Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.73 KB, 19 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Những năm gần đây, mối quan hệ giữa Việt Nam - ASEAN đã và đang có những bước
tiến đáng kể. Vai trị của ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng với tư cách là thành viên tích
cực của tổ chức này đang dần lên cao và gây dựng được uy tín, tiếng nói nhất định trên trường
quốc tế. Điều đó đã cho thấy sự nỗ lực và cố gắng đáng hoan nghênh từ cả hai phía Việt Nam và
ASEAN.
Xuất phát từ những phát triển quan trọng trong mối quan hệ song phương ấy, thực tế đã
có rất nhiều cơng trình nghiên cứu, những bài viết và suy ngẫm của các học giả quan tâm tới mối
quan hệ Việt Nam - ASEAN. Trong đó, việc nghiên cứu lịch sử hình thành của hai chủ thể này
ln được quan tâm và chú trọng.
Trong q trình học tập và nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy rằng, giai đoạn 1976 -1978
thực sự là một dấu mốc rất quan trọng đối với quan hệ Việt Nam - ASEAN. Trong giai đoạn này,
những tín hiệu đầu tiên trong việc thiết lập quan hệ giữa ASEAN và nước ta đã được hình thành.
Đây cũng có thể được coi như viên gạch đầu tiên xây dựng nên “ngôi nhà chung Đông Nam Á”
và Việt Nam với tư cách là thành viên đang đóng một vai trị quan trọng. Vì vậy, chúng tôi đã tập
trung nghiên cứu bài tiểu luận với đề tài: “Chính sách đối ngoại Việt Nam – ASEAN giai đoạn
<i><b>1976 – 1978”.</b></i>
Từ những suy ngẫm riêng ấy, chúng tôi cố gắng tìm tịi, nghiên cứu một cách kĩ lưỡng
hơn, và nhận thấy có hai vấn đề nổi lên rất đáng quan tâm, cần được khai thác cũng như đi sâu
hơn nữa. Đó đồng thời cũng chính là hai câu hỏi nghiên cứu mà nhóm thực hiện bằng những nỗ
lực và khả năng của mình muốn giải đáp theo cách trọn vẹn nhất qua bài tiểu luận này.
- <i><b>Một là: Tại sao vào năm 1976 khi tình hình có nhiều thuận lợi hơn là khó</b></i>
khăn, Việt Nam lại khơng gia nhập vào ASEAN?
- <i><b>Hai là: Tại sao có thể nói, quan hệ Việt Nam - ASEAN trong giai đoạn</b></i>
1976 - 1978 là “quan hệ trong sự hòa dịu mong manh”?
Nhằm mục đích có thể đưa ra lời giải đáp cho hai câu hỏi nghiên cứu một cách rõ ràng,
cũng như có thể đi sâu vào giải quyết từng vấn đề đặt ra, bài tiểu luận đã được chia thành năm
phần lớn, bao gồm:
I. Bối cảnh chung của giai đoạn,
II. Nội dung chính sách,
III. Cách triển khai của Việt Nam,
IV. Đánh giá,
V. Nêu ra bài học.
được chọn lọc khá kĩ lưỡng, kèm theo phân tích đi sâu và có đánh giá chung sẽ giúp người đọc
dễ theo dõi và có cái nhìn khách quan nhất.
Bài tiểu luận này có thể coi là cố gắng và nỗ lực rất lớn của những người thực hiện với
mong muốn có thể đưa ra những ý kiến tâm huyết của mình đối với việc nghiên cứu một trong
những giai đoạn tuy ngắn ngủi nhưng hết sức nhạy cảm và còn nhiều vấn đề gây tranh cãi. Trong
quá trình thực hiện, chúng tơi cũng gặp một số khó khăn nhất định, như việc thu thập tài liệu ở
một số phần còn khá hạn chế khiến cho việc nghiên cứu gặp nhiều trở ngại, vì vậy bài tiểu luận
sẽ khơng tránh khỏi thiếu sót. Nhóm thực hiện rất mong nhận được sự góp ý chân thành của giáo
`gian sắp tới.
