Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Nhom 3 van chieu hon

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.11 KB, 20 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

----------

MƠN HỌC:
TRUYỀN THỐNG VĂN HOÁ
TRONG THƠ NGUYỄN DU

ĐỀ TÀI:
VĂN TẾ THẬP LOẠI
CHÚNG SINH
Họ và tên học viên:
1. Hoàng Thị Khánh Huyền
2. Đặng Thị Sang
Giảng viên: Cô Lê Thu Yến
Lớp: Văn học Việt Nam/ Cao học khoá 29.

1


MỤC LỤC
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÁC PHẨM “VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG
SINH”........................................................................................................................... 6
I.1. Thể loại “văn tế”....................................................................................................6
I.1.1. Khái niệm.........................................................................................................6
I.1.2. Nguồn gốc ra đời..............................................................................................6
I.1.3. Đặc trưng.........................................................................................................7
I.1.4. Thành tựu.........................................................................................................7
I.2. Về tác phẩm “Văn tế thập loại chúng sinh” – Nguyễn Du.....................................8
I.2.1. Hoàn cảnh sáng tác..........................................................................................8
I.2.2. Nhan đề tác phẩm............................................................................................9


I.2.3. Bố cục tác phẩm...............................................................................................9
II. NỘI DUNG CHÍNH............................................................................................10
II.1. Phần một (20 câu, 1 - 20): Hồn cảnh khơi gợi lịng thương xót của tác giả đối
với chúng sinh đang lạnh lẽo, bơ vơ nơi cõi âm.........................................................10
II.2. Phần hai (116 câu, 21 - 136): Chỉ danh nguyên nhân thiệt mạng của các loại cô
hồn.............................................................................................................................. 10
II.4. Phần cuối (28 câu, 157 - 184): Lời thỉnh cầu phép Phật nhiệm mầu giúp cho
họ được giải thốt và lời mời các cơ hồn tới nhận phần lễ cúng................................14
III.

GIÁ TRỊ CỦA TÁC PHẨM VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH..................15

III.1. Giá trị về nội dung.............................................................................................15
III.2. Giá trị nghệ thuật............................................................................................17
IV.

VĂN CHIÊU HỒN CÓ PHẢI LÀ SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN DU KHÔNG?. 18

TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................20

2


VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH
(Văn chiêu hồn)
Nguồn: Văn tế cổ và kim, NXB Văn hoá, Hà Nội, 1960.

1. Tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh buốt xương khô,
Não người thay buổi chiều thu,

Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngơ rụng
vàng.
Đường bạch dương bóng chiều man
mác,
Ngọn đường lê lác đác sương sa,
Lòng nào là chẳng thiết tha,
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.
Trong trường dạ tối tăm trời đất,
Có khơn thiêng phảng phất u minh,
Thương thay thập loại chúng sinh,
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê
người.
Hương khói đã không nơi nương tựa,
Hồn mồ côi lần lữa đêm đen,
Cịn chi ai q ai hèn,
Cịn chi mà nói ai hiền ai ngu?
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát
Nước tĩnh bình rưới hạt dương chi
Mn nhờ đức Phật từ bi,
20.Giải oan, cứu khổ, hồn về tây
phương.
21.Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh,
Chí những lăm cướp gánh non sơng,
Nói chi những buổi tranh hùng
Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau.
Bỗng phút đâu mưa sa ngói lở
Khơn đem mình làm đứa sất phu,
Lớn sang giàu nặng oán thù,
Máu tươi lai láng, xương khơ rã rời.
3


Đồn vơ tự lạc lồi nheo nhóc,
Quỷ khơng đầu than khóc đêm mưa
Cho hay thành bại là cơ
32.Mà cơ hồn biết bao giờ cho tan!
33.Cũng có kẻ màn lan trướng huệ,
Những cậy mình cung quế Hằng Nga,
Một phen thay đổi sơn hà,
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?
Trên lầu cao dưới cầu nước chảy
Phận đã đành trâm gãy bình rơi,
Khi sao đơng đúc vui cười,
Mà khi nhắm mắt không người nhặt
xương.
Đau đớn nhẽ không hương không khói,
Luống ngẩn ngơ dịng suối rừng sim.
Thương thay chân yếu tay mềm
44.Càng năm càng héo, một đêm một
rầu.
45.Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngọn bút son thác sống ở tay,
Kinh luân găm một túi đầy,
Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.
Thịnh mãn lắm ốn thù càng lắm,
Trăm lồi ma mồ nấm chung quanh,
Nghìn vàng khơn đổi được mình
Lầu ca, viện hát, tan tành cịn đâu?
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước
Biết lấy ai bát nước nén nhang?



Cơ hồn thất thểu dọc ngang,
56.Nặng oan khơn nhẽ tìm đường hố
sinh.
57.Kìa những kẻ bài binh bố trận
Đem mình vào cướp ấn nguyên nhung.
Gió mưa sấm sét đùng đùng,
Dãi thây trăm họ nên công một người.
Khi thất thế tên rơi đạn lạc,
Bãi sa trường thịt nát máu rơi,
Bơ vơ góc bể chân trời,
Nắm xương vô chủ biết vùi nơi nao?
Trời thăm thẳm mưa gào gió thét,
Khí âm huyền mờ mịt trước sau,
Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,
68.Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng
thường?
69.Cũng có kẻ tính đường trí phú,
Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn,
Ruột rà khơng kẻ chí thân
Dẫu làm nên để dành phần cho ai?
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ,
Của phù du dẫu có như khơng,
Sống thời tiền chảy bạc rịng,
Thác khơng đem được một đồng nào
đi.
Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm
Hịm gỗ đa bó đóm đưa đêm
Ngẩn ngơ trong quảng đồng chiêm,
80.Nén hương giọt nước, biết tìm vào

đâu?
81.Cũng có kẻ rắp cầu chữ q
Dấn mình vào thành thị lân la,
Mấy thu lìa cửa lìa nhà,
Văn chương đã chắc đâu mà trí thân?
Dọc hàng quán phải tuần mưa nắng,
4

Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng,
Vội vàng liệm sấp chơn nghiêng,
Anh em thiên hạ láng giềng người
dưng.
Bóng phần tử xa chừng hương khúc
Bãi tha ma kẻ dọc người ngang,
Cơ hồn nhờ gửi tha phương,
92.Gió trăng hiu hắt, lửa hương lạnh
lùng.
93.Cũng có kẻ vào sơng ra bể,
Cánh buồm mây chạy xế gió đơng
Gặp cơn giơng tố giữa dịng,
96.Đem thân vùi rấp vào lịng kình
nghê.
97.Cũng có kẻ đi về bn bán,
Địn gánh tre chín dạn hai vai,
Gặp cơn mưa nắng giữa trời,
100.Hồn đường phách sá lạc lồi nơi
nao?
101.Cũng có kẻ mắc vào khố lính,
Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan,
Nước khe cơm ống gian nan,

Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời.
Buổi chiến trận mạng người như rác,
Phận đã đành đạn lạc tên rơi.
Lập loè ngọn lửa ma trơi,
108.Tiếng oan văng vẳng tối trời càng
thương.
109.Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp,
Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa,
Ngẩn ngơ khi trở về già,
Đâu chồng con tá biết là cậy ai?
Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa,
Đau đớn thay phận đàn bà,
116.Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?
117.Cũng có kẻ nằm cầu gối đất,
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi,
Thương thay cũng một kiếp người,


