Mục lục
1
I, Phần mở đầu:
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước, trong đó, song song với việc
ban hành ra các nghị quyết và luật, một trong những chức năng quan trọng khác
của Quốc hội được Hiến định là chức năng làm luật và sửa đổi luật 1. Trên thực tế,
việc ban hành ra được một văn bản Luật phải trải qua nhiều quy trình và phải tuân
thủ nghiêm ngặt các quy định cụ thể trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật năm 2015, đây là cơ sở pháp lý quan trọng giúp Quốc hội ban hành ra văn bản
quy phạm pháp luật theo đúng thẩm quyền mà pháp luật cho phép. Nhưng trên hết,
về bản chất, các văn bản quy phạm pháp luật được ra đời với mục đích duy nhất là
nhằm điều chỉnh các đối tượng phải chịu sự tác động trực tiếp của VBQPPL đó, vì
vậy, q trình tham gia đóng góp ý kiến hay hoạt động lấy ý kiến trong quy trình
xây dựng văn bản quy phạm pháp luật là vô cùng quan trọng trong cơng tác soạn
thảo cũng như hồn thiện luật nhằm hướng đến tính áp dụng thực tiễn của luật.
Vì đây là một vấn đề vô cùng quan trọng, đồng thời cũng là mong muốn
được đi sâu tìm hiểu về các quy định của pháp luật và thực tiễn của việc thực hiện
hoạt động lấy ý kiến trong quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật nên em
xin chọn đề tài “Phân tích quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện hoạt động
lấy ý kiến trong quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.” làm đề tài tiểu
luận. Do kiến thức còn hạn chế nên việc sai sót và thiếu thơng tin trong bài làm có
thể là điều khơng tránh khỏi. Vì vậy em rất mong nhận được những sự đóng góp
của thầy, cơ để em có cái nhìn sâu sắc hơn về đề tài, đồng thời cũng là giúp em rút
kinh nghiệm cho những bài tập lần sau.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô trong tổ bộ môn!
1 Căn cứ theo Khoản 1, Điều 70, Hiến pháp 2013
2
II, Phần nội dung:
1, Quy định của pháp luật trong việc thực hiện hoạt động lấy ý kiến trong
quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Để có thể thực hiện cơng việc sửa đổi và hồn thiện các VBQPPL một
cách có hiệu quả cũng như là dễ thực hiện nhất thì duy chỉ có thể bằng cách lắng
nghe ý kiến góp ý trực tiếp từ chính đối tượng bị tác động bởi luật đó, sau đó tiến
hành sửa đổi, hoàn thiện và đánh giá lại mức độ áp dụng thực tiễn. Đây cũng là
một trong số các nguyên tắc và là tiêu trí quan trọng trong hoạt động xây dựng văn
bản quy phạm pháp luật được quy định trong Luật ban hành văn bản quy phạm
pháp luật 2015: “Bảo đảm công khai, dân chủ trong việc tiếp nhận, phản hồi ý
kiến, kiến nghị của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình xây dựng, ban hành
văn bản quy phạm pháp luật.”2. Qua đó có thể thấy, hoạt động lấy ý kiến trong quy
trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật không chỉ đơn giản là một hoạt động
giao tiếp đơn thuần giữa các nhà làm luật với các đối tượng được luật hướng đến
mà đó cịn là trách nhiệm, là nghĩa vụ của nhà làm luật trong việc hồn thiện
VBQPPL thơng qua việc lắng nghe và thấu hiểu được tiếng lịng của người dân.
Quy trình xây dựng VBQPPL được quy định trong Hiến pháp và được cụ
thể hóa trong Luật tổ chức Quốc hội, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Trong đó, các quy định của pháp luật về hoạt động lấy ý kiến trong quy trình xây
dựng văn bản quy phạm pháp luật đã được quy định một cách rõ ràng trong Điều 6
về tham gia góp ý kiến xây dựng văn bản quy phạm pháp luật trong Luật ban hành
VBQPPL 2015 như sau:
“1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam, các tổ chức thành viên khác của Mặt trận và các cơ quan, tổ chức khác, cá
2 Khoản 6, Điều 5, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015
3
nhân có quyền và được tạo điều kiện góp ý kiến về đề nghị xây dựng văn bản quy
phạm pháp luật và dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
2. Trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan, tổ
chức chủ trì soạn thảo và cơ quan, tổ chức có liên quan có trách nhiệm tạo điều
kiện để các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia góp ý kiến về đề nghị xây dựng văn
bản quy phạm pháp luật, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; tổ chức lấy ý kiến
của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản quy phạm pháp luật.
3. Ý kiến tham gia về đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, dự
thảo văn bản quy phạm pháp luật phải được nghiên cứu, tiếp thu trong q trình
chỉnh lý dự thảo văn bản.”