<b>I. Bối cảnh chung</b>
<b>1. Tình hình trong nước</b>
Đại thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 đã đưa nước ta vào một trang sử mới,
đó là trang sử đánh dấu kỉ nguyên tự do, độc lập và thống nhất. Cả dân tộc Việt Nam với tinh
<i><b>1.1. Thuận lợi</b></i>
Sau hơn 20 năm kháng chiến trường kì chống đế quốc Mỹ, chiến thắng anh dũng của
quân và dân ta trước một nước đế quốc khổng lồ đã làm cho cả thế giới rung chuyển. Chiến
thắng ấy không những đem lại tự do, độc lập cho dân tộc mà nó cịn tạo nên một hình ảnh tốt đẹp
hơn, với một chỗ đứng vững chãi hơn cho đất nước ta trên trường quốc tế. Với uy tín lên cao của
mình, Việt Nam đã được hàng loạt các nước công nhận và đặt quan hệ ngoại giao. Đây cũng là
những thuận lợi cơ bản cho nước ta trong việc có một hình ảnh mang tính chủ động, có tiếng nói
hơn trong quan hệ đối ngoại với cộng đồng quốc tế, đặc biệt là với ASEAN.
<i><b>1.2. Khó khăn</b></i>
Bên cạnh những mặt thuận lợi ấy, đất nước ta cũng phải đối mặt với nhiều thách thức. Đó
là việc nước ta có xuất phát điểm thấp, nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ, manh mún
cộng thêm những hậu quả rất nặng nề từ chiến tranh, cùng với thiên tai địch họa luôn đe dọa,
rình rập. Báo cáo chính trị đại hội đảng IV (1976)1<sub> đánh giá về tình hình trong nước cũng đã nêu</sub>
lên: “Cả nước hịa bình độc lập và thống nhất đang tiến lên chủ nghĩa xã hội với nhiều thuận lợi,
song cũng cịn nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh và các tàn dư của chủ nghĩa thực dân
mới gây ra”. Tình hình trong nước cịn bị ảnh hưởng xấu bởi những thế lực phản động và nhiều
thế lực mới khác làm cho tình hình nảy sinh nhiều phức tạp. Cùng với đó là những dư âm cũ
trong chính trị, xã hội, kinh tế… sau chiến tranh gây ra bởi phe đế quốc và thực dân.
Một trong những hạn chế và thách thức lớn nữa là lối tư duy bị ảnh hưởng nhiều bởi yếu
tố ý thức hệ vẫn còn phổ biến trong nhiều thành phần giai cấp. Sự ảnh hưởng của Liên Xô và
Trung Quốc - “những người anh cả và anh hai” trong hệ thống xã hội chủ nghĩa phần nào làm
Mặc dù có những thuận lợi nhất định sau chiến thắng lịch sử chống đế quốc Mỹ, nước ta
vẫn còn phải đối mặt với nhiều vấn đề tồn đọng - khó khăn và đầy thách thức. Những khó khăn
về kinh tế cũng như tình hình chính trị, xã hội… sau chiến tranh khiến cho đất nước ta cần một
môi trường ổn định hơn để xây dựng và củng cố đất nước. Thêm vào đó, để có thể phục hồi kinh
tế một cách nhanh chóng, đất nước ta cũng cần phải mở rộng đối ngoại với sự giúp đỡ của bên
ngoài, trước tiên là khu vực, và đặc biệt là ASEAN sẽ đóng một vai trị quan trọng. Tuy nhiên,
dù đã có những chủ động và thuận lợi nhất định trên trường quốc tế, ta vẫn bị ảnh hưởng rất
nhiều bởi yếu tố ý thức hệ, bị chi phối bởi các nước lớn, trong đó nhấn mạnh vai trị Xơ - Trung.
Chính những khó khăn đó đã làm cho quan hệ đối ngoại trong thời gian này thiếu đi sự linh hoạt
và “hiệu quả một cách thực sự”.