120.Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường
quan!
121.Cũng có kẻ mắc oan tù rạc
Gửi mình vào chiếu rách một manh.
Nắm xương chơn rấp góc thành,
124.Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi?
125.Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé,
Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha.
Lấy ai bồng bế vào ra,
128.U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lịng.
129.Kìa những kẻ chìm sơng lạc suối,

Cũng có người sẩy cối sa cây,
Có người leo giếng đứt dây,
Người trơi nước lũ kẻ lây lửa thành.
Người thì mắc sơn tinh thuỷ qi
Người thì sa nanh sói ngà voi,
Có người hay đẻ khơng ni,
Có người sa sẩy, có người khốn
thương.
136.Gặp phải lúc đi đường lỡ bước
137.Cầu Nại Hà kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
Hồn xiêu phách tán biết đâu bây giờ?
Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi,
Hoặc là nương ngọn suối chân mây,
Hoặc là bụi cỏ bóng cây,
Hoặc nơi quán nọ cầu này bơ vơ.
Hoặc là nương thần từ, Phật tự
Hoặc là nơi đầu chợ cuối sơng
Hoặc là trong qng đồng khơng,
Hoặc nơi gị đống, hoặc vùng lau tre.
Sống đã chịu nhiều bề thảm thiết,
Gan héo khô dạ rét căm căm,
5

Dãi dầu trong mấy mươi năm,
Thở than dưới đất, ăn nằm trên sương.
Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn,
Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra,
Lơi thơi bồng trẻ dắt già,
Có khơn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.

Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ,
Phóng hào quang cứu khổ độ u,
Rắp hoà tứ hải quần chu,
Não phiền rũ sạch, ốn thù rửa khơng.
Nhờ đức Phật thần thơng quảng đại,
Chuyển pháp luân tam giới thập
phương,
Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương,
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.
Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh,
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao,
Mười loài là những loài nào?
Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.
Kiếp phù sinh như hình bào ảnh,
Có chữ rằng: “Vạn cảnh giai khơng”
Ai ơi lấy Phật làm lịng,
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
173.Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo,
Của có chi bát cháo nén nhang,
Gọi là manh áo thoi vàng,
Giúp cho làm của ăn đường thăng
thiên.
Ai đến đây dưới trên ngồi lại,
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu.
Phép thiêng biến ít thành nhiều,
Trên nhờ Tơn Giả chia đều chúng sình.
Phật hữu tình từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có khơng khơng.
Nam mơ Phật, nam mơ Pháp, nam mô
Tăng

184. Độ cho nhất thiết siêu thăng
thượng đài.


I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÁC PHẨM “VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG
SINH”
I.1. Thể loại “văn tế”
I.1.1. Khái niệm
Văn tế chữ Nho là tế văn (祭祭), cịn có tên gọi là kì văn hoặc chúc văn.
Có nhiều định nghĩa khác nhau liên quan đến khái niệm “văn tế”, cụ thể:

 Theo Tự điển Tiếng Việt (1970) của Lê Văn Đức định nghĩa rằng: văn tế, văn cáo,
văn chúc, tế văn đọc lúc tế một người chết để kể tính tình cơng đức người ấy và tỏ lịng kính
trọng thương tiếc của mình.
 Hán Việt từ điển (1960) của Nguyễn Văn Khôn, ở mục tế văn cho biết, tế văn: Một
thể văn xưa, đọc trong khi cúng tế.
 Dương Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu cho rằng: Văn tế là bài văn đọc
lúc tế người chết (cũng có khi để tế sống) để kể tính nết, cơng đức của người ấy và bày tỏ
tấm lịng kính trọng và thương tiếc của mình.
 Trần Đình Sử trong Mấy vấn đề Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, cho rằng:
Văn tế thời xưa dùng để tế trời đất núi sơng, cịn gọi là kỳ văn hay chúc văn. Về sau văn tế
dùng để tế người chết. Là một thể loại tổng hợp bày tỏ niềm tiếc thương đối với người mất
mà không phân biệt trên dưới xa gần, thân hữu.
 Theo Từ điển thuật ngữ văn học, văn tế được hiểu là: Một loại văn gắn với phong
tục tang lễ chủ yếu nhằm bày tỏ sự thương tiếc của tác giả và của những người thân đối với
người đã mất. Nội dung văn tế thường xoay quanh hai ý chính: một là kể về cuộc đời người
quá cố; hai là bộc lộ tình cảm, thái độ của người sống trong giờ phút vĩnh biệt. Mặc dù trong
văn tế có những đoạn tự sự kể lại cuộc đời của người quá cố, nhưng căn bản nó vẫn thuộc
loại trữ tình. Âm điệu chung của nó là bi thương.
 Ở Sách giáo khoa lớp 11, tập 1, cơ bản, trang :các tác giả cho biết khái niệm văn tế

như sau: Văn tế là một loại văn gắn với phong tục tang lễ, nhằm bày tỏ lòng tiếc thương của
tác giả và người thân đối với người đã mất. Văn tế thường có hai nội dung cơ bản: tái hiện
cuộc đời, công đức, phẩm hạnh của người đã khuất và bày tỏ nỗi đau thương của người sống
trong giờ phút vĩnh biệt. Âm hưởng chung của bài văn tế là bi thương, nhưng sắc thái biểu
cảm của mỗi bài có thể khác nhau.
 Tóm lại, từ những định nghĩa đã trích dẫn trên đây, ta có thể rút ra một vài đặc
điểm nổi bật của thể loại văn tế:
- Văn tế là một loại văn gắn với phong tục tang lễ.
- Kể về cuộc đời của người đã mất.
- Bày tỏ tình cảm, thái độ của người cịn sống đối với người đã mất.
I.1.2. Nguồn gốc ra đời
Văn tế là thể loại gắn với phong tục, nghi thức tang lễ có nguồn gốc lâu đời ở Trung
Quốc.
Người xưa tin rằng chết là sự chuyển đổi sang một dạng thức tồn tại khác ở cõi vĩnh
hằng nên thời điểm tiễn đưa người sang thế giới bên kia là thời điểm vô cùng quan trọng,


phải hết sức cẩn trọng và thành kính. Vì thế, có rất nhiều tục lệ, nghi thức trong phong tục
tang ma được hình thành và lưu truyền. Trong số đó, có việc dùng bài văn tế đọc trước quan
tài hoặc trước mộ người đã qua đời nhằm bày tỏ tình cảm của người còn sống đối với những
người đã chết.
I.1.3. Đặc trưng
Về nội dung, văn tế không chỉ dùng trong khi tưởng nhớ người đã mất trong trường
hợp thông thường mà còn dùng để tế hương hồn những người chết oan. Chịu sự chi phối
của thế giới quan duy tâm, người ta tin rằng con người chết là chỉ mất đi phần xác, còn
phần hồn đi sang một thế giới khác, nó vẫn có thể tồn tại, đi về thăm viếng, phù hộ hay là
quấy nhiễu người sống. Những trường hợp chết “bất đắc kì tử” sẽ trở thành những cơ hồn
khơng nơi nương tựa lang thang, đói rét. Vì vậy, nhiều nơi vào rằm tháng bảy âm lịch
có tục cúng cơ hồn nhằm giúp họ thốt khỏi kiếp cơ hồn bơ vơ lạc lõng. Những bài văn tế
thực hiện chức năng nhân văn ấy không phải dùng để tế một người cụ thể, cũng không phải

