.vn) trong thời gian từ tháng
1/2019 đến tháng 6/2019. Lí do tác giả chọn các cơ quan báo chí trên làm phạm
vi nghiên cứu đề tài của mình là do Yên Bái, Kon Tum và Sóc Trăng là các địa
phương tiêu biểu cho các vùng địa lý Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ. Số
lượng đồng bào dân tộc thiểu số tập trung ở những địa phương này cũng là đơng
đúc và đa dạng nhất. Chính vì vậy mà công tác truyền thông cho đồng bào dân
tộc thiểu số ở những địa phương này luôn được chú trọng. Hơn nữa, khoảng thời


6
gian từ tháng 1 đến tháng 6 là nửa đầu năm, tập trung nhiều lễ hội của các dân
tộc khác nhau, chính vì vậy mà cơng tác truyền thơng, quảng bá cũng được
nâng cao đặc biệt.
5. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở lí luận
Luận văn này dựa trên những nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lenin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng và Nhà nước về công
tác quản lý, về vấn đề truyền thơng cho đồng bào dân tộc thiểu số, những
chính sách đối với người dân tộc thiểu số, cơ sở lí luận chung về báo mạng
điện tử, những tài liệu có liên quan tới vấn đề báo mạng điện tử và người
dân tộc thiểu số để nghiên cứu.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, tác giả phải sử dụng những
phương pháp nghiên cứu chính sau:
- Phương pháp luận: Dùng để luận giải, giải thích những vấn đề lí
luận của luận văn nhằm đưa ra cái nhìn chính xác, khoa học nhất cho
những vấn đề đó.

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Được dùng để phân tích tài liệu,
phân tích ví dụ, số liệu để từ đó tổng hợp lại thành nội dung cần thiết sử
dụng cho luận văn.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Dùng để nghiên cứu, tập hợp
những tài liệu liên quan đến việc truyền thông cho đồng bào DTTS, quản lý
chất lượng truyền thơng cho đồng bào DTTS, từ đó rút ra những luận điểm,
luận cứ, luận chứng phục vụ cho quá trình nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp nội dung: Dùng để phân tích chất
lượng truyền thơng, thực trạng việc quản lý chất lượng truyền thông cho
đồng bào DTTS trên BMĐT.


7
- Phương pháp phỏng vấn sâu: Dùng để phỏng vấn nhà báo, nhà
quản lý báo chí, người nghiên cứu báo chí về chất lượng truyền thơng và
vấn đề quản lý chất lượng truyền thông, nhằm thu thập những ý kiến và
quan điểm của họ cũng như những giải pháp trong vấn đề này. Cụ thể, luận
văn sử dụng phương pháp này để phỏng vấn 3 trường hợp là nhà báo
Nguyễn Thanh Chi (báo Yên Bái), nhà báo Đỗ Tuấn Anh (thường trú
TTXVN tại Yên Bái) và nhà báo Tạ Đình Nghĩa (Phó Chủ tịch Hội nhà báo
Sóc Trăng).
Ngồi các phương pháp chính, tác giả cịn sử dụng các phương pháp
khác như: thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp,….để thực hiện luận văn
của mình.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Luận văn đã đóng góp những vấn đề lí luận và thực tiễn trong cơng
tác quản lý báo chí nói chung cho khối kiến thức về báo chí truyền thơng
hiện nay.
- Luận văn đã mang lại cái nhìn khái quát về công tác quản lý chất
lượng truyền thông cho đồng bào DTTS trên báo chí nói chung và trên

BMĐT nói riêng.
- Luận văn cũng đã đưa ra được những giải pháp chung và cụ thể
nhằm trả lời được câu hỏi: “Làm thế nào để tăng cường việc quản lý chất
lượng truyền thông cho đồng bào DTTS trên BMĐT ở nước ta hiện nay?”.
7. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của đề tài
7.1. Ý nghĩa lí luận
Luận văn sẽ đóng góp thêm lí luận về cơng tác quản lý chất lượng
truyền thông cho đồng bào DTTS. Cụ thể là sự ổn định trong các bài báo,
trong từng nội dung truyền thông, cách đưa thông tin đến với đồng bào dân
tộc và cách tiếp thu ý kiến từ họ để có được hiệu quả truyền thơng cao nhất,
góp phần phát triển kinh tế, văn hóa vùng đồng bào các DTTS ở nước ta.


