![]() Bài diễn thuyết đoạt giải, ngày 8 tháng 12 năm 2001
Bài diễn thuyết đoạt giải, ngày 8 tháng 12 năm 2001
GEORGE A. AKERLOF*
Khoa kinh tế, Đại học Berkeley, California, CA 94720-3880, Hoa Kỳ.
Phiên Dịch: Hồ Phương Trang
ĐƯỜNG PHILLIPS VÀ NAIRU
Có lẽ mối quan hệ vĩ mô riêng lẻ quan trọng nhất là đường Phillips. Đường Phillips "giá-giá" 
liên kết tỷ lệ lạm phát với tỉ lệ thất nghiệp, tỉ lệ lạm phát mong đợi, và những biến số ảnh 
hưởng tới tổng cung, như là giá dầu lửa hoặc lương thực. Sự cân bằng giữa lạm phát và thất 
nghiệp ẩn trong mối quan hệ này định rõ "tình trạng khả thi" cho chính sách tiền tệ và vì thế 
đóng vai trò quyết định trong công thức của nó. Đường Phillips lần đầu tiên được đánh giá 
cho nước Anh, 
39
 sau đó là cho Hoa Kỳ 
40
 và nhiều nước khác nữa.
41
Nền tảng của Đường Phillips là đường cung và đường cầu. Phillips chỉ ra rằng khi cầu cao và 
tỉ lệ thất nghiệp thấp, thì công nhân có thể thương lượng để mức lượng danh nghĩa tăng cao 
hơn so với khi cầu giảm và thất nghiệp thì tăng. Chính sách giá cả của các công ty chuyển lạm 
phát tiền lương (được điều chỉnh cho phù hợp với năng suất) thành lạm phát giá cả. Vì vậy, 
đối với những người hoạch định chính sách, sự cân bằng lâu dài tồn tại giữa lạm phát và thất 
nghiệp.
Vào cuối những năm 60, Milton Friedman (1968) và Edmund Phelps (1968) đã thêm vào một 
lời khuyên mới vô cùng quan trọng. Họ chỉ ra rằng những công nhân quan tâm và thoả thuận 
về mức lương thực tế, chứ không phải là mức lương danh nghĩa: những công nhân thường hy 
vọng và nhận được bồi thường cho lạm phát mong đợi sau đó thoả thuận từ đó, họ yêu cầu 
mức lương thực tế cao hơn khi tỉ lệ thất nghiệp giảm. Một lần nữa, chính sách giá cả chuyển 
lạm phát tiền lương thành lạm phát giá cả.
Kết quả của sự chuyển đổi nhỏ này theo kết luận - khi công nhân đòi tăng mức lương thực tế, 
không phải danh nghĩa - là rất lớn: thay thế cho sự cân bằng kéo dài giữa thất nghiệp-lạm 
phát, hiện tại chỉ có một tỉ lệ thất nghiệp "tự nhiên" duy nhất phù hợp với lạm phát ổn định. 
Cùng với việc thương lượng "mức lương thực tế", đường Phillips dài hạn - sự kết hợp giữa 
thất nghiệp/ lạm phát phù hợp với sự cân bằng giữa lạm phát thực tế và lạm phát mong đợi - 
thẳng đứng bởi vì có một và chỉ một tỷ lệ thất nghiệp - "tỉ lệ tự nhiên" - mà tại đó lạm phát 
thực tế và lạm phát mong đợi phù hợp 
Để hiểu được tại sao đường Phillips dài hạn lại thẳng đứng, hãy tưởng tượng rằng một ngân 
hàng trung ương cố gắng thông qua chính sách tiền tệ để giữ cho tỉ lệ thất nghiệp dưới tỉ lệ tự 
nhiên. Cung với thị trường lao động chặt chẽ một cách khác thường, những công nhân yêu cầu 
tăng mức lương danh nghĩa cao hơn lạm phát mong đợi (cộng số lương thực tế thông thường 
vào sự tăng năng suất. Các công ty lần lượt thông qua việc tăng giá trị liên đới đối với giá cả, 
cốt để lạm phát vượt quá những gì công nhân lúc đầu tham gia khi họ thương lượng. Với tỉ lệ 
thất nghiêpẹ dưới mức tự nhiên, lạm phát thực tế vì thế vượt quá lạm phát mong đợi.
Trước kia, những công nhân đã bị lừa gạt. Bởi vậy, thời gian qua, lạm phát mong đợi và lạm 
phát lần lượt tăng mạnh. Với tỉ lệ thất nghiệp được giữ dưới mức tỉ lệ tự nhiên, kết quả là lạm 
phát tăng hơn hết. Giống như vậy, mô hình Friedman-Phelps dự đoán rằng một ngân hàng 
trung ương cố gắng giữ tỉ lệ thất nghiệp trên mức tỉ lệ tự nhiên một cách vô hạn định cuối 
cùng thường gây ra lạm phát tăng nhanh chóng. Chỉ có tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên là gây ra lạm 
phát ổn định. 
Các nhà kinh tế chấp nhận giả thuyết tỉ lệ tự nhiên một cách đặc biệt ngay sau khi nó được 
đưa ra bởi Friedman và Phelps vào cuối những năm 60. Ba lý do khiến giả thiết này được ưu 
ái là: Đầu tiên, nó đã giải thích một cách xuất sắc lạm phát và thất nghiệp vào những năm 60 
và 70. Tại thời điểm tỉ lệ thất nghiệp thấp vào cuối những năm 60, lạm phát tăng tới mức lạm 
 KINH TẾ VĨ MÔ DỰA TRÊN HÀNH VI và HÀNH VI KINH TẾ VĨ MÔ
Bài diễn thuyết đoạt giải, ngày 8 tháng 12 năm 2001
GEORGE A. AKERLOF*
Khoa kinh tế, Đại học Berkeley, California, CA 94720-3880, Hoa Kỳ.