tế nhiều người chết trong cùng hoàn cảnh mà là bài văn tế chung cho nhiều loại người khác
nhau trong xã hội . Trong đó, “Văn tế thập loại chúng sinh” của Nguyễn Du là một sáng
tác tiêu biểu.
Ngoài ra, cũng những bài văn tế hồn tồn khơng biểu hiện cảm xúc bi thương mà
có những sáng tác nhằm cười cợt, bơng đùa một cách nhẹ nhàng, dí dỏm: Văn tế sống vợ
(Tú Xương), Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu (Nguyễn Du)… Hoặc thể hiện thái độ chế
giễu, châm biếm, bỡn cợt người được tế như bài “Văn tế Fran Cis Garnier”, “Văn tế Criviê”
của Trần Tế Xương để tế những tên thực dân, xâm lược bóc lột dân lành nhưng vẫn mang
danh “bảo hộ”.
Hơn nữa, người làm văn tế không chỉ hướng về người đã mất để tưởng nhớ,
thương cảm, ngưỡng vọng mà còn còn phải hướng đến đối tượng thứ hai khơng
kém phần quan trọng là những người cịn sống. Hướng về người còn sống, tác giả bài tế trao
lại lời dặn dò, gửi gắm tâm nguyện; sẻ chia quan niệm sống,…Tính chất đối thoạ i là đặc
điểm khơng thể thiếu trong những sáng tác văn tế.
Về hình thức viết văn tế, người ta có thể dùng lối văn xi; hoặc lối văn tán. Lối văn
tán là loại văn tế mỗi câu có 4 hoặc 5 chữ có vần có đối hoặc không đối, như bài “Văn tế
công chúa” của Mạc Đĩnh Chi; hoặc lối cổ thể lưu thủy, như bài “Văn tế nghĩa sỹ Cần
Giuộc” ... Đặc biệt, lối viết theo đường luật là lối văn tế thường gặp và thơng dụng nhất, đây
là lối văn tế có vần, có đối theo luật bằng trắc, có niêm luật rất chặt chẽ. Ví dụ như bài “Văn
tế phị mã Võ Tánh và Lễ bộ thượng thư Ngô Tùng Châu” của Đặng Đức Siêu... Ngoài ra lối
dùng thơ song thất lục bát để viết văn tế cũng khá là thông dụng, như bài “Văn tế thập loại
chúng sinh” của Nguyễn Du.
I.1.4. THÀNH TỰU
Có thể thấy rằng: từ thế kỷ XVIII về trước, văn tế chủ yếu bộc lộ những tình cảm riêng
tư (tình cha con, vợ chồng, anh em, bè bạn, …). Từ thế kỷ XIX, đặc biệt là từ khi Pháp xâm


lược nước ta, văn tế được dùng rộng rãi trở thành một cơng cụ tun truyền, một loại vũ khí
đấu tranh sắc bén của người yêu nước và cách mạng, phản ánh được những tình cảm, tư
tưởng của dân tộc và thời đại.

Từ khi du nhập vào Việt Nam, văn tế phát triển thành một thể tài quan trọng với nhiều
bài văn tế có giá trị văn học cao cả chữ Hán lẫn chữ Nơm với nhiều tác giả có tên tuổi thời
trung đại.
Xin liệt kê một số tác phẩm văn tế tiêu biểu sau đây:
- Tác phẩm văn tế đầu tiên xuất hiện lại bằng chữ Nôm và theo truyền tụng (văn bản
gốc khơng cịn) chính là bài Văn tế cá sấu của Nguyễn Thuyên (Hàn Thuyên), đời Trần
Nhân Tông.
- Văn tế sống hai cô gái ở Trường Lưu - Nguyễn Du
- Văn tế vợ - Võ Phân (quan chức thời Tây Sơn)
- Văn tế Phò mã Chưởng hậu quân Võ Tánh và Lễ Bộ Thượng thư Ngô Tùng Châu Đặng Đức Siêu.
- Văn tế trận vong tướng sĩ - Nguyễn Văn Thành
- Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Nguyễn Đình Chiểu
- Văn tế Trương Định - Nguyễn Đình Chiểu
- Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh - Nguyễn Đình Chiểu
- Văn tế mẹ (Làm hộ người cùng xã) - Nguyễn Khuyến
- Văn tế sống vợ - Trần Tế Xương
- Văn tế Phan Chu Trinh - Phan Bội Châu
- Văn tế đồng bào Bình Định, Phú Yên bị nạn lụt - Phan Bội Châu
- Văn tế Phan Bội Châu - Huỳnh Thúc Kháng
-…
I.2. VỀ TÁC PHẨM “VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH” – NGUYỄN DU.
I.2.1. Hoàn cảnh sáng tác
Văn tế thập loại chúng sinh hiện chưa xác định rõ cụ thể năm sáng tác. Trong bản
văn do Đàm Quang Thiện hiệu chú có dẫn lại ý của ông Trần Thanh Mại trên “Đông Dương
Tuần Báo” năm 1939, thì Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng khiếp làm
hằng triệu người chết, khắp non sơng đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các chùa, người ta
đều lập đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn. Ơng Hồng Xn Hãn cho rằng
có lẽ Nguyễn Du viết Văn Chiêu Hồn trước cả Truyện Kiều, khi ơng cịn làm cai bạ ở
Quảng Bình (1802-1812).



Tác phẩm Văn tế thập loại chúng sinh còn được nhiều nhà nghiên cứu Văn học Việt
Nam đặt cho nhiều tựa khác nhau như “Chiêu hồn thập loại chúng sinh”, “ Văn tế chiêu
hồn”,” Văn chiêu hồn”, “Kinh chiêu hồn”…
Tác phẩm gồm có 184 câu thơ, viết bằng chữ Nơm, theo thể thơ song thất lục bát.
I.2.2. N HAN ĐỀ TÁC PHẨM
 Văn tế thập loại chúng sinh.
- Văn tế.
Thập loại: nghĩa đen là mười (10) loại, ở đây có nghĩa là rất nhiều, đủ hết. Trong tác phẩm,
nói là thập loại nhưng kỳ thực thỉnh đến 13 loại và một số loại cô hồn được thỉnh chung.
Tiếng thập/ mười có cùng nghĩa là rất nhiều, đủ hết.
- Chúng sinh: ý chỉ tất cả sanh vật có mạng sống, cịn chưa được giác ngộ và giải
thốt, cịn sống trong nẻo sanh tử luân hồi. Trong tác phẩm, Nguyễn Du dùng chữ “chúng
sinh” chỉ để nói đến con người mà thơi.
 Văn chiêu hồn:
Chiêu hồn: mời gọi các cô hồn.
Theo quan niệm truyền thống của văn hóa Việt Nam thì “chết” có hai hình thức: Chết
bình thường và chết khơng bình thường. Chết bình thường là chết vì tuổi già, vì bệnh tật.
Chết khơng bình thường là chết do tai nạn, gươm đao, tên đạn, hình thức nầy là chết bất đắc
kỳ tử. Những người chết bất đắc kỳ tử thì linh hồn bị trở thành cô hồn, khi chết không được
chơn cất hoặc được chơn cất nhưng khơng có thân nhân biết, khơng có ai bảo quản mộ phần,
khơng người thờ cúng. Cũng có những linh hồn khi xuống âm phủ thì bị giữ lại ở chốn địa
ngục, khơng được đi đầu thai vì tội lỗi, nhưng vào ngày rằm tháng bảy âm lịch thì các cơ
hồn được thả khỏi địa ngục để hưởng tự do trong một ngày, một đêm. Ngày này gọi là ngày
xá tội vong nhân . Theo tập tục truyền thống thì người cịn sống với lòng từ bi, nhân ngày
này mà mua sắm lễ vật để cúng tế các linh hồn không người thờ phụng.
Chiêu hồn là thỉnh mời, kêu gọi các cô hồn đến hưởng lễ vật cúng tế, và thỉnh mời các
cô hồn nầy hãy đến các chùa để nghe các vị Tăng Ni và Phật tử tụng đọc kinh Phật, nhờ đó
các linh hồn có thể giải thốt để đi đầu thai hay thoát khỏi kiếp luân hồi.
I.2.3. Bố cục tác phẩm