8
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Qua khảo sát các trang báo điện tử với những bài viết phục vụ cho
công tác truyền thông đến vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và phân tích
cụ thể, tác giả sẽ bước đầu hiểu được thực trạng tình hình truyền thơng của
các trang báo đó, rút ra được những thế mạnh để phát huy và những điểm
yếu cần khắc phục.
Bên cạnh đó, chất lượng nội dung truyền thông cho vùng đồng bào
các dân tộc thiểu số cũng được tiếp cận một cách tương đối chính xác.
Từ đó, luận văn này sẽ giúp ích cho sự cải tiến và nâng cao hiệu quả,
chất lượng truyền thông cho đồng bào người DTTS.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm có 3 chương sau:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về quản lý chất lượng truyền thông cho
đồng bào dân tộc thiểu số trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
Chƣơng 2: Thực trạng báo mạng điện tử với vấn đề quản lý chất

lượng truyền thông cho đồng bào dân tộc thiểu số
Chƣơng 3: Những vấn đề đặt ra và giải pháp nhằm tăng hiệu quả
việc quản lý chất lượng truyền thông cho đồng bào dân tộc thiểu số trên
báo mạng điện tử thời gian tới


9

CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CHẤT LƢỢNG TRUYỀN THÔNG
CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
TRÊN BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Những khái niệm cơ bản
1.1.1. Đồng bào dân tộc thiểu số
Khái niệm “đồng bào DTTS” là một khái niệm được tổng hợp lại từ
hai khái niệm là “đồng bào” và “DTTS”. Như vậy ở đây, ta cần bóc tách
riêng hai khái niệm nêu trên để có được một cách nhìn hồn chỉnh nhất.
Ở một số những tài liệu chữ Hán không do người Việt biên soạn
cũng có thể dễ dàng bắt gặp khái niệm này. Chẳng hạn như Từ điển HánViệt do Hầu Hàn Giang và Mạch Vĩ Lương cùng chủ biên giảng đồng bào
là anh chị em ruột [3; tr, 663]. Mặt khác, trang Chinese-English Dictionary
Online (www.chinese-learner.com/dictionary) lại giảng là “fellow citizen
or countryman”, tức đồng bào là người dân cùng một nước [46].
Thực tế cho thấy, đồng bào đơn giản chỉ có nghĩa là người dân có
cùng quốc tịch, là cơng dân của cùng một nước, cùng chung sống ở một
quốc gia, vùng lãnh thổ. Những người có cùng quốc tịch nhưng sinh sống ở
vùng lãnh thổ, quốc gia khác được gọi là “kiều bào”. Ở đây, khái niệm
đồng bào hồn tồn có thể được sử dụng cho 54 dân tộc anh em ở nước ta,
và đây cũng là thuật ngữ được sử dụng thường xuyên nhất khi nhắc đến các
DTTS ở nước ta.
Tiếp đến, DTTS là cách gọi nhằm phân biệt phân biệt giữa các dân

tộc ít người với các dân tộc đa số mà tiêu chí phổ biến là xem xét tỉ lệ dân
số của dân tộc đó trong tỷ lệ dân số quốc gia. Thuật ngữ “thiểu số” hay “ít
người” cũng đều mang hàm nghĩa giống nhau, tuy nhiên thuật ngữ “thiều
số” được sử dụng nhiều và rộng rãi hơn.