Trong đó, có thể thấy, xuất phát từ đặc điểm lập pháp, việc tham gia hoạt
động này bao gồm rất nhiều chủ thể. Do đó, xác định rõ vai trị của mỗi chủ thể
trong quá trình quản lý là yếu tố quan trọng bảo đảm hiệu quả hoạt động này trên
thực tế.
Theo quy định tại Điều 84 Hiến pháp năm 2013: “Chủ tịch nước, Ủy ban
thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, Chính phủ,
Tịa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận tổ quốc Việt nam
và các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền trình dự án Luật ra trước Quốc
hội. Đại biểu Quốc hội có quyền trình kiến nghị về luật và dự án luật ra trước Quốc
hội”. Việc mở rộng phạm vi chủ thể tham gia vào quá trình này nhằm tăng cường
khả năng phát hiện nhu cầu điều chỉnh của luật, pháp lệnh về lĩnh vực của đời sống
xã hội, khắc phục sự hạn chế các lĩnh vực do pháp luật điều chỉnh, đáp ứng bối
cảnh kinh tế, quốc tế hiện nay.
Hơn thế nữa, căn cứ theo Khoản 2 Điều 6 Luật ban hành VBQPPL:
“Trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan, tổ chức chủ trì
soạn thảo và cơ quan, tổ chức có liên quan có trách nhiệm tạo điều kiện để các cơ
quan, tổ chức, cá nhân tham gia góp ý kiến về đề nghị xây dựng văn bản quy phạm
4
pháp luật…” các cá nhân ở đây cũng có thể được hiểu là các đối tượng chịu sự tác
động trực tiếp của văn bản quy phạm pháp luật được nhắc tới ngay sau đó, những
đối tượng đó có thể hiểu một cách chung nhất chính là các cá thể đang sinh sống và
làm việc trong xã hội. Chính vì lý do đó mà hoạt động lấy ý kiến trong quy trình
xây dựng văn bản quy phạm pháp luật trở nên đặc biệt hơn tất thảy, vì đó là hoạt
động bám sát nhất với thực tiễn về đời sống pháp luật của người dân, điều đó thể
hiện rằng pháp luật được xây dựng dựa trên các quyền và lợi ích hướng đến chủ
thể duy nhất là người dân chứ không để nhằm thượng tôn hay hạ thấp một cá nhân
hay một tập thể trong xã hội. Bản chất của nhà nước ta là “ nhà nước của dân, do
dân, vì dân”3, do đó trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhân dân là chủ
thể chính trong mọi hoạt động và lập pháp không phải là một ngoại lệ, mà trái lại
nó là một hoạt động thể hiện rõ nhất quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, có sự
đồng lịng của nhân dân đối với các dự thảo luật thì hiệu quả của văn bản Luật sau
khi ban hành mới đi vào cuộc sống và phát huy được vai trị của nó trong việc điều
chỉnh các quan hệ phát sinh trong xã hội tạo bước tiền đề để trong các hoạt động
lập pháp của Quốc hội trong thời gian tới.
2, Thực tiễn trong việc thực hiện hoạt động lấy ý kiến trong quy trình xây
dựng văn bản quy phạm pháp luật:
Đóng vai trị vơ cùng lớn trong hoạt động lập pháp của nước ta hiện nay,
có thể nói, quy trình lập pháp là một mắt xích quan trọng trong xuyên suốt hoạt
động lập pháp. Bởi lẽ, quy trình lập pháp là quy trình nhằm đảm bảo tạo ra được
thành quả là các VBQPPL có chất lượng cao, là các VBQPPL phản ánh được một
cách sâu sắc ý chí, nguyện vọng của nhân dân, phản ánh điều kiện kinh tế, chính
trị, phù hợp thực tế và khơng trái với Hiến pháp. Vì vậy, quy trình xây dựng
VBQPPL càng chặt chẽ, càng khoa học thì chất lượng VBQPPL được ban hành
càng đảm bảo. Luật ban hành VBQPPL năm 2015 đã có nhiều sửa đổi trong quy
3 Căn cứ Khoản 1, Điều 2, Hiến pháp 2013
5
trình xây dựng VBQPPL nói chung và VBQPPL do Quốc hội ban hành nói riêng
từ khâu lập dự kiến chương trình, soạn thảo, thẩm định, thẩm tra và thơng qua văn
bản theo hướng tăng cường trách nhiệm của các cơ quan tham mưu trong việc soạn
thảo, thẩm định, thẩm tra, chỉnh lí dự án, dự thảo, cơ quan ban hành chỉ tập trung
vào việc thảo luận và quyết định chính sách. Tuy nhiên, trên thực tế, quy trình xây
dựng VBQPPL của Quốc hội vẫn còn tồn tại một số bất cập trong các giai đoạn
trong quy trình lập pháp, cụ thể là trong giai đoạn lấy ý kiến cho các dự án luật, dự
thảo nghị quyết.