- Phần một (Từ câu 1 - 20): Hoàn cảnh khơi gợi lịng thương xót của tác giả đối với
chúng sinh đang lạnh lẽo, bơ vơ nơi cõi âm.
- Phần hai (Từ câu 21 - 136): Chỉ danh nguyên nhân thiệt mạng của mười loại cô hồn.
- Phần ba (Từ 137 - 156): Miêu tả cảnh sống thê lương thảm thiết của các cô hồn.
- Phần cuối (157 - 184): Lời thỉnh cầu phép Phật nhiệm mầu giúp cho họ được giải
thốt và lời mời các cơ hồn tới nhận phần lễ cúng.


II. NỘI DUNG CHÍNH
II.1. Phần một (20 câu, 1 - 20): Hồn cảnh khơi gợi lịng thương xót của tác giả
đối với chúng sinh đang lạnh lẽo, bơ vơ nơi cõi âm.
Mở đầu tác phẩm, Nguyễn Du đã tả cảnh chiều thu thật là ảm đạm, để từ đó lấy làm
một nhịp cầu thông cảm giữa người trong cõi dương với các linh hồn ở trong cõi âm:
“Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt,
Tốt hơi mây lạnh buốt xương khơ,
Não người thay buổi chiều thu,
Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng.
Đường bạch dương bóng chiều man mác,
Dịp dường lê lác đác sương sa,
Lòng nào lòng chẳng thiết tha,
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.”
Cụ thể, theo tập tục truyền thống thì người cịn sống với lịng từ bi, nhân ngày này sẽ
làm lễ kêu gọi các cô hồn đến hưởng lễ vật cúng tế, và thỉnh mời các cô hồn đến các chùa để
nghe các vị Tăng Ni và Phật tử tụng đọc kinh Phật, nhờ đó các linh hồn có thể giải thốt để
đi đầu thai hay thốt khỏi kiếp ln hồi.
Với “con mắt nhìn thấu sáu cõi” và “tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời”, Nguyễn Du đã
thấu cảm được cảnh đời đau khổ của chúng sinh. Trong tiết tháng bảy thê lương, Nguyễn
Du đã chiêu hồn mọi số phận bất hạnh vất vưởng không nơi nương tựa, khơng phân biệt địa
vị sang, hèn, tuổi tác, trình độ…
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người.

Hương khói đã khơng nơi nương tựa,
Hồn mồ cơi lần lữa đêm đen,
Cịn chi ai q ai hèn,
Cịn chi mà nói ai hiền ai ngu?
Nguyễn Du đã tìm đến Phật giáo như cách tìm đến một hình thức có tính chất tơn giáo
nhằm giúp các cơ hồn có thể thốt khỏi những đau khổ tắm tối để được giải thốt:
Mn nhờ đức Phật từ bi,
Giải oan, cứu khổ, hồn về tây phương.
II.2. Phần hai (116 câu, 21 - 136): Chỉ danh nguyên nhân thiệt mạng của các loại
cô hồn
Nguyễn Du đã bày tỏ lịng thương cảm đến nhiều cảnh ngộ chết chóc và phác họa ra
một bức tranh với những tình cảnh thật lâm ly và thảm thiết. Mỗi cơ hồn đều có một hoàn
cảnh khác nhau, nhưng họ đều là kẻ bất hạnh ở trong cuộc đời. Trong tác phẩm, Nguyễn Du
nhắc đến 13 loại cô hồn và một số được thỉnh chung. Cụ thể là:
- Tráng sĩ giang hồ đã từng vẫy vùng ngang dọc ở cõi đời (Câu 21 – 32)
- Giai nhân hồng nhan bạc mệnh (Câu 33 – 44)


- Các vị quan văn (Câu 45 – 56)
- Các tướng lãnh đã từng là bậc chỉ huy cao cấp trong các cuộc chiến tranh đầy gay
go và ác liệt (Câu 57 - 68)
- Kẻ giàu có đầy tiền bạc lúc cịn sống, khi chết khơng đem được đồng xu (Câu 69 –
80)
- Các học trò nghèo đã từng chạy theo cử nghiệp (Câu 81 – 92)
- Những người đi trên biển cả gặp cuồng phong bão táp (Câu 93 – 96)
- Những người buôn gánh bán bưng (Câu 97 – 100)
- Các chiến sĩ đã bị động viên phải xơng pha dưới lằn tên mũi đạn ngồi chiến trường
(Câu 101 – 108)
- Các cô gái buôn phấn bán hương đã từng được nhiều kẻ đón đưa (Câu 109 – 116)
- Kẻ ăn xin (Câu 117 – 120)

- Những tù nhân đã chịu nhiều cực hình và bỏ thây nơi chốn lao tù (Câu 121 - 124)
- Các trẻ thơ vừa sinh ra lại qua đời (Câu 125 – 128)
- Những người chết oan vì các tai nạn khác nhau như : chìm sơng, lạc suối, ngã cây, lọt
giếng, nước lục, bão tố, lửa cháy, thuỷ quái, cọp beo, hữu sanh vô dưỡng, tai nạn dọc
đường: (Câu 129 – 136)
 Trong tất cả các cảnh ngộ ấy, có lẽ hình ảnh đã gây cho Nguyễn Du nhiều xúc
động mãnh liệt hơn hết chính là hình ảnh của võ tướng sa cơ và hình ảnh của người hồng
nhan bạc mệnh. Hai hình ảnh này đã là chất liệu tư tưởng để ông thai nghén và xây
dựng nên Truyện Kiều. Thật vậy, có cảnh nào bẽ bàng và nhục nhã cho bằng cảnh võ
tướng sa cơ mà chúng ta đã biết qua trong cảnh Từ Hải ra hàng triều đình ở trong Truyện
Kiều, còn trong Văn chiêu hồn ta cũng thấy được nỗi nhục nhã của võ tướng sa cơ:
“ Kìa những kẻ bài binh bố trận,
Đem mình vào cướp ấn nguyên nhung,
Gió mưa sấm sét đùng đùng,
Dãi thây trăm họ làm công một người.
Khi thất thế tên rơi đạn lạc,
Bãi sa trường thịt nát máu rơi,
Bơ vơ góc bể bên trời,
Nắm xương vô chủ biết vùi nơi nao”?
 Cảnh các chiến sĩ vô danh tử trận ở sa trường cũng không kém phần thương tâm:
“Buổi chiến trận mạng người như rác,
Phận đã đành đạn lạc tên rơi,
Lập loè ngọn lửa ma trơi,
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương.”
 Cảnh giai nhân mệnh bạc cũng là cảnh đã gây nhiều cảm thương và xúc động nơi tâm
hồn của nhà thơ lớn Nguyễn Du. Nguyễn Du đã từng khóc than cho thân phận của Thuý
Kiều, Đạm Tiên… Những kiếp người "Sống làm vợ khắp người ta/ Hại thay, chết xuống
làm ma không chồng”. Tất cả những người con gái ấy đều là nạn nhân của cuộc sống ăn
chơi trong xã hội cũ. Trong Văn chiêu hồn, một lần nữa, Nguyễn Du cũng lại nhỏ nước mắt
lên cuộc đời của những người con gái bất hạnh ấy. Nhưng lần này có phần khác với thơ chữ