10
Theo đó, khái niệm DTTS dùng để chỉ những dân tộc có số người ít,
chiếm tỉ lệ thấp trong lượng dân số của một quốc gia đa dân tộc. Khái niệm
DTTS khơng có ý nghĩa biểu thị tương quan so sánh về DTTS giữa các
quốc gia trong khu vực và trên Thế giới.
Trong Từ điển Bách khoa 1995 có ý kiến cho rằng: DTTS là dân tộc có số
dân ít cư trú trong cộng đồng quốc gia nhiều dân tộc (có 1 dân tộc đa số) sống ở
vùng hẻo lánh, ngoại vi, vùng ít phát triển về kinh tế, xã hội [39; tr520].
Bên cạnh đó, DTTS có thể coi là một khái niệm dùng để chỉ sự tương
quan về số dân giữa các dân tộc trong một quốc gia đa dân tộc. DTTS
không mang ý nghĩa phân biệt địa vị, trình độ phát triển của các dân tộc.
Địa vị, trình độ phát triển của mỗi dân tộc bị chi phối bởi những điều kiện
kinh tế, chính trị, xã hội, lịch sử của từng dân tộc chứ không phải do số dân
ít hay nhiều quy định.
Ở Việt Nam, DTTS được hiểu là những dân tộc có số dân chiếm tỷ
trọng thấp trong tương quan dân số. Nước ta có hơn 90 triệu dân, trong đó,
dân tộc Kinh chiếm gần 90% dân số, hơn 10% còn lại là số dân của 53 dân
tộc anh em, được coi là DTTS trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Như vậy, khái niệm “đồng bào DTTS” ở đây được hiểu là cộng đồng
những dân tộc ít người sống trong cùng một đất nước, một vùng lãnh thổ.
Ở nước ta, thuật ngữ “đồng bào DTTS” được sử dụng để gọi tên 53 dân
tộc anh em (trừ dân tộc Kinh). Thuật ngữ này tạo nên sự gần gũi, gắn kết
các dân tộc trên cả nước với nhau, hàm ý rằng tuy mỗi dân tộc có sự khác
biệt nhất định nhưng cũng đều là người trong cùng một đất nước.

1.1.2. Báo mạng điện tử
Năm 1997, sự ra đời của Tạp chí Q hương có địa chỉ là
Quehuongonline.vn đã đánh đấu sự ra đời của BMĐT tại Việt Nam. Sự
kiện có ý nghĩa mở đường này đã vạch ra một bước tiến quan trọng cho


11
lịch sử báo chí nước nhà, ghi thêm tên một thành viên mới vào danh sách
các loại hình báo chí ở nước ta.
Nhận thấy thế mạnh đặc biệt của BMĐT, hàng loạt cơ quan báo chí
cũng đã tiến hành thử nghiệm và lần lượt xuất bản ấn phẩm của mình trên
mạng Internet. Cùng với đó, những tờ BMĐT độc lập cũng bắt đầu xuất
hiện. Tuy nhiên, vì cịn rất mới nên BMĐT vẫn cịn gặp phải rất nhiều
những khó khăn. Bên cạnh đó, khái niệm về loại hình báo chí này vẫn còn
khá mơ hồ, dễ gây nhầm lẫn.
Trên thế giới, cũng như ở Việt Nam đang tồn tại rất nhiều những
cách gọi khác nhau đối với loại hình này như: Báo điện tử, báo trực tuyến,
báo mạng, báo chí Internet và BMĐT. Hiện nay, BMĐT đang là loại hình
báo chí được sử dụng nhiều và rộng rãi nhất, nhắm đến hầu hết mọi đối
tượng công chúng. Thông điệp truyền thơng trên BMĐT được phát ngơn
hồn chỉnh cả về nội dung, hình thức và được truyền tải thơng qua BMĐT
dành cho một hoặc một nhóm đối tượng trong hồn cảnh cụ thể nhằm
hướng tới mục tiêu của chiến dịch truyền thơng.
Theo mục 6, điều 3, chương I Luật Báo chí 2016, khái niệm báo điện tử
được hiểu là loại hình báo chí sử dụng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được
truyền dẫn trên môi trường mạng, gồm báo điện tử và tạp chí điện tử [22].
Hiện nay ở Việt Nam có 2 mơ hình tờ báo điện tử. Thứ nhất, những
tờ báo điện tử có bản in, đài phát thanh, đài truyền hình tương ứng. Theo
mơ hình này, tờ báo điện tử chỉ là một ấn phẩm của cơ quan báo chí, ví như
Tuổi trẻ Online là một ấn phẩm của báo Tuổi trẻ.... Cơng việc chính của