<b>2. Những diễn biến mới trong quan hệ quốc tế và tình hình khu vực</b>
<i><b>2.1. Quan hệ quốc tế giữa các nước lớn</b></i>
Sau khi chiến tranh ở Việt Nam kết thúc, Hoa Kì rút lui dần khỏi chiến trường Đơng Nam
Á. Với thất bại bất ngờ tại chiến trường Việt Nam, Hoa Kì phần nào bị suy giảm ảnh hưởng và
uy tín của mình với cộng đồng quốc tế, giờ đây “ơng trùm của thế giới tư bản” có xu thế hịa
hỗn với bên ngoài và tập trung củng cố lấy lại sức mạnh để nắm đồng minh. Chủ trương ấy của
Hoa Kì có phần dễ hiểu, vì lúc này cực đối đầu cịn lại là Liên Xơ đang tranh thủ khai thác những
lợi thế trong cục diện cách mạng thế giới sau chiến tranh Việt Nam, cũng như những khó khăn
của Mỹ để tạo ảnh hưởng của mình.
Bên cạnh những thay đổi trong chính sách đối ngoại của Mỹ, chúng ta cũng cần xem xét
đến “ý đồ” của Liên Xô và Trung Quốc. Như đã nói ở trên, sau chiến tranh Việt Nam, Liên Xô ra
Bên cạnh đó, cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật lần thứ ba phát triển nhanh chóng đã thúc
đẩy việc chạy đua kinh tế và xu thế hịa hỗn giữa các nước. Giờ đây việc duy trì một môi trường
ổn định để phát triển kinh tế đã được rất nhiều nước quan tâm, chú trọng.
<i><b>2.2. Tình hình khu vực</b></i>
Chính những sự thay đổi ấy trong tình hình quốc tế đã dẫn đến những chuyển biến to lớn
đối với các nước trong khu vực và đặc biệt là mối quan hệ giữa Việt Nam và ASEAN vào thời
kỳ này.
Từ những năm 1960, khi cuộc chiến tranh mà Mỹ tiến hành ở Việt Nam đang ở cao trào
và có sự tham gia hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp của một số nước ASEAN, hai bên hầu như khơng
có mối quan hệ với nhau (trừ mối quan hệ giữa Việt Nam Dân chủ cộng hịa và Inđơnêxia). Các
nước ASEAN vào thời điểm đó cịn bị ảnh hưởng khá lớn bởi vai trị của Mỹ trong chính sách
của mình. Tuy nhiên, thực tế là vào cuối những năm 60, đầu những năm 70 với những biến động
mới trong tình hình thế giới, các nước ASEAN đã có những động thái mới mang tính chất thay
đổi trong chính sách đối ngoại. Điều đó đã được thể hiện qua việc kí kết và đưa ra tun bố về
khu vực hịa bình, tự do và trung lập ở Đơng Nam Á, hay còn gọi là tuyên bố ZOPFAN. Thực
chất với việc kí kết tuyên bố này, ASEAN muốn tách ra, đứng ngoài những quan hệ phức tạp
giữa các nước lớn và tìm cách thốt khỏi sự dính líu vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Sau
tuyên bố này, một số nước ASEAN đã bắt đầu thăm dò khả năng quan hệ với Việt Nam trên một
Sang đầu năm 1975, cùng với những chuyển biến mới ở khu vực Đông Dương, mà nổi
bật là chiến thắng của Việt Nam với Hoa Kì và những xu hướng mới trong tình hình quốc tế, các
nước ASEAN đã có những thay đổi mang tính chủ động hơn, tích cực hơn trong quan hệ với
Việt Nam. Bản thơng cáo chung 6/1975 có ghi nhận rằng các nước ASEAN sẵn sàng thiết lập
quan hệ với các nước Đông Dương, mặc dù “nhiều nước ASEAN cũng không hân hoan với
chiến thắng của ba nước Đông Dương và chưa tin tưởng sự hội nhập của ba nước này vào
ASEAN ngay sau cuộc chiến”3<sub>. Thủ tướng Xingapo Lý Quang Diệu đã nhấn mạnh rằng: “Chúng</sub>
tôi (ASEAN) đã được chuẩn bị bằng mọi giá tự tái điều chỉnh mình để đạt được sự thiện cảm của
các quốc gia Đông Dương…”. Một trong những dấu hiệu về sự hòa giải giữa ASEAN và Việt
Nam là ASEAN công khai bày tỏ ý định tiếp nhận Việt Nam vào tổ chức này. Điều này đã được
thể hiện trong tuyên bố của Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần I tại Bali – Inđônêxia (2/1976) và
lần thứ II tại Kuala-Lumpur (8/1977).