Hán và Truyện Kiều, những cô gái “lỡ làng một kiếp” đến nỗi “liều tuổi xuân buôn nguyệt
bán hoa”, không còn cái vẻ sang trọng của một Thuý Kiều hay Đạm Tiên mà có dáng dấp
của những cơ gái mại dâm thật sự trong xã hội cũ. Nhà thơ chưa cắt nghĩa được nguyên
nhân xã hội nào đưa đến hiện tượng mại dâm nhưng ông thấy rõ họ là nạn nhân của xã hội.
Vì vậy nhà thơ khơng chỉ thương cho cảnh sống trước mắt mà còn lo lắng cho tương lai của
họ.
“Ngẩn ngơ khi trở về già
Chồng con đâu tá biết là cậy ai”
Nhà thơ đã nhìn thấu bóng dáng cuộc đời chung của phụ nữ ngày trước, những số
phận “hồng nhan bạc mệnh”. Bi kịch lớn nhất của cuộc đời họ khơng chỉ là khi cịn sống,
phải chịu cảnh nhục nhã ê chề, nhưng khi nhắm mắt rồi thì khơng có ai hương khói:
“Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa”
Để rồi, khi nhắc về thân phận của người phụ nữ, nhà thơ đau xót thốt lên một câu thơ
rỉ máu đã từng làm tê tái tấm lòng của bao nhiêu người đọc trong Truyện Kiều:
“Đớn đau thay phận đàn bà!”
 Không dừng ở hồi chuông giải oan cho người phụ nữ, ông cịn gióng thêm hồi
chng cứu vớt linh hồn những hài nhi xấu số:
“Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé,
Lỗi giờ sinh, lìa mẹ lìa cha.
Lấy ai bồng bế vào ra,
U ơ tiếng khóc, thiết tha nỗi lịng”.
Trong tâm thức con người thời phong kiến, chưa bao giờ hài nhi được quan tâm như
một số phận có quyền sống và nhu cầu được sống. Văn học trung đại nhiều thế kỷ chẳng có
lấy một vần thơ về trẻ con. Vậy mà, lần đầu tiên, Nguyễn Du lại dành nước mắt xót thương
khóc chúng. Lần đầu tiên, Nguyễn Du mạnh dạn đưa tiếng khóc hài nhi vào văn học. Với
nhà thơ, dẫu mới chào đời nhưng chúng vẫn có tư cách và quyền sống của một con người.
Nguyễn Du thương chúng không được hưởng những quyền tối thiểu của một trẻ thơ: được

bồng bế, nâng niu. Nhà thơ đứt ruột bởi tiếng khóc ngây thơ, ngắn ngủi của chúng: “U ơ
tiếng khóc, thiết tha nỗi lòng”.
Trong lịch sử văn học Việt Nam, có lẽ Nguyễn Du là nhà thơ viết những vần thơ về
trẻ em sớm nhất và thống thiết nhất. Với ông, ngay khi cất tiếng chào đời, trẻ con đã là một
con người, có quyền bình đẳng với bao nhiêu người lớn. Nhà thơ trách tạo hóa phũ phàng,
để những hài nhi “lỗi giờ sinh” phải sớm từ biệt cõi đời. Từ niềm trắc ẩn về những hài nhi,
nhà thơ như muốn gởi cho đời thơng điệp: được sống, đó là quyền tối thiểu của mỗi con
người.
 Nguyễn Du cũng không quên nghĩ đến những người cự phú, và thông cảm cho hồn
cảnh của họ: khi cịn sống bạc tiền vung vít nên có nhiều kẻ tới lui thăm hỏi, đến khi chết
rồi chẳng những không đem theo được đồng nào mà lại cịn chẳng được ai đối hồi tới:


“Khi nằm xuống không người nhắn nhủ,
Của phù vân dẫu có như khơng,
Sống thời tiền chảy bạc rịng,
Thác khơng đem được một đồng nào đi."
 Nguyễn Du luôn hướng tấm lịng của mình đến những người dân lao động cực khổ.
Họ đông hơn tất cả và số phận cũng bi đát hơn tất cả. Họ làm đủ ngành nghề trong xã hội từ
những người làm nghề biển, nghề rừng, những người buôn gánh bán bưng, đến những người
ăn xin, người bị “mắc oan tù rạc”… Đời sống của họ bấp bênh, điêu đứng. Kẻ thì tất bật
vào sơng ra bể, kẻ thì suốt ngày kỉu kịt “địn gánh tre chín rạn hai vai”, kẻ thì ăn xin “nằm
cầu gối đất”… và cái chết “bất đắc kỳ tử” đến với họ cũng khơng cách nào thống kê được.
Nói chung, họ chết trong lúc làm ăn, chết trong khi lao động:
“Kìa những kẻ chim sơng lạc suối,
Cũng có người sảy cối sa cây,
Có người leo giếng đứt dây,
Người trơi nước lũ, kẻ lây lửa thành.
Người thì mắt sơn tinh thuỷ quái,
Người thì sa nanh khái ngà voi,

Có người có đẻ khơng ni,
Có người sa sẩy, có người khốn thương…”
Tình u thương mênh mông của Nguyễn Du không đứng trên lập trường của tầng
lớp phong kiến thống trị. Nguyễn Du luôn trải rộng lịng mình để hứng lấy, chở che những
kiếp người bất hạnh. Ông đặc biệt quan tâm đến những con người bình thường trong xã hội.
Nguyễn Du dồn hết yêu thương cho những kiếp người vô danh, sống và chết trong lặng lẽ.
Họ là những kẻ vào sông ra bể, đi về bn bán, có người phải bn nguyệt bán hoa, lại có
kẻ mắc vào khóa lính. Cả một xã hội rộng lớn như được thu nhỏ, hiện lên toàn những gương
mặt “cuồn cuộn đau thương cháy dưới trời” (thơ Huy Cận).
Viết Văn chiêu hồn, nhà thơ không đứng từ đài cao quý tộc để cúi xuống cất lời răn
bảo. Ông đi từ sự đồng cảm, tri âm. Lòng trắc ẩn khiến ơng khóc thương cho những oan
hồn. Nói về họ, ông như đang đối thoại với người đang sống, với những số phận nhọc nhằn,
tủi nhục suốt một kiếp phù sinh. Ngày nào, họ vẫn sống như bao cuộc đời bình thường.
Bỗng đâu, tai nạn bất ngờ ập đến. Họ đành chết một cách tức tửi, đớn đau. Hiếm có một bức
tranh xã hội nào trong văn học dựng lên được nhiều loại người, nhiều cuộc đời, nhiều cảnh
sống và nhất là nhiều cái chết như ở đây. Cái chết đến một cách bất ngờ không phải chỉ đối
với người lao động trong cuộc đời làm ăn gian lao của họ, mà đến với cả những người thuộc
tầng lớp trên, đến với tất cả mọi người. Người con gái “màn loan trướng huệ” vẫn có thể
chết sương phơi ngồi đồng. Người làm quan vẫn có thể chết trong cảnh cơ đơn, người
tướng lĩnh có thể chết như một “nắm xương vơ chủ”, người đi bn, người học trị có thể
chết “vội vàng liệm sấp chôn nghiêng”… Bức tranh về cảnh tượng chết chóc trong Văn
chiêu hồn đã phản ánh rõ nét những cuộc đời trong thời đại của nhà thơ và cõi âm mà


Nguyễn Du dựng lên có vẻ rùng rợn, ma quái cũng chỉ là sự khúc xạ qua một lăng kính duy
tâm, hay nói đúng hơn chỉ là cái bóng cái hình lộn ngược của cõi dương, của cuộc đời này
mà thôi.
II.3.
Phần ba (20 câu, 137 - 156): Miêu tả cảnh sống thê lương thảm thiết của
các cô hồn.