phóng viên, biên tập viên là lựa chọn, biên tập lại những tin bài, ảnh từ các
nguồn thông tin khác nhau. Thứ hai, những tờ báo điện tử chỉ phát hành
trên mạng (chẳng hạn như Vnexress.net). Những tờ báo điện tử theo mơ
hình này có xu hướng chun nghiệp cao, mang tính độc lập, được tổ chức
theo mơ hình mục lục và chun mục, kết hợp với các bình luận, đưa ra các


12
cây thư mục, các chuyên đề thông tin về mọi mặt của đời sống. Nó cung
cấp cho người đọc lượng thông tin lớn đã được viết, tập hợp, tuyển chọn,
biên tập từ nhiều nguồn thông tin khác nhau.
Theo PGS.TS Nguyễn Thị Trường Giang (Học viên Báo chí &
Tuyên truyền), khái niệm BMĐT là một loại hình báo chí được xây dựng
dưới hình thức của một trang web, phát hành trên mạng Internet, có ưu thế
trong chuyển tải thơng tin một cách nhanh chóng, tức thời, đa phương tiện
và tương tác cao. Đến nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất, tuy
nhiên, thuật ngữ BMĐT lại được sử dụng rộng rãi và hạn chế được sự
nhầm lẫn với các loại hình khác [14; tr66].
Như vậy, ở luận văn này, khái niệm BMĐT được hiểu là một loại
hình báo chí mới, được phát hành trên mạng internet, mang lại lượng
thông tin lớn, chuyển tải thơng tin nhanh chóng và có tính tương tác cao.
Là loại hình báo chí ra đời muộn, BMĐT lại gặt hái được những
thành công lớn là nhờ có nhiều điểm, phù hợp với nhu cầu của cơng chúng.
Theo chỉ thị số 52-CT/TW ngày 22/07/2005 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng về phát triển và quản lý báo điện tử ở nước ta hiện nay thì “Báo điện
tử có tác dụng và tiện ích hơn hẳn các loại hình báo chí truyền thơng khác,
dung lượng thơng tin rất lớn, tương tác thông tin nhanh, phát hành không bị
trở ngại về không gian và thời gian. Từ khi ra đời, báo điện tử nước ta đã
góp phần quan trọng vào việc phổ biến, tuyên truyền chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, mở rộng hiệu quả thơng

tin đối ngoại, nâng cao dân trí và thỏa mãn nhu cầu thơng tin, hưởng thụ
văn hóa của nhân dân,..”[7]. Từ đó, có thể nhận định một số ưu điểm của
BMĐT như sau:
Thứ nhất, BMĐT có những lợi thế về dung lượng truyền tải mà báo in,
phát thanh hay truyền hình khơng có được. BMĐT khơng bị giới hạn về


13

khn khổ hay số trang nên nó có thể truyền tải thơng tin khơng giới hạn. Vì
vậy, nó có thể cung cấp một lượng thông tin rất lớn, phong phú và chi tiết.
Thứ hai, BMĐT không bị phụ thuộc vào khoảng cách địa lý nên
thơng tin có thể được chuyển tải đến mọi nơi trên tồn cầu. Nó có thế tiếp
cận với độc giả ở khắp mọi nơi, miễn là nơi đó có đường dây điện thoại, có
di động hay phủ sóng vệ tinh.
Thứ ba, BMĐT đã tạo ra bước ngoặt về quy trình sản xuất thơng tin.
Thơng tin từ khi thu nhận đến khi phát hành đều được xử lý rất nhanh chóng
với những thao tác hết sức đơn giản. Tất cả các bước trong một công đoạn và
tất cả cơng đoạn trong một quy trình sản xuất thơng tin trên BMĐT có thể chỉ
cần 1 người cũng có thể hồn thành. Do vậy mà chi phí cho cả người sản xuất
và công chúng đều sẽ tiết kiệm hơn các loại hình báo chí khác.
Thứ tư, BMĐT là sự tổng hợp của cơng nghệ đa phương tiện. Nó
khơng chỉ chuyển tải văn bản, hình ảnh như báo in mà cịn có cả âm thanh,
video như phát thanh, truyền hình. Thậm chí cịn có cả những chương trình
tương tác. Điều này khiến BMĐT có khả năng tạo nên một sức mạnh
truyền thông mới.
Thứ năm, tốc độ truyền thông tin cực nhanh và tần suất truyền tin
lớn. Bất cứ khi nào có thơng tin mới, BMĐT cũng có thể đưa lên. Do vậy
mà thơng tin trên BMĐT có thể được cập nhật từng giờ, từng phút, tức thời
và ngay lập tức mà không cần phải đợi đến giờ ra báo, phát sóng như các