Phiên Dịch: Hồ Phương Trang
SỰ NGHÈO KHỔ VÀ TÍNH ĐỒNG NHẤT
Nếu sự phân phối thu nhập là một chủ đề trong kinh tế học vĩ mô, như là nhiều người đã 
thừa nhận, thì kinh tế học dựa trên hành vi cũng đưa ra những hiểu biết thấu đáo về 
những vấn đề kinh tế vĩ mô vẫn đang tồn tại suốt một thời gian dài mà Hoa Kỳ đang phải 
đối mặt: sự chênh lệch trong thu nhập và điều kiện xã hội giữa mật độ người da trắng 
chiếm đa số và người gốc Phi chiếm thiểu số. Khi tài sản kế thừa là cả chế độ chiếm hữu 
nô lệ và sự phân biệt chủng tộc đối với người Mỹ da đen thì cảnh nghèo nàn vẫn đè nặng 
lên những người Mỹ gốc Phi.
Tỉ lệ nghèo nàn của người Mỹ gốc Phi là 23.6 phần trăm vào năm 2000 gần gấp ba tỉ lệ 
của người da trắng là 7.7 
83
. Mặc dù chỉ chiếm khoảng 1/8 dân số nhưng những người 
Mỹ gốc Phi lại chiếm gần 1/ 4 hộ nghèo của tất cả Hoa Kỳ. 
84
 Thực tế còn khác hơn rất 
nhiều so với những gì con số thống kê này đưa ra bởi vì vấn đề của những người Mỹ gốc 
Phi nghèo nhất này không đơn thuần chỉ là cảnh nghèo túng. Chúng còn bao gồm sự 
tăng cao mạnh mẽ trong tỉ lệ tội phạm, ma tuý, nghiện rượu, chửa hoang, hộ gia đình chỉ 
có phụ nữ làm chủ và sống dựa vào tiền trợ cấp. Những con số thống kề về tình trạng tù 
tội chỉ ra rằng những vần đề này ảnh hưởng tới một phần đáng kể trong bộ phận những 
người Mỹ gốc Phi. Ví dụ như, khoảng 4.5 phần trăm đàn ông da đen đang bị bỏ tù. 
85
 Tỉ 
lệ đàn ông da đen phải vào tù cao hơn tỉ lệ này ở người da trắng theo một hệ số là tám 
trên một. 
86
 Và những rủi ro trong đời của một người đàn ông trẻ tuổi da đen phải vào tù 
lên tới 1/ 4. 
87
Theo quan điểm của chúng tôi, vì lý thuyết kinh tế chuẩn mực có thể giải thích cho hành 
vi tự huỷ diệt như vậy nên Rachel Kranton và tôi đã phát triển những mô hình, dựa vào 
quan sát xã hội và tâm lý để hiểu những bất lợi dai dẳng của người Mỹ gốc Phi. Lý 
thuyết của chúng tôi nhấn mạnh vai trò của tính đồng nhất và những quyết định do từng 
cá nhân đưa ra về việc họ muốn là ai. Theo lý thuyết của về cảnh nghèo túng của những 
người thiểu số, những tầng lớp và chủng tộc trong xã hội bị tước quyền sở hữu phải đối 
mặt với một sự lựa chọn Hobbesian.
Một khả năng có thể xảy ra là lựa chọn một sự đồng nhất thích hợp với văn hoá vượt 
trội. Nhưng sự đồng nhất như vậy phù hợp với nhận thức rằng sự chấp nhận đầy đủ của 
tất cả các thành viên về văn hoá vượt trội là không thể xảy ra. Sự lựa chọn như thế cũng 
có thể làm hao tổn tâm trí đối với bản thân mình vì nó liên quan tới việc là một ai đó 
"khác"; gia đình và bạn bè, những người cũng ở bên ngoài văn hoá vượt trội cũng có thể 
có những quan điểm tiêu cực đối với một người không theo quy tắc của tổ chức. Vì vậy, 
những cá nhân có thể cảm thấy rằng họ không thể "vượt qua" một cách đầy đủ.
Mỗi một sự đồng nhất đều có liên quan tới những quy định cho hành vi lý tưởng. Trong 
trường hợp tính đồng nhất đối lập lại, những quy định này thường được định nghĩa dưới 
dạng những gì không phải la văn hoá vượt trội. Vì những qui định của văn hoá vượt trội 
xác nhận "tính tự thi hành", những điều trong văn hoá đối lập lại thường mang tính tự 
huỷ diệt. tính đồng nhất của văn hoá đối lập có thể dễ dàng hơn trong cái tôi bản ngã, 
nhưng cũng có thể làm suy yếu về mặt kinh tế và thân thể.
Lý thuyết dựa trên tính đồng nhất về sự bất lợi phù hợp với mọi bằng chứng. Ví dụ, nó 
đã tìm ra được những nghiên cứu bởi những tác giả như là Anderson (1990), Clark 
(1965), Du Bois (1965), Fraizier (1957), Hannerz (1969), Rainwater (1970), và Wilson 
(1987, 1996). Đọc bất kỳ tiểu sử nào của một người Mỹ gốc Phi nào: vũ điệu không 
thoải mái giữa chấp nhận và phản bác luôn luôn giữ vị trí trung tâm sân khấu.
Lý thuyết đồng nhất về tình trạng nghèo khó của những người thiểu số có những quan hệ 
mật thiết với chính sách xã hội đi trệch từ những điều bắt nguồn từ lý thuyết tân cổ điển 
chuẩn mực. Ví dụ, lý thuyết kinh tế chuẩn mực về tình trạng tội phạm và trừng phạt hoàn 
toàn dùng lý lẽ để biện hộ cho sự ngăn cản việc chiến đấu chống lại tội ác: hãy đẩy 
nguyên tắc lên thật cao, như bang California đã từng làm cùng với điều luật "ba nguyên 
tắc hoặc bạn sẽ bị tống cổ ra ngoài", và kẻ phạm tội đang có mưu đồ sẽ phải nghĩ lại. 