Nghĩ tới thân phận của những kiếp cô hồn ở chốn âm ti, hình ảnh đầu tiên mà Nguyễn
Du đề cập tới đó là chiếc cầu đầy ám ảnh – cầu Nại Hà. Theo quan niệm văn hóa phương
Đơng, con đường đi xuống cõi âm trải qua nhiều chặng. Sau khi đi qua Quỷ Mơn Quan và
đường Hồng Tuyền sẽ đến sơng Vong Xuyên Hà. Muốn đi qua con sông này để đến Vọng
Hương đài thì phải bước qua cầu Nại Hà. Cầu Nại Hà có ba tầng. Tầng trên màu đỏ, tầng
giữa màu vàng, tầng dưới màu đen. Tầng càng thấp thì càng chật chội, đầy những hung
hiểm. Ngay dưới chân cầu, dịng sơng cuồn cuộn đầy những quỷ hồn chết đuối, dã quỷ
không thể đầu thai. Những oan hồn đang đi trên cầu kia có thể bị quỷ yêu kéo xuống sóng
cuộn để thế thân, để dày vị thống khổ khơn cùng. Vượt qua được cầu Nại Hà, tùy vào
nghiệp lực khi còn sống mà họ được xếp vào một trong lục đạo. Đó là một hành trình dài,
rùng rợn và đầy rẫy những đớn đau, hiểm nguy. Nhưng trong Văn chiêu hồn, Nguyễn Du
khơng xốy ngịi bút vào mơ tả cảnh rùng rợn đó ở chốn âm ti. Ơng gây xúc động với hình
ảnh những vong hồn lỡ bước đang kẻ trước người sau bước đi trên cây cầu cầu đó. Ơng lo
lắng cho tương lai của những vong hồn này liệu sẽ đi vào cõi nào trong lục đạo. Liệu có
được ở cõi trời, cõi người, cõi A-tu-la hay phải vào súc sinh, ác quỷ, địa ngục?
Gây xúc động, gợi bi thương nhất trong phần này là những câu thơ viết về những vong
linh chịu cảnh hồn xiêu phách tán khơng thể đầu thai. Vong hồn đó trơi dạt khắp nơi, vất
vưởng chốn bờ bụi, bóng cây, gị đống, lau tre, đồng khơng bóng chiếc; chui nhủi nơi cầu
này quán nọ, đầu chợ cuối sông hay lang thang ngọn suối chân mây. Tất cả những nơi này
đều tạm bợ, đầy rẫy hiểm nguy, lạnh lẽo. Không một ai hương khói phụng thờ. Họ trở thành
những hồn ma đói, rên rỉ trong bóng đêm – thời khắc âm thịnh dương suy rồi trốn chui trốn
nhủi khi mặt trời ló dạng. Họ có thể bị lũ quỷ yêu đày đọa hay bắt đi làm những điều tai vạ.
Những oan hồn chết bất đắc kỳ tử đó gồm tất thảy chúng sinh, không kể trẻ già, gái trai, tất
cả chúng sinh từ tráng sĩ, quan văn, võ tướng, giai nhân, kẻ giàu, người nghèo, chiến sĩ, kẻ
buôn gánh bán bưng, kẻ sang, người hèn và thậm chí đến trẻ mới sơ sinh đang kêu khóc
thảm thiết, bất phục trước lẽ vơ thường và tai ương gây nên cái chết cứ thất thểu khắp nơi
chịu đau khổ của bánh xe trầm luân, không thể đầu thai. Đoạn thơ này hồn tồn nói về thế
giới trú ngụ của vong hồn ma quái. Nhưng ta vẫn cảm thấy sự gần gũi, như một xã hội thu
nhỏ với đủ thành phần tầng lớp khác nhau đầy tội nghiệp, bi thương, rất cần một bàn tay
Phật tổ cứu khổ cứu nạn.


II.4.

PHẦN CUỐI (28 CÂU, 157 - 184): L ỜI THỈNH CẦU PHÉP PHẬT NHIỆM MẦU
GIÚP CHO HỌ ĐƯỢC GIẢI THỐT VÀ LỜI MỜI CÁC CƠ HỒN TỚI NHẬN PHẦN LỄ CÚNG .


28 câu thơ cuối cùng của Văn chiêu hồn thể hiện hai nội dung chính có liên quan tới
phép siêu sinh tịnh độ của nhà Phật. Người Việt quan niệm rằng chừng nào linh hồn
người chết còn điều oan khuất thì cịn vương vấn trần thế và chưa thể siêu thốt. Trong
những ngày đó, linh hồn chịu nhiều đọa đày và có thể bị ngạ quỷ dụ dẫn tới cõi tối tăm, tà
đạo.
Từ câu 157 đến 172, Nguyễn Du ý thức về sự hiện hữu của khổ đau của kiếp cô hồn
đang hiển hiện ngay đâyy, nên ông đã cảm thông được mọi nỗi khổ đau của các chúng
sinh ở cõi chết và gián tiếp ở cõi sống. Ông đã đem tình thương của mình để thỉnh mời, dẫn
dụ, vỗ về các linh hồn cô đơn nơi cõi âm lại nghe Kinh Phật. Nguyễn Du nói với các cơ
hồn rằng phép Phật thật là nhiệm mầu, triết thuyết từ bi của nhà Phật thật là thâm thuý sẽ
giúp các oan hồn rũ sạch não phiền, rửa khơng ốn thù, khua tỉnh chiêm bao u mê để vượt
khỏi cảnh luân hồi. Phép Phật ở đây chính là hình thức siêu sinh tịnh độ. Tịnh độ là cõi
Phật, cõi đất trong sạch. Tuy rằng trong vũ trụ có nhiều cõi Phật, nhưng cõi Phật được sách
Phật nói đến nhiều nhất là cõi Cực Lạc phương Tây của đức Phật A Di Đà. Cầu siêu sinh
Tịnh Độ là cầu vãng sinh về cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà. Lời dạy của Đức Phật trong
kinh sẽ giúp các cô hồn tỉnh thức để ăn năn, sám hối mà được siêu thoát, được giải
thốt khỏi cảnh ngạ quỷ ( quỷ đói) và được đi đầu thai.
Cuối cùng, từ câu 173 - 184 Nguyễn Du mời các cô hồn vào chùa để hưởng lễ
vật cúng theo tục lệ Phật giáo. “Của có chi bát cháo nén nhang/ Gọi là manh áo thoi vàng/
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên”/ Ai đến đây dưới trên ngồi lại/ Của làm duyên chớ
ngại bao nhiêu/ Phép thiêng biến ít thành nhiều/ Trên nhờ Tơn Giả chia đều chúng sinh”.
Đây là tình thương bao la đem đến cho người chết ở cõi âm.
Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng

Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài.
Các cô hồn cần nương tựa vào Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng để được cứu độ mà siêu
thăng nơi cõi Tịnh Độ. Mỗi câu thơ là một lời tha thiết mong cầu cho những linh hồn khốn
khổ được về mảnh đất của đức Phật từ bi
III. GIÁ TRỊ CỦA TÁC PHẨM VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH
III.1. Giá trị về nội dung
Nói thẳng những điều xảy ra trên đất nước mình dưới hình thức mang tính chất tơn
giáo. Từ đây, ta nhận thấy nội dung tác phẩm này thể hiện hai khía cạnh:
 NỘI DUNG CĨ TÍNH CHẤT TƠN GIÁO: nói về con người khi đã chết.
Viết Văn chiêu hồn, Nguyễn Du dùng để thực hiện hình thức siêu sinh tịnh độ, cúng
lễ thí thực. Đây là một bài thơ phục vụ cho hoạt động tôn giáo. Bài thơ này được nhiều
nhà chùa sử dụng. Có nhiều tài liệu minh chứng cho điều này. Nơi đầu tiên tìm ra văn bản
này chính là ở hai ngơi chùa. Một bản khắc ván năm 1895, gọi là bản Chính Đại, được tàng
trữ ở chùa Hưng Phú, xã Hạ Lôi, huyện Vũ Giàng, tỉnh Bắc Ninh; một bản do cụ Lê Thước
phát hiện ở chùa Diệc (phía Bắc thành Nghệ An xưa), phiên âm và công bố năm 1924.


Trong văn bản do Đàm Quang Thiện hiệu chú có dẫn lại ý của ông Trần Thanh Mại trên
“Đông Dương tuần báo” năm 1939, rằng Nguyễn Du trước tác bài này sau một mùa dịch
khủng khiếp làm hằng triệu người chết, khắp non sơng đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp
các chùa, người ta đều lập đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn.
Trong tác phẩm này, Nguyễn Du gửi gắm nhiều tư tưởng, quan niệm của Phật giáo:
Mô tả nhiều cái chết, cách chết khác nhau của thập loại chúng sinh, Nguyễn Du muốn
thể hiện quan điểm về quy luật vô thường của đạo Phật. Triết lý Vô thường của triết lý nhà
Phật về cuộc đời và người đời được Nguyễn Du trình bày một cách dễ hiểu qua mỗi cảnh
ngộ của mỗi loại chúng sanh ở trong xã hội của con người : của cải như mây nổi, sắc đẹp thì
tàn phai một cách nhanh chóng, cơng danh địa vị, tranh giành , đấu đá nhau … rồi cũng
không đem theo được cái gì cả một khi đi qua bên kia thế giới. Tất cả chỉ là ảo ảnh.
Có chữ rằng: "Vạn cảnh giai khơng"
Ai ơi lấy Phật làm lịng,

Tự nhiên siêu thốt khỏi trong luân hồi.
Triết lý đó đã giúp Nguyễn Du có cái nhìn thấu thị với tất cả chúng sinh trong mười
phương lục đạo.
Lòng đại từ, đại bi của Đức Phật Thích ca được Nguyễn Du trình bày rất rõ ràng
trong Văn chiêu hồn. Những cô hồn vất vưởng không có ai thờ phụng , được nhà chùa làm
lể thí thực cho họ. Ngày xưa, mỗi khi làm lễ thí thực, để tượng trưng cho việc bố thí được
ban bố ra khắp nơi thì chùa chiền dùng lá đa khoanh lại làm cái chén, kẹp đầu các cây nhỏ
để cắm hai bên đường đi. Các vị ở trong chùa đổ cháo vào các chén lá đa này, và mời các cơ
hồn đến hưởng hương vị của cháo. Nhà chùa cịn đốt vàng mã (áo quần, tiền bạc) cho những
cô hồn.
 NỘI DUNG CĨ TÍNH CHẤT PHI TƠN GIÁO: nói về con người khi còn sống.
Cần phải hiểu rằng ngay cả khi mượn hình thức của tơn giáo thì thơng qua đó Nguyễn
Du muốn gửi gắm nhiều điều về xã hội. Cái chết đến với tất cả mọi người thuộc mọi tầng
lớp khác nhau trong xã hội. Có rất nhiều cách chết khác nhau nhưng suy cho cùng, vì xã hội
chiến tranh loạn lạc điêu tàn mới tạo nên nhiều cái chết não nùng như vậy. Hình ảnh về cõi
âm trong Văn chiêu hồn ma quái, rùng rợn nhưng thực chất là cái bóng, là hình ảnh lộn
ngược của cõi dương. Phải chăng đây cũng là một cách ông gợi lên bức tranh xã hội loạn
lạc, nhiễu nhương của thời đại ông. Một đất nước chia bảy xẻ năm liên miên binh đao chinh
chiến, thay triều đổi ngôi: Lê – Mạc, Nam triều – Bắc triều, Trịnh – Nguyễn phân tranh,
kiêu binh nổi loạn, khởi nghĩa Tây Sơn. Thời kỳ đen tối này của xã hội phong kiến Việt
Nam gây nên bao điêu linh cho mọi kiếp người trong xã hội. Tác phẩm này đã dựng lên một
bức tranh về xã hội với nhiều loại người, nhiều cuộc đời, nhiều hoàn cảnh sống khác nhau.
Thơng qua các trường hợp đó, Nguyễn Du rút ra những quan niệm có tính chất triết lý và
tổng kết về lịch sử.
Văn chiêu hồn thể hiện rõ cách nhìn, thái độ của Nguyễn Du với các tầng lớp trong xã
hội. Thái độ của Nguyễn Du rất rạch rịi, dứt khốt, u ghét rõ ràng. Ơng lên án tầng lớp


thống trị; yêu thương, thông cảm cho tầng lớp bị áp bức và những người lao động nghèo
khổ. Đây là tác phẩm mang đậm tinh thần nhân đạo sâu sắc. Bài Văn chiêu hồn có những

đoạn đặc tả thế giới cõi âm rùng rợn ma quái, nhưng cái đọng lại khi đọc xong những đoạn
đó khơng phải là nỗi ám ảnh kinh hãi chốn âm ti hay những nơi hồn ma trú ngụ mà là nỗi
ngậm ngùi, xót xa thương cảm cho những oan hồn. Tình cảm nhân văn đó xuất hiện và đọng
lại trong lòng người đọc là bởi tinh thần nhân đạo ngập tràn nơi con tim Tố Như rồi bật trào
qua ngòi bút, kết nối tới trái tim độc giả. Ngay cả những câu thơ mô tả hành động tôn giáo
cúng tế siêu sinh tịnh độ, lễ thí thực cũng da diết tình thương chân thành mà Nguyễn Du gửi
đến thập loại chúng sinh. Ở đây không có cái nhìn ban phát của kẻ bề trên tới đám cơ hồn
cùng khổ. Đó là cái nhìn gần gũi, đồng cảm của một con người “lớn lên trong bùn lầy”đang
sẻ chia với những vong linh tội nghiệp.