loại hình báo chí khác. Đây cũng là loại hình báo chí ln sống 24/7. Nhờ
vậy mà nó có thể tiếp cận được với hầu hết các đối tượng cơng chúng. Có
thể nói, BMĐT chính là sự nối dài cánh tay của các loại hình báo chí khác.
Theo PGS.TS Nguyễn Thị Trường Giang nhận định thì “BMĐT đã
và đang có một vị thế xứng đáng, một món ăn tinh thần không thể thiếu
trong đời sống người dân bởi sức mạnh thực sự của nó”[14; tr96].


14
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm thì loại hình báo chí này cũng
có khá nhiều những khuyết điểm lớn có thể kể đến như sau:
Thứ nhất, độ chính xác về thông tin trên BMĐT không cao so với
các loại hình báo chí khác. Bởi thơng tin trên BMĐT được đưa rất nhanh,
và nhanh thì thường ẩu. Với đặc thù trong quy trình sản xuất thơng tin trên
BMĐT, phóng viên có thể kiêm ln vai trị của biên tập viên, thậm chí là
Tổng biên tập, vừa viết bài, vừa đưa tin lên mạng thì việc sai sót là khơng
thể tránh khỏi. Mặt khác, BMĐT khi đã phát hành vẫn có thể sửa được,
điều đó phần nào đã tạo nên sự cẩu thả trong một bộ phận nhà báo.
Thứ hai là độ an tồn của thơng tin trên BMĐT do phụ thuộc quá
nhiều vào công nghệ. Do BMĐT chỉ phát hành 1 bản duy nhất nên khi gặp
phải những sự cố như cháy, hỏng, vi rút hay tin tặc… thì nội dung lưu trữ
có thể bị chỉnh sửa, làm sai lệch hay thậm chí là bị phá bỏ hồn tồn mà
khó khôi phục lại.
Thứ ba, lượng thông tin được đăng tải trên BMĐT q lớn, gây nên
tình trạng nhiễu loạn thơng tin. Điều này khiến cơng chúng đơi khi bị
chống ngợp, mất tập trung và khơng có khả năng sàng lọc thông tin đáng
tin cậy, phù hợp với bản thân. Thêm vào đó, rất nhiều những thơng tin trên
BMĐT lại được đưa quá chi tiết, tủn mủn, sa đà vào việc giật gân, câu
khách như moi móc đời tư cá nhân, hay những thông tin đi ngược lại với xu
hướng phát triển của xã hội.

Thứ tư, cơng chúng có thể có tâm lý không thư giãn, thoải mái khi
tiếp nhận thông tin từ báo mạng điện tử do phải dùng máy tính có kết nối
mạng Internet hoặc trong vùng phủ sóng đối với Internet không dây, nên
không dễ dàng để đọc BMĐT mọi lúc mọi nơi. Chất lượng âm thanh và
hình ảnh của BMĐT cũng kém hơn so với phát thanh, truyền hình, và bị
phụ thuộc rất nhiều vào đường truyền. Thời gian đọc trên mơi trường máy
tính chậm hơn 25 % so với trên bản in. Đặc biệt những bài mang tính
chun sâu thì tiếp nhận trên tờ BMĐT sẽ khó khăn hơn nhiều .