Đơn cử có thể kể đến các bất cập liên quan đến cách thức các nhà làm
tiếp cận đến những đóng góp về pháp luật của người dân như sau. Luật ban hành
VBQPPL năm 2015 quy định dự thảo phải được đăng trên Trang thông tin điện tử
của Chính phủ hoặc của cơ quan, tổ chức, cá nhân góp ý kiến 4. Qua đó, với quy
định như trên, ta thấy được tính cơng khai, minh bạch trong hoạt động lập pháp
được mở rộng trong toàn bộ quá trình xây dựng và ban hành luật, nghị quyết từ
khâu soạn thảo đến khâu ban hành vì nó khơng những giúp cho dân biết được định
hướng chính sách pháp luật trong tương lai để chuẩn bị các điều kiện cho việc thực
hiện, mà là một trong những kênh để người dân có thể thâm gia vào hoạt động xây
dựng thể chế, làm cho pháp luật phản ánh được ý chí, nguyện vọng của nhân dân.
Đây cũng là một trong những nội dung quan trọng nhằm thực hiện phương châm
“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã được đề cập nhiều trong các văn kiện
của Đảng.
Tuy nhiên, trên thực tế, pháp luật hiện hành vẫn chưa có những quy định
chặt chẽ về việc tiếp thu ý kiến đóng góp có thực sự được chuyển tải vào nội dung
văn bản không hay vẫn phụ thuộc vào nhận thức chủ quan của cơ quan soạn thảo.
Hơn nữa, việc lấy ý kiến trên thực tế vẫn còn nhiều điều đáng phải bàn. Việc lấy ý
kiến chưa chưa tạo được không khí thảo luận sơi nổi, các ý kiến đóng góp được
4 Điều 70, Luật ban hành VBQPPL 2015
6
tổng hợp, báo cáo qua nhiều khâu trung gian, làm sai lệch, biến dạng ý kiến.
Không những thế, đối tượng thường được lấy ý kiến cho các dự án, dự thảo là các
cơ quan nhà nước cũng không thực sự coi trọng trách nhiệm thảo luận, tranh luận
các vấn đề về tính cấp thiết của việc ban hành văn bản, nội dung, bố cục, tính hợp
pháp, tính khả thi của dự án, dự thảo. Trên thực tế, chỉ những quy định q vơ lý,
khơng đảm bảo tính hợp pháp và hợp lý, đụng cham trực tiếp đến công việc và đời
sống của họ thì người dân mới quan tâm nhiều.
Một bất cập nữa là việc tổ chức lấy ý kiến ở một số địa phương về các dự
án luật rất bất cập, chỉ có thể lấy ý kiến được một số cơ quan, tổ chức có liên quan
trực tiếp ở cấp tỉnh. Thậm chí có nhiều dự án, dự thảo không tổ chức được việc lấy
ý kiến rộng rãi của các cơ quan quản lý ở địa phương, ở cơ sở, đặc biệt là đối
tượng thi hành. Điều này đã hạn chế việc tập trung trí tuệ của nhiều ngành, nhiều
cấp, nhiều người và nó ảnh hưởng trực tiếp đến tính cơng khai, minh bạch, tính dân
chủ trong cơng tác lập pháp.
III, Phần kết luận:
Mục đích mà hoạt động lập pháp hướng tới là kịp thời ban hành các văn
bản luật, pháp lệnh một cách đồng bộ. Một hệ thống pháp luật khi có sự phối hợp
nhịp nhàng, có tính logic của các đạo luật thì mới tránh được sự chồng chéo, mâu
thuẫn khơng đáng có, đồng thời đáp ứng được các yêu cầu điều chỉnh các quan hệ
xã hội.
Trên đây là toàn bộ phần bài tập lớn của em với đề tài “Phân tích quy
định của pháp luật và thực tiễn thực hiện hoạt động lấy ý kiến trong quy trình xây
dựng văn bản quy phạm pháp luật.”. Vì đây là một đề tài rộng, cần sự phân tích
chuyên sâu, có kiến thức tổng qt và được tìm hiểu từ nhiều khía cạnh khác nhau
nên có thể phần bài làm của em vẫn còn tồn tại một những sai sót. Bản thân em rất
7
mong được nhận những sự góp ý từ các thầy, các cơ để bài làm của mình được
hồn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
8
IV, Danh mục tài liệu tham khảo
1.
2.
3.
4.
Giáo trình Xây dựng văn bản pháp luật, Đại học Luật Hà Nội.
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015.
Hiến pháp 2013.
Nghị định 34/2016/NĐ-CP quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật ban
5.
hành văn bản quy phạm pháp luật
“Đổi mới quy trình xây dựng luật, pháp lệnh của Việt Nam hiện nay”, Khóa
luận tốt nghiệp, Nguyễn Thị Long, 2012.
9