III.2. GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT
Văn chiêu hồn là một bài văn tế đặc biệt khi kết hợp nhuần nhị với thể thơ ngâm
khúc trữ tình song thất lục bát đầy uyển chuyển, đậm đà tiếng nói dân tộc với một âm
điệu hết sức bi thương. Đây là sự tiếp nối thành công chuỗi sáng tác theo thể loại ngâm khúc
giai đoạn này (Truyện Kiều, Cung oán ngâm khúc, Ai tư vãn, v.v).
Nghệ thuật sử dụng từ láy độc đáo để đặc tả từng loại cô hồn:
- Bậc hùng vương xưng bá: Máu tươi lai láng, xương khơ rã rời/ Đồn vơ tự lạc lồi nheo
nhóc
- Q nữ liều thân: Luống ngẩn ngơ dịng suối rừng sim
- Tể thần thất thế: Cô hồn thất thểu dọc ngang
- Đại tướng bại trận: Bơ vơ góc bể chân trời
- Ham giàu chết đường: Ngẩn ngơ trong quãng đồng chiêm
- Ham danh chết quán: Gió trăng hiu hắt, lửa hương lạnh lùng
- Binh lính chết trận: Lập loè ngọn lửa ma trơi/ Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương.
- Kĩ nữ cơ đơn: Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp
- Chết bởi nghèo nàn tai họa: U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lịng
Với việc sử dụng nhiều từ láy, đặc biệt là các từ láy tượng hình, tượng thanh, các loại
cơ hồn được đặc tả cụ thể, gần gũi. Nỗi đau đớn xót xa càng được xoáy sâu vào tâm can
những người trên dương gian lắng nghe khúc ngâm văn tế này.
Tác giả đã có nhiều thủ pháp khi sử dụng nhiều cặp đối nhau trong các câu tám

(của câu lục bát), ngắt câu thành hai, mỗi bên 4 chữ tạo nên cặp tiểu đối rất chỉnh thể. Mỗi
câu có một vế đối trong chỉnh thể của nó, tạo thành cặp đối, tạo nên nhịp điệu cho câu và
nhấn mạnh ý nghĩa cần diễn đạt. Câu hàm súc hơn cũng như uyển chuyển hơn:
- Ngàn lau nhuốm bạc/ lá ngô rụng vàng: cảnh hiu hắt, u buồn của buổi chiều thu như
trùng điệp thêm cái tàn tạ - tàn tạ của tạo vật, của kiếp người.


- Hồn đơn/ phách chiếc lênh đênh quê người: chừng nào hồn phách cịn chia lìa thì
chừng đó vong linh còn chịu cảnh trầm luân thống khổ, chưa được đầu thai. Phép tiểu đối
ngắt nhịp câu thơ thành hai nửa chia lìa hồn/phách.
- Máu tươi lai láng/ xương khơ rã rời: cịn gì xót xa, khốn khổ khốn nạn hơn cho bậc
hùng vương xưng bá khi tử trận trong tình cảnh quá tàn khốc như vậy!
- Càng năm càng héo/ một đêm một rầu: câu thơ chua xót cho những vong hồn quý nữ
liều thân. Khi xưa màn loan trướng gấm êm đềm, nay hồn phách nỉ non rên khóc trong héo
hắt sầu bi đằng đẵng năm này tháng khác.
-…
祭 Mộng Liên Đường chủ nhân từng nói về Nguyễn Du rằng: “Tố Như Tử dụng tâm chi
khổ, tự sự chi thần, tả cảnh chi cơng, đàm tình chi thiết, tự phi nhãn phù lục hợp, tâm quán
thiên thu vị tất hữu thử bút lực dã.” (“Tố Như Tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh
đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu khơng phải có cái con mắt trơng thấu cả 6 cõi, tấm lịng nghĩ
suốt cả ngàn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy” - Bùi Kỷ dịch).

IV.
VĂN CHIÊU HỒN CÓ PHẢI LÀ SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN DU
KHÔNG?
Vấn đề gây tranh cãi này tạm được tóm tắt ở bảng sau:
NGUYỄN DU DỊCH LẠI TỪ
TÁC PHẨM KHÁC

NGUYỄN DU CHÍNH LÀ TÁC GIẢ CỦA

VĂN CHIÊU HỒN

- Có thể Nguyễn Du biên dịch văn - Theo các tài liệu tổng hợp, hình thức cúng tế cơ
bản chữ Hán của Trung Quốc sang hồn đã có ở nước ta ít nhất từ đời nhà Trần.
bản chữ Nơm vì nghi thức cúng cô
hồn rất thịnh hành thời Minh
Thanh truyền sang nước ta.
- Du già tập yếu thí thực nghi quỹ
- Văn chiêu hồn không xếp tăng ni, đạo sĩ vào 10
do Châu Hoằng Vân Thê thời nhà
loại cô hồn. Du già tập yếu thí thực nghi quỹ thì
Minh (Trung Quốc) hiệu chỉnh
có.
nhắc tới 13 loại cơ hồn. Văn chiêu
hồn của Nguyễn Du chia 10 loại
nhưng nếu chia nhỏ loại thứ 10 ra
thì cũng có thể thành 13 loại.
- Du già tập yếu thí thực nghi quỹ - Du già tập yếu thí thực nghi quỹ sử dụng nhiều
và Văn chiêu hồn đều mang âm hình ảnh ước lệ tượng trưng, mang tính nghi
hưởng buồn và nhiều tình tiết thức. Cịn Văn chiêu hồn thì khơng.
giống nhau.


- Nguyễn Du diễn Nôm từ một văn -Văn chiêu hồn không sử dụng quá nhiều thuật
bản khoa nghi của Phật giáo.
ngữ Phật giáo trong toàn văn, duy chỉ phần cuối
cùng là dẫn dụ một số thuật ngữ Phật giáo. Nhìn
chung, ngơn ngữ tồn bài như lời bộc bạch
thương cảm đầy uyển chuyển, hàm súc.
- Nhiều tài liệu chứng minh Nguyễn Du chính

xác là tác giả:
+ Trong văn bản do Đàm Quang Thiện hiệu chú
có dẫn lại ý của ơng Trần Thanh Mại trên “Đông
Dương tuần báo” năm 1939, rằng Nguyễn Du
trước tác bài này sau một mùa dịch khủng khiếp
làm hằng triệu người chết nên các chùa chiền lập
đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn.
+ Ơng Hồng Xn Hãn cho rằng có lẽ Nguyễn
Du viết “Văn Chiêu Hồn” trước cả Truyện Kiều,
khi ông làm Cai bạ ở Quảng Bình (1802-1812)
(Sđđ, tr.415).
+ Văn chiêu hồn tương đồng với các tác phẩm
khác của Nguyễn Du về phong cách, tình điệu và
chủ nghĩa nhân đạo.
TẠM KẾT: Sự ảnh hưởng, mối liên hệ giữa Văn chiêu hồn của Nguyễn Du với Du
già tập yếu thí thực nghi quỹ hoặc các văn bản khoa nghi khác của Phật giáo nếu có thì đó là
sự phóng tác. Văn bản do Nguyễn Du phóng tác mang đậm tinh thần, linh hồn ngơn ngữ dân
tộc Việt.

IV.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Văn Đức (1970), Việt Nam tự điển, Nhà sách Khai Trí, Sài Gịn
2. Nguyễn Văn Khơn (1960), Hán Việt từ điển, Nhà sách Khai Trí, Sài Gịn.
3. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2007), Từ điển thuật
ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4. Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII – hết thế kỷ XIX, Nguyễn Lộc, NXB Giáo
dục, 1997.
5. Nguyễn Du và Văn tế thập loại chúng sinh, Thích Nguyên Hiền,

DaoPhatngaynay.com
6. Văn học trung đại Việt Nam và những vấn đề tâm linh, Lê Thu Yến, NXB Đại học Sư
phạm Tp.Hồ Chí Minh
7. Lời giảng của Nhà sư Thích Nhật Từ.
8. Website về Phật giáo: />9. Website về Phật giáo:
10. Website về Phật giáo:



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×