15
Thứ năm, BMĐT mang tính cá nhân hóa nên khó có thể chia sẻ cho
người khác cùng xem, cùng đọc. BMĐT khơng có khả năng tập hợp cơng
chúng trong cùng một thời điểm như phát thanh và truyền hình.
Thứ sáu, việc quản lý thông tin trên BMĐT cũng vấp phải nhiều
khó khăn hơn các loại hình báo chí khác. Các diễn đàn nếu tổ chức không
tốt, rất dễ dẫn đến sa đà vào những vấn đề mang tính giật gân và câu khách.
Nhận định về những hạn chế, yếu kém của báo mạng điện tử, Chỉ
thị số 52-CT/TW ngày 22/07/2005 của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã chỉ
rõ: “Tính tư tưởng, tính định hướng chính trị, tính chiến đấu, tính khoa học,
tính chuyên nghiệp ở một số tờ báo điện tử chưa cao. Một số báo thiếu cân
nhắc khi đưa tin, bài về các vấn đề trong nước và thiếu chọn lọc khi khai
thác tư liệu, bài viết ở bên ngoài, một số tin, bài chạy theo thị hiếu tầm
thường, giật gân, câu khách. Ở một số cơ sở dịch vụ Interne , cịn để xãy ra
tình trạng lưu hành, phát tán các thông tin phản động, đồi trụy, vu khống,
bơi nhọ danh dự cá nhân, gây bất bình trong nhân dân. Chưa có biện pháp
hữu hiệu để ngăn ngừa các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị ở
trong và ngồi nước lợi dụng mạng Internet và báo điện tử để chống phá
cách mạng nước ta"[7].
Cũng theo nhận xét của PGS.TS Nguyễn Thị Trường Giang thì

“Trong tương lai, BMĐT sẽ tiếp tục phát triển mạnh, song song cùng tồn
tại với các loại hình bảo chỉ khác, bổ sung những điểm khiếm khuyết mà
các loại hình báo chí truyền thống khơng thể đạt được, và đương nhiên
cũng phải tính đến cách khắc phục những hạn chế của mình”[14; tr108].
1.1.3. Truyền thơng và quản lý chất lượng truyền thơng
1.1.3.1. Khái niệm truyền thơng
Lồi người tồn tại trong cùng một cộng đồng với tổng thể những mối
quan hệ đa dạng, phức tạp. Từ khi sinh ra cho đến khi kết thúc cuộc đời, con
người không thể chỉ tồn tại như những cá thể riêng biệt mà luôn là một thành


16
phần của gia đình, tổ chức, xã hội,.... Để xây dựng và duy trì các mối quan hệ
đó, con người cần có giao tiếp, mà cụ thể hơn là việc trao đổi thông tin.
Thông qua trao đổi thông tin giúp con người chia sẻ với nhau những kinh
nghiệm, hiểu biết của mình đến đồng loại để hỗ trợ nhau cùng phát triển. Đến
một thời điểm nhất định, hoạt động giao tiếp khơng chỉ cịn là bản năng mà
cịn được nâng lên một nấc thang mới được gọi là truyền thông.
Truyền thơng theo tiếng Anh là communication có nghĩa là sự
truyền đạt, thông tin, thông báo, giao tiếp, trao đổi,… Thuật ngữ “truyền
thơng” có nguồn gốc từ tiếng Latin với nghĩa là “chung” hay “cộng đồng”.
Nội hàm của nó là nội dung, cách thức, con đường, phương tiện để đạt đến
sự hiểu biết lẫn nhau giữa những cá nhân với cá nhân và cá nhân với cộng
đồng xã hội.
Con người có thể sống được với nhau, giao tiếp và tương tác lẫn
nhau trước hết là nhờ vào các hành vi truyền thông (thông qua ngôn ngữ
hoặc cử chỉ, điệu bộ, hành vi...để chuyển tải những thông điệp, biểu lộ thái
độ, cảm xúc). Qua q trình truyền thơng liên tục, con người sẽ có được sự
gắn kết với nhau, đồng thời có những thay đổi về nhận thức, hành vi. Chính
vì vậy, truyền thông được xem là cơ sở để thiết lập các mối quan hệ giữa