Nhưng những nhà tù đã đầy mà tình hình phạm tội vẫn không dừng lại. Trái lại, một lý 
thuyết dựa trên tính đồng nhất cho rằng tình trạng bỏ tù gây nên những ảnh hưởng tiêu 
cực bên ngoài có thể bù đắp cho những lợi ích ngắn hạn từ việc ngăn cản hành động 
phạm tội thông qua những chính sách bỏ tù khắc nghiệt hơn. 
88
 Chính bản thân nhà tù là 
một trường học cho sự đồng nhất đa văn hoá, và vì vậy là mảnh đất gieo hạt cho những 
tội ác tương lại.
Hơn thế nữa, tình trạng bên ngoài trong việc hình thành sự đồng nhất dùng lý lẽ để biện 
hộ cho những chương trình để làm giảm tình trạng phạm tội trước khi nó xảy ra. Ví dụ, 
những điều này bao gồm cả những chương trình điều trị và phục hồi cho những người 
nghiện ma tuý nặng và chương trình việc làm công cộng cho giới trẻ trong thành phố. Lý 
thuyết đồng nhất cho rằng những lợi ích của việc tăng chi phí cho các trường học của 
người Mỹ gốc Phi vùng lân cận với tỉ lệ nghèo đói cao rất thực tế và có hiệu quả: Trẻ em 
Mỹ gốc Phi được nhận thấy là đã hưởng ứng một cách đặc biệt với sự thay đổi trong chất 
lượng giáo viên và quy mô của lớp học. 
89
 Trường có thể nhận giáo viên đặc biệt và quan 
tâm tới từng vấn đề của sinh viên cùng với việc đưa ra chương trình giảng dạy chuẩn 
mực. 
90
 Cuối cùng, những cái bên ngoài liên quan tới việc hình thành sự đồng nhất giải 
thích cho hành động xác nhận, bởi nó là một dấu hiệu của việc đón chào những người 
Mỹ gốc Phi bước vào xã hội của những người da trắng, một xã hội đã từ chối họ rất lâu. 
91
KẾT LUẬN
Đã ba mươi năm kể từ khi cuộc cách mạng trong lý thuyết tăng trưởng bắt đầu và sau đó 
lướt qua kinh tế học vĩ mô. Kinh tế học vĩ mô hiện đại là chuẩn mực trong tất cả những 
chương trình cao học, và chiếm một nửa trong chuỗi hai khoá học. Việc chấp nhận kinh 
tế học vĩ mô diễn ra chậm hơn, nhưng cuộc cách mạng cũng ảnh hưởng tới bộ môn này. 
Nếu có bất kỳ một vấn đề nào trong kinh tế học mang tính hành vi, đó chính là kinh tế vĩ 
mô. Tôi đã tranh luận trong bài thuyết trình này rằng sự trao đổi, tính công bằng, tính 
đồng nhất, ảo tưởng về tiền, ác cảm thất bại, tính tập hợp và sự trì hoãn giúp giải thích 
sự khởi hành của nền kinh tế trong thế giới thực từ mô hình cân bằng chung và mang 
tính cạnh tranh. Mối quan hệ theo quan điểm của tôi là kinh tế vĩ mô phải dựa trên 
những cân nhắc theo hành vi.
Tác phẩm Lý thuyết chung của Keynes là đóng góp lớn nhất cho kinh tế học vĩ mô dựa 
trên hành vi trước kỉ nguyên hiện tại. Hầu hết ở khắp mọi nơi Keynes đổ hết lỗi của 
những thất bại thị trường lên xu hướng tâm lý (như là ở trong tiêu dùng) và tính phi lý 
(như là trong sự đầu cơ tích trữ trong thị trường cổ phiếu). Ngay sau khi nó được phát 
hành, những người trong ngành kinh tế vĩ mô đã ngay lập tức quen thuộc với kinh tế học 
theo trường phái Keynes. Họ đã khai hoá nó khi họ dịch nó thành toán học "mềm mại" 
của kinh tế cổ điển. 92 Nhưng nền kinh tế, giống như sư tử, rất hoang dã và nguy hiểm. 
Kinh tế học hiện đại dựa trên hành vi phát hiện lại khía cạnh hoang dã của hành vi kinh 
tế vĩ mô. Những nhà kinh tế học dựa trên hành vi đang trở thành những người thuần 
phục sư tử. Nhiệm vụ này cũng thú vị về mặt tri thức nhưng cũng không kém phần khó 
khăn.
Tài Liệu Trích Dẫn
2 Tham khảo trang  />3 Tham khảo Lucas và Sargent (1979).
4 Hầu hết những câu hỏi rắc rối này đều không được nghiên cứu vào thời gian đó, 
chúng gắn liền với văn học nhưng cũng không có cuộc thảo luận nào về chúng. Có lẽ 
chương trình nghiên cứu hiệu quả nhất của kinh tế vĩ mô trong suốt những năm 60 là sự 
phát triển của mô hình toán kinh tế vĩ mô. Những mô hình nghiên cứu về sự thất nghiệp 
của Phelps và một số người khác (1970) xuất hiện vào cuối những năm 60 để trả lời một 
câu hỏi: Ý nghĩa của sự thất nghiệp là gì? Nhưng họ lại chấp nhận trong khuôn khổ của 
sự thất nghiệp tự nhiên và tự nguyện.
5 Tôi đã bỏ sót hai câu hỏi quan trọng nhất mà những nền móng cơ sở nhỏ nhất của 
chúng được phát triển từ cuối những năm 60. Đầu tiên, tại sao tín dụng lại có thể được 
định mức? Donald Hodgman (1960, trang 258) đã làm sáng tỏ rằng lý thuyết kinh tế 
của đầu những năm 60 nhận ra rằng định mức tính dụng là một câu hỏi bí ẩn không thể 
giải thích được:
"Các nhà kinh tế học theo xu hướng phân tích thường miễn cưỡng chấp nhận [định mức 
tín dụng] tại giá trị bề ngoài bởi khó khăn của họ trong việc đưa ra một lời giải thích 
mang tính lý thuyết cho hiện tượng này, hiện tượng gắn liền với những nguyên lý của 
hành vi kinh tế vĩ mô dựa trên lý trí. Tại sao những người cho vay nên phân phối bằng 
phương pháp phi giá cả và như phủ nhận chính họ lợi ích của lợi tức cao hơn?". Ông 
quy những quan điểm này cho Paul Samuelson như đã được phát biểu tại quốc hội. 