Như vậy, có thể nhận thấy rằng, việc hòa dịu trong mối quan hệ với các nước Đơng
Dương, trong đó có Việt Nam đã được ASEAN đề cập đến ngay từ cuối những năm 60. Đến nửa
sau những năm 70, những tín hiệu hịa giải từ phía ASEAN trong việc bình thường hóa quan hệ
với Việt Nam đã dần được thể hiện một cách rõ ràng hơn, thậm chí mang tính chủ động cao. Đây
là nền móng đầu tiên cho những hoạt động ngoại giao giữa Việt Nam và ASEAN trong giai đoạn
sau này.
<i><b>2.3. Đôi nét nhận xét về tình hình quốc tế và khu vực</b></i>
<b>II. Nội dung chính sách</b>
Mối quan hệ Việt Nam – ASEAN trong thời kì từ 1967 tới 1995 đã trải qua nhiều giai
đoạn thăng trầm, từ những khoảng thời gian nghi kỵ lạnh nhạt, hết sức căng thẳng đến khi cả hai
bên cùng kiếm tìm biện pháp hịa giải và từ đó từng bước tiến tới hội nhập. Các nhà hoạch định
Trong giai đoạn 1976 – 1978, chính sách đối ngoại của Cộng hịa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam với ASEAN có 2 điểm nổi bật, đó là Chính sách bốn điểm và những chính sách đối ngoại
được đưa ra trong Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IV. Bên cạnh đó, vào năm 1978 với
những thay đổi trong tình hình khu vực và thế giới, Việt Nam đã điều chỉnh chính sách đối ngoại
của mình, điều này cũng làm ảnh hưởng tới quan hệ Việt Nam – ASEAN.
<b>1. Chính sách bốn điểm</b>
Ngày 5/7/1976, chính phủ Cộng hịa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chủ động đưa ra sáng
kiến cải thiện quan hệ với các nước khu vực thơng qua “Chính sách bốn điểm” bao gồm:
- Tơn trọng độc lập, chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm lược nhau,
không can thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, cùng tồn tại hịa bình;
- Khơng để lãnh thổ nước mình cho bất cứ nước ngồi nào sử dụng làm căn cứ xâm
lược và can thiệp vào các nước khác trong khu vực;
- Thiết lập quan hệ hữu nghị hịa bình, láng giềng tốt, giải quyết các vấn đề tranh
chấp thông qua thương lượng;
- Phát triển hợp tác vì sự nghiệp xây dựng đất nước phồn vinh theo điều kiện riêng
của mỗi nước, vì lợi ích độc lập dân tộc, hịa bình, trung lập thực sự ở Đơng Nam Á, góp phần
vào sự nghiệp hịa bình trên thế giới.4
<b>2. Đại hội Đảng IV</b>
Đại hội Đảng IV đề ra nhiệm vụ: “… ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi
Nhiệm vụ đề ra như trên phải chăng là quá cao? Đây là Đại hội Đảng đầu tiên được tổ
chức trong bối cảnh Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thống
nhất thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đất nước vừa được thống nhất còn rất nhiều
tồn tại cần phải giải quyết, đặc biệt về vấn đề kinh tế. Như vậy thời gian này mục tiêu phát triển
phải được đặt lên hàng đầu nhưng nhiệm vụ “kề vai sát cánh với các nước xã hội chủ nghĩa …”
cũng được đặt ra song song, điều đó cho thấy yếu tố ý thức hệ vẫn chi phối mạnh mẽ trong tư
4<sub> </sub><sub>TS Vũ Dương Huân, (2002), </sub><i><sub>Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp Đổi Mới (1975 - 2002)</sub></i><sub>, Học </sub>
viện Quan hệ Quốc tế, Hà Nội.
duy đối ngoại của ta nên vơ hình chung mục tiêu “phát triển” bị đẩy xuống hạng hai và mục tiêu
“an ninh” lại đưa lên hàng đầu.