con người với con người, là nền tảng hình thành nên cộng đồng, xã hội.
Nói theo cách khác thì truyền thơng là một trong những hoạt động căn bản
của bất kỳ một tổ chức xã hội nào.
Theo định nghĩa của một số nhà khoa học, lý thuyết truyền thông thể
hiện mối quan hệ giữa các dữ kiện truyền thông trong hành vi của con người,
và truyền thơng là một q trình có liên quan đến nhận thức hoặc hành vi.
Thực tế, nhận thức và hành vi của con người bao giờ cũng có khoảng cách.
Và truyền thơng chính là phương tiện được sử dụng để rút ngắn khoảng cách
đó, hay thậm chí có thể là đồng nhất các yếu tố đó với nhau.


17
Hiện nay trên thế giới, tùy vào các góc độ nghiên cứu khác nhau
mà người ta cũng có rất nhiều những định nghĩa khác nhau về truyền
thông. Chẳng hạn như trong Cơng trình nghiên cứu “Khái niệm cơ bản về
truyền thông” năm 1970, Frank Dance đã nêu ra 15 định nghĩa về truyền
thơng của các tác giả trên nhiều góc độ khác nhau [13].
Theo từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Đà Nẵng năm 2008,
truyền thông được hiểu dưới góc độ động từ: Truyền thơng là truyền dữ
liệu theo những quy tắc và cách thức nhất định như mở rộng mạng lưới
truyền thông đến từng cơ sở [40; tr206].
Mặt khác, PGS.TS Nguyễn Văn Dững lại cho rằng: Truyền thông ở
bình diện tổng quát được hiểu là quá trình trao đổi thơng tin, tư tưởng, tình
cảm một cách liên tục, chia sẻ kỹ năng, kinh nghiệm giữa người với người
hoặc nhóm người nhằm làm thay đổi nhận thức, mở rộng hiểu biết, từ đó tiến
tới thay đổi về hành vi của cơng chúng theo hướng tích cực. Bản chất của xã
hội truyền thông là tương tác và chia sẻ, thực hiện những cuộc vận động xã
hội trên cơ sở tương tác bình đẳng giữa chủ thể và khách thể nhằm hướng đến
một mục tiêu chung. Do vậy, nguyên lý quan trọng của truyền thơng chính là
tần suất tương tác càng cao, càng nhiều người tham gia bao nhiêu thì năng lực

và hiệu quả truyền thông đạt được càng cao bấy nhiêu [12; tr113].
Trong cuốn “Giáo trình Lý thuyết truyền thơng”, tác giả Dương
Xuân Sơn cũng lưu ý rằng “truyền thông là một q trình – có nghĩa nó
khơng phải là một việc làm nhất thời hay xảy ra trong một khoảng thời gian
lớn. Q trình này mang tính liên tục, vì nó khơng thể kết thúc ngay sau
khi ta chuyển tải nội dung cần thiết mà còn tiếp diễn ngay sau đó. Đấy là
q trình trao đổi hoặc chia sẻ. Truyền thông phải dẫn đến sự hiểu biết lẫn
nhau, yếu tố này đặc biệt quan trọng với mục đích và hiệu quả của truyền
thông. Và cuối cùng, truyền thông phải đem lại được sự thay đổi trong
nhận thức và hành vi” [30; tr9].


18
Như vậy, từ những khái niệm trên, truyền thơng có thể được hiểu là
q trình trao đổi thơng tin, tương tác thông tin với nhau giữa hai hoặc
nhiều người với nhau nhằm mục đích tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau,
thay đổi nhận thức. Khái niệm truyền thơng cịn được hiểu là sản phẩm của
con người, là động lực kích thích sự phát triển của xã hội.
1.1.3.2. Khái niệm quản lý chất lượng truyền thông
Chất lượng truyền thông luôn luôn là một trong những mối quan tâm
đặc biệt hàng đầu đối với những người làm công tác truyền thông. Để hiều
rõ hơn về khái niệm chất lượng truyền thông, trước hết, cần phải hiều được
khái niệm “chất lượng” là như thế nào?
Về bản chất, khái niệm chất lượng là một khái niệm mang tính tương
đối. Với mỗi người, quan niệm về chất lượng khác nhau và vì thế chúng ta
thường đặt ra câu hỏi “chất lượng của ai, của cái gì”. Ở mỗi một vị trí,
người ta nhìn nhận về chất lượng ở những khía cạnh khác nhau. Người làm
truyền thông, người quản lý hoạt động truyền thông, công chúng hay các
nhà chun mơn đánh giá đều có định nghĩa riêng của họ cho khái niệm
chất lượng. Hiện nay cũng đã có một số định nghĩa về chất lượng đã được