Thông tin không đối xứng đưa ra một lý do tuyệt vời cho định mức tín dụng (Tham khảo 
thêm tài liệuJaffee and Russell (1976) and Stiglitz and Weiss (1981)).
6 Tham khảo Akerlof (1970)
7 Mishkin (1976) sau này đã phát triển những ý tưởng khuyến khích tôi tham gia vào 
khoá học này ngay từ ban đầu. Ông chỉ cho tôi biết tại sao nhu cầu cho xe ô tô lại không 
ổn định bởi vì ô tô là mặt hàng không dễ quy ra tiền mặt do thông tin không cân xứng.
8 Tham khảo Chamerlin (1962) và Robinson (1942).
9 Ví dụ, tôi có thể tưởng tượng một cách rõ ràng một sinh viên cao học không nhận thức 
được mô hình cạnh tranh không gian của Hotelling (1929). Tôi không thể nhớ chính xác 
được nó trong chương trình giảng dạy cao học nào nhưng tôi có thể nhớ rõ tìm thấy nó 
để lẫn trong phụ lục của tác phẩm Monopolistic Competition của Chamberlin
10 Khi nói chuyện với Michael Rothschild tại Cambridge, và Massachusetts, mùa hè 
năm 1969. Tôi vẫn còn nhớ cách sử dụng cũng như rất nhiều người ngày này nhớ tới lần 
đầu tiên họ nghe thấy ai đó nói họ sẽ "phát triển nền kinh tế".
11 Tôi không có ngày chính xác khi bài báo này được chấp nhận, nhưng tôi nhớ rằng 
mất khoảng hơn một năm giữa việc chấp nhận và xuất bản.
12 Tham khảo Solow (1959, 1962) và Arrow (1962).
13 Lý thuyết này phải đối mặt với một khó khăn trong lý thuyết. Vì tình trạng thất nghiệp 
chung hoàn toàn có thể quan sát được, những công nhân nên ước định những kỳ vọng 
của họ về sự phân bổ tiền lương phổ biến dựa trên tỷ lệ thất nghiệp chung. Việc ước 
định như vậy sẽ loại trừ ra mối tương quan liên hoàn khi thất nghiệp.
14 Câu hỏi này được đưa ra lần đầu bởi Tobin (1972). Đối với một vài dữ liệu về hành 
vi của những người bỏ việc, tham khảo Akerlof, Rose và Yellen (1988). Kenneth 
McLaughlin (1991) đã cố gắng thử hài hoà chu kỳ của những người bỏ việc với Kinh tế 
học Tân cổ điển như sau: Ông định nghĩa những người bỏ việc như là những người làm 
công bắt đầu quen với sự phân chia tiền lương, và coi việc giảm sản xuất như là việc 
công ty giảm tiền công. Trong mô hình của McLaughlin một sự tăng năng xuất theo 
hướng tích cực đột ngột có thể khiến cho các công nhân đòi hỏi tiền lương cao hơn. Vì 
một vài yêu cầu bị bác bỏ nên những người bỏ việc khi mà tỷ lệ thất nghiệp giảm. 
Nhưng tại sao tiền lương của công ty lại châm trễ so với nhu cầu của công nhân trong 
khi họ đang đứng trước một sự tăng năng xuất đột ngột và tích cực?
15 Một kết luận xuất sắc và chính xác về vấn đề này đã được đưa ra bởi Yellen (1984).
16 Kết luận ở đây về mô hình người trong cuộc - người ngoài cuộc là nó đã đưa ra một 
sự giải thích đặc biệt khái quát về khái niệm của tiền lương hiệu quả.
17 Tham khảo Dunlop (1975)
18 Tham khảo Dickens và Katz (1987) và Krueger và Summers (1988). Chú ý rằng 
những nghiên cứu này là cho Hoa Kỳ vào một thời kỳ nhất định khi mà việc tổ chức 
thành công công đoàn là rất yếu; vì thế nó không phải là nhân tố chính trong sự chênh 
lệch về tiền lương. Ngược lại, sự chênh lệnh về tiền lương theo nghiên cứu của Dunlop 
có thể là lý do chính của sự chênh lệch trong sức mạnh đoàn kết.
19 Tham khảo Krueger và Summers (1988).
20 Tham khảo Katz (1986) và Blinder và Choi (1990). Blinder và Choi tìm ra một bằng 
chứng rất thuyết phục ủng hộ cho những yếu tố tinh thần khi trả lương cao cũng như 
những bằng chứng ủng hộ việc coi tiền lương hiệu quả như là một công cụ để đưa ra kỷ 
luật cho công nhân. Bewley (2000) kết luận rằng tình thần là một lý do quan trọng trong 
việc thất bại khi cắt giảm tiền lương. Campbell và Kamlani (1997) thì lại cho rằng yếu 
tố tính thần là một lý do chủ yếu để các công ty không cắt giảm tiền lương, nhưng vì vậy 
là mối quan tâm đối với những người bỏ việc bởi những công nhân tốt nhất.
21 Tham khảo Akerlof (1982) và Rabin (1993).
22 Tham khảo Akerlof và Yellen (1990) và Levine (1992).
23 Tham khảo Fehr, Kirchsteiger và Reidl (1993), Fehr và Falk (1999) và Fehr, 
Gachter và Kirchsteiger (1996).
24 Tham khảo Lindbeck và Snower (1988).
25 Tham khảo Roy (1952).
26 Tham khảo Shapiro và Stiglitz (1985) và Bowles (1985), Foster và Wan (1984) và 
Stoft (1982). Mô hình kỷ luật cho công nhân có được một phần nhỏ tính xác thực nhưng, 
như là toàn bộ giải thích cho thất nghiệp không cố ý, nó phải trải qua cả những khó 
khăn mang tính lý thuyết lẫn những khó khăn mang tính kinh nghiệm. Theo lý thuyết, 
trong những công việc mà sự giám sát không hoàn chỉnh và những công nhân có thể 
quyết định mức độ cố gắng của họ, những công ty có danh tiếng tốt có thể yêu cầu nhân 
viên của họ mua trái khoán. Những trái khoán này sẽ bị tước bỏ trong trường hợp người 
công nhân đó bị bắt quả tang đang trốn việc. Miền là họ vẫn còn được tuyển dụng trong 
công ty thì những công nhân sẽ được nhận lương tăng dần lên với tiền lãi của trái 
khoán, tiền vốn sẽ được trả lại khi họ nghỉ hưu.
Phương thức trả lương kiểu này đã giải quyết được vấn đề mà công ty đang mắc phải và 
rẻ hơn cho công ty so với cách trả lương hiệu quả thị trường bán sạch. Becker và Stigler 
(1974) đã đưa ra ý kiến chính xác này. Trong kế hoạch của họ thì công nhận sẽ được trả 
lại trái khoán khi anh ta bỏ việc một cách chính đáng. (Những cách khác để làm giảm 
tiền lương đối với thị trường sạch với tinh thần giống như vậy đã được chỉ ra bởi 
Carmichael (1985) và Murphy và Topel (1990). Theo kinh nghiệm, lý thuyết kỷ luật thất 
bại khi giải thích lý do tại sao sự chệnh lệch về tiền lương trong các ngành kinh doanh 
lại liên quan chặt chẽ tới nghề nghiệp, một vài ngành kinh doanh có thể tạo cho công 
nhân "những việc làm tốt" trong tất cả mọi ngành nghề, bao gồm cả những công việc có 
ít cơ hội chốn việc. (Tham khảo Dickens và Katz (1987). )
27 Logíc này đã được giải thích một cách rõ ràng bởi Patinkin (1956)
28 Tham khảo Nisbett và Ross (1980).
29 Trong ngữ cảnh này, bậc hai là đại diện của toán học mang ý nghĩa nhỏ. Tương tự 
như vậy, bậc một theo khái niệm toán học có nghĩa là đáng kể trong kích cỡ.
30 Tham khảo Akerlof và Yellen (1985a, b), Mankiw (1985), Parkin (1986) và 
Blanchard và Kiyotaki (1987).
31 Kết quả giống nhau đã tổ chức một số cơ cấu thay phiên nhau. Ví dụ, nếu các công ty 
thiết lập mức lương hiệu quả tối ưu hoá lợi nhuận, sự ổn định của tiền lương danh nghĩa 
là một hình thái của hành vi theo quy tắc tự đặt với những kết quả giống nhau: những 
mất mát đối với các công ty giữ cho lương ổn định là rất nhỏ, nhưng những cú sốc đối 
với cung tiền tệ thay đổi biến số thực một lượng nhỏ. Trong công thức của Mankiw, "phí 
tổn" nhỏ, những phí tổn cố định khi thay đổi giá cả, hạn chế việc giá cả thay đổi với tác 
động lên sản lượng cân bằng.
32 Tham khảo Carlton (1986)
33 Tham khảo Akerlof (1969), Fischer (1977) và Taylor (1979)
34 Tham khảo Calvo (1983)
35 Tham khảo Barro (1977) cho những lời phàn nàn về mô hình giao kèo so le.
36 Tham khảo Akerlof và Yellen (1991). Nói một cách nghiêm túc, nó chỉ ra rằng độ lớn 
của chu kỳ kinh doanh, như đã được đo bởi độ lệch chuẩn của thu nhập tăng dần lên 
nhờ có khế ước so le của Taylor một số lượng tỷ lệ với độ lệch chuẩn của sai số giá cả 
tạo nên bởi các công ty của Taylor. Chính sách tiền tệ có thể bù đắp lại tình trạng này 
của giá cả và làm giảm tính bất ổn của chu kỳ kinh doanh. Nhưng những thiệt hại của 
các công ty khi sử dụng bản khế ước so le của Taylor là rất ít: tỉ lệ với dao động của 
những cú sốc trong hệ thống. Theo nghĩa này, giá cả so le có ảnh hưởng lớn tới cả quy 
mô của chu kỳ kinh doanh và tính ổn định của chính sách tiền tệ. Nhưng hành vi phi tôi 
ưu hoá, hành vi này co phép chính sách tiền tệ làm cho nền kinh tế troẻ nên ổn định, đã 
đưa đến những thất bại tuy rằng rất nhỏ.
37 Ví dụ, Gregory Mankiw và Ricardo Reis (2001) đề xuất ý kiến là phản ứng của thu 
nhập đối với những cú sốc tiền tẹ được giải thích rõ ràng hơn bởi mô hình "theo lý trí" 
trong đó giá cả (và/hoặc tiền lương) đối phó lại rất chậm với những thông tin mới, 
những mô hình giá cả so le theo phong cách của Taylor/Calvo. Phản ứng chậm đối với 
những thông tin mới có thể xảy ra như là một kết quả của chi phí quản lý lớn liên quan 
tới thu thập, xử lý và phân bổ thông tin liên quan tới quá trình định giá. (Tham khảo 
Zbaracki và những người khác (2000), trích dẫn Mankiw và Reis.)