các chuyên gia chất lượng đưa ra.
Theo Juran – một Giáo sư người Mỹ thì “chất lượng là sự phù hợp
với nhu cầu”. Một ý kiến khác cũng khá tương đồng nhưng có chút phát
triển hơn cho rằng “Chất lượng là sự phù hợp với các yêu cầu hay đặc tính
nhất định”.
Trong mỗi lĩnh vực khác nhau, với mục đích khác nhau nên có nhiều
quan điểm về chất lượng khác nhau. Tuy nhiên, có một định nghĩa về chất
lượng được thừa nhận ở phạm vi quốc tế, đó là định nghĩa của Tổ chức
Tiêu chuẩn hoá Quốc tế. Theo điều 3.1.1 của tiêu chuẩn ISO 9000:2005
định nghĩa chất lượng là: "Mức độ đáp ứng các yêu cầu của một tập hợp có
đặc tính vốn có".


19
Từ những ý kiến trên, khái niệm “chất lượng” có thể được hiểu là sự
phù hợp, mức độ đáp ứng u cầu đối với một tập hợp có đặc tính nhất
định. Khái niệm này cũng thường được sử dụng như một hành động đánh
giá một quá trình hoạt động.
Sau khi bóc tách khái niệm “chất lượng” thì khái niệm “chất lượng
truyền thơng” cũng có thể được hiểu dễ dàng hơn. Chất lượng truyền thơng
ở đây có thể hiểu được chính là hiệu quả truyền thơng, là kết quả mà q
trình hoạt động truyền thông đạt được. Hiệu quả truyền thông được đánh
giá dựa trên độ phủ sóng của hoạt động truyền thơng đó, càng nhiều người
biết đến, nhiều người tham gia thì hiệu quả truyền thơng đạt được càng cao.
Bên cạnh đó, hiệu quả truyền thơng cịn cần đánh giá dựa trên mức độ
tương tác giữa người làm truyền thông với đối tượng mà truyền thơng
nhắm đến, khi tính tương tác giữa hai chủ thể này cao , dẫn tới thay đổi
hành vi, nhận thức theo hướng mà hoạt động truyền thơng hướng đến thì
lúc này, hiệu quả truyền thơng mới thực sự đạt được kết quả tốt.
Như vậy, chất lượng truyền thơng có thể được hiểu là từ ngữ biểu đạt

hiệu quả đạt được trong q trình truyền thơng, làm thỏa mãn nhu cầu tìm
hiểu và theo dõi thơng tin của công chúng, đáp ứng được các yêu cầu từ
công chúng. Tùy vào từng đối tượng công chúng khác nhau, có những nhu
cầu tiếp nhận thơng tin khác nhau mà chất lượng truyền thơng của mỗi
hoạt động có thể sẽ khác nhau. Một hoạt động truyền thông được coi là có
chất lượng truyền thơng tốt khi hiệu quả truyền thơng của nó cao và ngược
lại. Mặt khác, chất lượng truyền thơng cũng có thể được hiểu là thuật ngữ
được sử dụng để đánh giá hiệu quả của một quá trình truyền thơng.
Mặt khác, khái niệm “Quản lý” cũng cần được hiểu một cách cụ thể.
Quản lý là một hoạt động mà mọi tổ chức đều có, là một quá trình do một
người hay nhiều người thực hiện hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm
soát những hành động của các thành viên và sử dụng tất cả các nguồn lực


×