Công thức của Mankiw-Reis giải quyết ba nghịch lý có mặt trong những dự tính theo lý 
trí của các mô hình giá cả so le. Thông tin chắc chắn đã đưa ra phản ứng của thu nhập 
trước những thay đổi trong chính sách tiền tệ (Friedman (1948) và Romer và Romer 
(1989)); nó phù hợp với sự phản ứng chậm chạp đáng ngạc nhiên đối với những đột 
biến tìm được trong bản đánh giá của Phillips Curvess (Gordon (1997)); và nó đã 
không nhận ra sai lầm theo lý thuyết trong những kỳ vọng theo lý trí theo mô hình khế 
ước so le của những chính sách giảm phát dẫn tới việc tăng, chứ không phải giảm trong 
sản lượng (Ball (1994)).
Những bằng chứng thực nghiệm cho thấy rằng sự kết hợp những vấn đề liên quan tới 
việc tiến tới một đường cân bằng mới có thể ở bên ngoài cũng như bên trong của công 
ty. Fehr và Tyran (2001) tiến hành những thí nghiệm mà trong đó những người định giá 
được trả lương bắt nguồn từ mô hình theo lý trí với sự cạnh tranh độc quyền. Họ nhận 
ra rằng những thay đổi mang tính tiêu cực trong cung tiền tệ làm sản lượng giảm một 
cách đáng kể khi tiền lương được gọi tên theo danh nghĩa. Những chủ thể đóng vai trò 
như là những người định giá phải chịu đựng vấn đề ảo ảnh tiền, khiến cho họ miễn 
cưỡng phải cắt giảm giá cả.
Một hướng giải quyết cho sự độc lập của chính sách tiền tệ về vấn đề liên kết những thất 
bại là hoàn toàn tuyệt đối trong Howitt và Clower (2000)). Nghiên cứu này đề xuất rằng 
phản ứng của giá cả đối với sự thay đổi trong cung tiền tệ bao gồm sự hình thành kỳ 
vọng liên quan tới sự phản ứng lại của những người định giá khác đối với những đột 
biến giống như vậy. Thí nghiệm của Fehr và Tyran (2001) chỉ ra vấn đề khác của hành 
vi theo lý trí: những người đặt giá có thể làm giá cả tăng tới tột cùng, nhưng phải thừa 
nhận rằng những công ti khác theo hành vi định giá theo quy tắc tự đặt. Một lần nữa, 
chính sách tiền tệ có hiệu lực trong việc thay đổi sản lượng và việc làm.
38 Tham khảo Lucas (1972)
39 Tham khảo Phillips (1958) và Lipsey (1960).
40 Tham khảo Gordon (1970) và Perry (1970) cho một vài đánh giá đầu tiên tại Hoa 
Kỳ.
41 Để đưa ra một lý do, Flanagan, Soskice và Ulman (1983) đánh giá đường cong 
Phillps cho rất nhiều nước khác nhau.
42 Lời giải thích khác này được đưa ra bởi Eckstein và Brinner (1972), nhưng không 
đưa được nó thành xu hướng chủ đạo.
43 Ở đây chúng ta nên chú ý tới lời chỉ trích của Sargent (1971) mà hệ số của lạm phát 
trễ sẽ không bằng 1 trong một mô hình nếu quá trình phát sinh lạm phát ổn định mà 
không cần bắt nguồn từ một khối thống nhất.
44 Chúng ta sẽ nhận thấy một ví dụ về xu hướng đó khi chúng ta xem xét lại lý thuyết 
của Summer về việc chấp nhận giả thuyết bước ngẫu nhiên dựa trên thất bại khi bác bỏ 
bởi những cuộc sát hạch với sức mạnh rất nhỏ phản đối lại giả thuyết thay thế.
45 Sự cố lạm phát tăng nhanh cùng với mức thất nghiệp thấp trong một thời gian dài là 
một dự đoán của lý thuyết. Việc lạm phát thường xuyên tăng rất nhanh dường như ủng 
hộ lý thuyết. Nhưng việc lạm phát tăng nhanh như thế này xảy ra khi chính phủ đánh 
mất uy tín trong vấn đề tài chính (và chỉ có thể trả số tiền thiếu hụt của họ bằng thuế). 
Điều này có thể là sự mất uy tín tài chính, không phải là để giữ mức thất nghiệp thấp, và 
chính vì thế lạm phát tăng rất nhanh.
46 Quan sát dựa vào Pierre Fortin trong Fortin, Akerlof, Dickens và Perry (2001)
47 Tham khảo Fortin (1995, 1996)
48 Tham khảo Bewley (1999)
49 Tham khảo Lebow, Saks và Wilson (1999)
50 Tham khảo Fehr và Goette (2000)
51 Xem Tobin (1972).
52 Xem Akerlof, Dickens và Perry (1996)
53 Điều này bị gây ra bởi làm sự tăng liên tục của làm phát giả của giai đoạn trước dẫn 
tới sự kỳ vọng lạm phát trong giai đoạn tiếp theo. Điều này xảy ra trùng hợp tới mức 
dường như yếu tố may mắn cũng đóng một vai trò trong quá trình này.
54 Mức lạm phát trong quá khứ được đưa vào trực tiếp vì việc thoả thuận tiền công 
cũng dựa trên mức tiền công đưa ra bởi các đối thủ cạnh tranh.
55 Xem Akerlof, Dickens và Perry (2000) 
56 Công thức này cũng bị ảnh hưởng bởi quan điểm của quần chúng về lạm phát. 
Shiller (1997a, 1997b) đưa ra sự khác nhau giữa khung suy nghĩ của quần chúng nhân 
dân và các nhà kinh tế học dựa trên kết quả của các phiếu điều tra.
57 Tuy nhiên, một không nhất thiết phải là con số kỳ diệu của các kỳ trước được Sargent 
ghi nhận (1971).
58 Những phép hồi quy này giải quyết những vấn đề mà Sargent đưa ra rằng mô hình tỉ 
lệ tự nhiên tạo ra những hệ số về lạm phát kỳ vọng tỉ lệ với tỉ lệ cung tiền, và những hệ 
số này không cần thiết phải ngang bằng với sự thống nhất. Nếu những kỳ vọng được 
quan sát chính xác, các hệ số về lạm phát kỳ vọng với tỉ lệ tự nhiên phải thống nhất. Sai 
sót trong số liệu liên quan tới kỳ vọng sẽ hướng các hệ số giảm xuống, nhưng nó không, 
theo như quan sát, dẫn tới những thay đổi trong hệ số trừ phi có những thay đổi trong 
lỗi quan sát giữa các thời kỳ làm phát ở mức cao và thấp.
59 3.8 phần trăm từ năm 1990 tới 1999, theo như Báo Cáo Kinh Tế của Tổng Thống 
năm 2000, bẳng B-107.
60 Xem Nisbett và Ross (1980). Quyển sách này là một trong những tác phẩm hàng đầu 
về tâm lý của kinh tế vĩ mỗ dựa trên hành vi. Rõ ràng là các nhà khoa học nghiên cứu về 
nhận thức tâm lý có nên tảng kinh nghiệm vững chắc hơn cho những giả thuyết của họ 
hơn các nhà kinh tế.
61 Engen, Gale và Uccello (1999, trang 97) đưa ra một kết luận ngược lại. Họ so sánh 
tài sản thực sự với những tài sản bắt nguồn từ mô hình chủ nghĩa lạc quan xác định. Mô 
hình xác định mà họ mong muốn có tỉ số sở thich theo thời gian là 3 phần trăm. Theo 
như số liệu từ cuộc điều tra Y Tế và Hưu Chí tại Mỹ với một định nghĩa rộng về của cải 
bao gồm sự công bằng của tất cả gia đình, 60.5 phần trăm các hộ gia đình có nhiều hơn 
mức trung bình tối ưu về tài sản trong mô hình xác định. Nhưng tôi muốn tập trung vào 
kết quả khác thu được từ những sự mô phỏng của họ. Nếu chúng ta loại yếu tố đầu tư 
cân bằng trong gia đình khỏi vốn tài chính có thể tiêu được, và giá sử rằng tỉ giá bằng 
không của triết khấu thời gian, chỉ 29.9 các hộ gia đình tới độ tuổi trước nghỉ hưu là 60 
hoặc 61 tuỏi có tài sản ở mức trung bình tối ưu cho những người ở độ tuổi của họ (trang 
99, bẳng 5). Giống như những người thăm gia tranh luận, cả về lý do kinh nghiệm và 
thời kỳ, tôi cho rằng tỉ giả bằng không của chiết khấu chính xác hơn. Điều này tuân theo 
sở thích của con người về việc tỉ lệ tiêu dùng không giảm ở mức lãi suất bằng không 
(xem phía dưới) và nó đánh giá độ thoả dụng ở các độ tuổi khác nhau dựa trên quy luật 
một đổi một. Việc tôi lựa chọn loại bỏ vốn cân bằng gia đình chứng tỏ rằng những 
người về hưu không bán nhà vì những lý do tài chính hoặc thế chấp nhà khi họ về già.
62 Bản từ điển Bách Khoa Anh năm 1946 của tôi miêu tả thực tế về cuộc hành quân của 
những con lemmut mà " không bao giờ dừng lại cho tới khi chúng tới biển, nơi chúng sẽ 
nhảy xuống và bị nhấn chìm."
63 Sự khác nhau này được đưa ra trong Laibson (1999).
64 Xem Engen, Gale và Uccello (1999, trang 157-8).
65 Xem Barsky, Kimball, Juster, and Shapiro (1997, trang 34).
66 Xem Laibson (1997), Laibson, Repetto và Tobacman (1998), Strotz (1956), Phelps 
and Pollak (1968), Loewenstein and Prelec (1992), and Ainslie (1992). Trong tác phẩm 
của Akerlof (1991) Tôi thấy đáng tiếc vì mình nhận thấy những công trình nghiên cứu 
trước đó về sự mâu thuẫn theo thời gian. Trong ngành kinh tế, điều này bao gồm 
includes Strotz (1956), Phelps và Pollak (1968), Thaler (1981), và Loewenstein (1987). 
Loewenstein và Thaler (1989) đưa ra một bản tổng kết xuất sắc về sự mâu thuẫn động 
bao gồm những thí nghiệm và học thuyết tâm lý. Xem Ainslie (1992).
67 Xem Madrian và Shea (2001).
68 Xem Bernheim, Skinner và Weinberg (2001) và Banks, Blundell, và Tanner (1998).
69 Những sự suy giảm như vậy có thể xảy ra nếu nghỉ hưu đi liền với những cú sốc do 
thu nhập thấp. Bernheim, Skinner, và Weinberg (2001, trang 854) cho rằng sự thay đổi 
như vậy là rất nhỏ.
72 Tất nhiên những người nghỉ hưu có nhiều thú vui và vì vậy một người có thể kỳ vọng 
mức tiêu dùng giảm đi vì những thú vui mới thay thế cho việc tiêu dùng. Điều này không 
phải dễ dàng nhưng có thể thực hiện được, thêm vào đó, để giải thích tại sao sự thay thế 
như vậy đa dạng một cách hệ thống với mức giàu có và với tỉ số thay thế doanh thu. 
Điều này có thể xảy ra nếu những người có những thị hiếu nhất định với các hoạt động 
giải trí khi nghỉ hưu có tỉ số thay thế doanh thu cao và đã tích luỹ được những khoản tiết 
kiệm lớn.
71 Từ 4.4 phần trăm tới 8.7 phần trăm. Hành vi này cũng được giải thích bằng lý thuyết 
viễn cảnh của Kahneman v Tversky (1979). Theo lý thuyết này, cơ cấu của quá trình đưa 
ra quyết định là quan trọng và mọi người thường chống lại việc thua lỗ. Trong bối cảnh 
này, người làm công không muốn giảm mức tiêu dùng.
72 Keynes (1936, p. 156).
73 Ví dụ, lấy từ một sự phân phối thông thường, việc dự báo đã đem lại một độ lệch 
bình phương nhỏ nhất giữa lần rút thăm thực sự và dự đoán là số trung bình của sự 
phân phối, đây là hằng số và không có dao động.
74 Ông đã ngoại suy cổ tức tương lai gấp nhiều lần so với trước những quan sát trước 
kia của ông. Tham khảo thử nghiệm tương tự của LeRoy và Porter (1981).
75 Tham khảo Campbell và Shiller (1987). Mặc dù tác phẩm tour de force của Shiller 
ban đầu dường như đã nắm bắt được tình thế, nhưng tác phẩm này đã gặp phải hai vấn 
đề khó khăn về kỹ thuật. Vấn đề đầu tiên là nó đã giới thiệu một độ lệch mới vào quy 
trình của Shiller: cả chuỗi giá cổ phiếu lẫn tiền lãi cổ phần đều không ổn định và một 
chuỗi không ổn định thậm chí không tạo nên một dao động nào. Vấn đề thứ hai liên 
quan tới sự ngắn gọn trong ví dụ của Shiller và phép ngoại suy của ông về tiền lãi cổ 
tức tương lai. Allen Kleidon (1986) chỉ ra trong dữ liệu mô phỏng rằng sự khác nhau 
giữa những dao động trong giá cổ phiếu của Shiller và trong chuỗi cổ tức không đủ lớn 
loại bỏ một cách dứt khoát những giả thuyết thị trường không có hiệu quả khi tiền lãi 
theo bước ngẫu nhiên. Thử nghiệm Campbell-Shiller chú ý tới sự không ổn định của giá 
cổ phiếu và cổ tức, với điều kiện là hai chuỗi phải hợp thành một thể thống nhất. Việc 
thử nghiệm này cũng rất hợp lý nếu các công ty giải quyết ổn thoả cổ tức.
Tính không ổn định của giá cổ phiếu cũng có thể được giải thích bằng vòng quay tần 
suất trong tỉ lệ thực sự của tiền lãi cổ phiếu. Nhưng chu kỳ đó mâu thuẫn với hầu hết 
những lý thuyết cổ điển tiêu chuẩn của nền kinh tế, nơi mà lãi suất thực tế được quyết 
định chủ yếu bởi tình trạng của khoa học kỹ thuật, và tỉ số vốn-sản lượng. Trong mô 
hình cổ điển tiêu chuẩn cả khoa học công nghệ và tỉ lệ vốn sản lượng thay đổi rất chậm.
76 Nơi mà không phải quan trọng theo ý nghĩa thống kê, mối tương quan đó dường như 
không hề quan trọng.
77 West (1988) chứng minh giống như vậy về sức mạnh yếu kém của thử nghiệm thị 
trường hiệu quả của Kleidon sử dụng dữ liệu của Shiller.
78 Tham khảo Mehra (2001)
79 Sự thử nghiệm này vẫn rất xuất sắc ngay cả khi nó bị bác bỏ, vì hầu hết các lý thuyết 
tiêu dùng, cho dù tăng đến tột cùng hay không, cũng sẽ đưa ra một mối tương quan 
đáng kể giữa tỉ lệ của tiền lãi cổ phần và tỉ lệ tăng trưởng tiêu dùng. Ví dụ, mối tương 
quan như vậy sẽ xảy ra nếu người tiêu dùng có một thói quen tiêu dùng chỉ đơn thuần 
phụ thuộc vào tài sản hiện có của họ, hoặc là nếu như tính lạc quan đó dẫn tới việc làm 
tăng lãi cổ phần trong thị trường cổ phiếu cũng đồng thời dẫn tới việc yêu thích mua 
sắm. Parker (2001) đề nghị một giải pháp khả thi khác về vấn đề tiền lãi cổ phần.
80 Tham khảo Romer (1993).
81 Tham khảo tài liệu về lý thuyết q, đặc biệt là bao gồm cả Tobin (1969), Abel (1982), 
Hayashi (1982) và Summer (1981).
82 Tham khảo Myers (1974), Jensen và Meckling (1976). Lamont (1995) chỉ ra tính cân 
bằng kép xảy ra như thế nào bởi sự độc lập như vậy.
83 Những người Tây Ba Nha cũng có một lịch sử về sự phân biệt chủng tộc giống như 
vậy nhưng ít khắc nghiệt hơn.
84 Tham khảo  />85 Vào năm 1996 có 530,140 tù nhân nam là người da đen và 213,100 người da đen 
không phải gốc Tây Ba Nha và 80,900 người tù gốc Tây Ba Nha ở cả hai giới. Có 
462,500 nam và 55,800 nữ tù nhân. Ngoại suy tỉ lệ người da đen gốc Tây Ba Nha là .3 
và tỉ lệ nam/nữ đối với người gốc Phi giống với người da trắng lên tới 211 814 người 
đàn ông gốc Phi vào tù năm 1996. Tỉ lệ đàn ông gốc Phi là khoảng 1/ 2 * (30 + .6* 4.7) 
triệu = 32.82/2 = 16.14 triệu. Kết quả ròng là khoảng 4.5 phần trăm trong tổng số đàn 
ông gốc Phi phải vào tù. Nguồn của tỉ lệ vào tù: Số dân vào tù của Hoa Kỳ năm 1996, 
Sở tư pháp Hoa Kỳ, Bảng 5.7, trang 82. Nguồn: 
 />88 Tham khảo Levitt (1996).
89 Tham khảo Ferguson (1998) về hiệu quả của chất lượng giáo viên và Krueger và 
Whitmore (1999) về hiệu quả của quy mô lớp học.
90 Tham khảo Delpit (1995)
91 Glenn Loury (1995) cho rằng hành động quả quyết cũng có thể có những ảnh hưởng 
đối ngược: nó có thể làm trầm trọng thêm cảm giác bị loại bỏ ra khỏi xã hội và khiến họ 
cảm thấy mình không được hưởng những gì mình đạt được.
92 Tham khảo Hicks (1927) và Patinkin (1956).