Đại hội cũng vạch ra những chính sách cụ thể với từng nhóm đối tác nhưng giới hạn
trong bài này chúng tơi chỉ nêu lên chính sách đối với các nước ASEAN. Đó là: “Hồn tồn ủng
hộ sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của nhân dân các nước Đơng Nam châu Á vì độc lập dân tộc,
dân chủ, hịa bình và trung lập thực sự, khơng có căn cứ qn sự và quân đội của đế quốc trên đất
nước mình; sẵn sàng thiết lập và phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trong khu
vực trên cơ sở tơn trọng độc lập, chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm lược nhau,
không can thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, tồn tại trong hịa bình”.
Thơng qua chính sách này ta có thể thấy Việt Nam đã rất quan tâm tới việc mở rộng quan
hệ, muốn chung sống hòa bình với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Song thực
chất có phải như vậy? “Hịa bình và trung lập thực sự, khơng có căn cứ qn sự và quân đội của
đế quốc trên đất nước mình” ở đây có ý ám chỉ các nước trong tổ chức ASEAN lúc đó. Vì trong
chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam, Thái Lan đã có hai sư đồn bộ binh cùng chiến đấu
với binh lính Mỹ ở miền Nam Việt Nam và Philippin đã cho Mỹ xây dựng các căn cứ quân sự ở
<b>3. Sự thay đổi chính sách</b>
Đến giữa năm 1978, trước tình hình mới của khu vực, quốc tế và yêu cầu của chúng ta,
Đảng và Nhà nước ta đã điều chỉnh công tác đối ngoại:
- Nhấn mạnh việc cần tích cực mở rộng quan hệ đối ngoại nhằm phục vụ sự nghiệp
bảo vệ Tổ Quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và làm tốt nhiệm vụ quốc tế.
- Phân hóa và cơ lập cao độ kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất của nhân dân ta nói
riêng và của nhân dân Đơng Nam Á nói chung.
- Ra sức củng cố và tăng cường tình đồn kết anh em và quan hệ hợp tác gắn bó về
mọi mặt với Liên Xô, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa cho công cuộc xây
dựng và bảo vệ đất nước ta.
- Tích cực hoạt động cho một Đơng Nam Á hịa bình, tự do, trung lập và ổn định.6
Việc Việt Nam ủng hộ phong trào Không liên kết và quốc tế cộng sản một lần nữa lại
được khẳng định. Lúc này ta đã nhất biên đảo về phía Liên Xơ. Động thái này đã làm tăng thêm
sự ái ngại từ phía ASEAN
cịn chế độ tư hữu tư liệu sản xuất, khơng cịn chế độ người bóc lột người, lần đầu tiên trong lịch
sử chính quyền thuộc về số đơng. Từ một nước xã hội chủ nghĩa duy nhất trên thế giới, sau đã
phát triển thành hệ thống xã hội rộng khắp kéo dài từ Âu sang Á. Trong khi đó hệ thống tư bản
Quay lại tình hình khu vực, ASEAN lúc này đều là những nước đi theo tư bản chủ nghĩa
còn Việt Nam lại là một nước theo xã hội chủ nghĩa, đó là một trong những chướng ngại lớn
trong quan hệ ASEAN – Việt Nam. Vì bản chất ban đầu của tổ chức ASEAN khi mới thành lập
là chống cộng sản. Tuy không ghi trong Tuyên bố Băng Cốc 1976, nhưng điều đó thể hiện trong
bài trả lời phỏng vấn của Chủ tịch quốc hội Inđônêxia ngay sau khi ASEAN thành lập, ngài
Seikhi nhấn mạnh rằng: “ASEAN cần phải ngăn chặn sự lan rộng ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng
sản ở Đông Nam Á, trước hết là phong trào chống chính phủ của các phần tử Mao-ít trong các
nước của Hiệp hội”7<sub>.</sub>
Nhưng sau khi chiến tranh kết thúc với thắng lợi thuộc về nhân dân Việt Nam thì
ASEAN đã thay đổi thái độ với ta theo chiều hướng tích cực tuy vẫn cịn khá dè dặt. Một phần
có lẽ vì họ sợ Việt Nam sẽ trả thù, phần khác họ cũng muốn tách dần ra khỏi cái bóng của đế
quốc Mỹ. Vào năm 1976, ASEAN đã mời Việt Nam gia nhập tổ chức, lơi kéo Việt Nam đứng về
phía mình. Nếu Việt Nam gia nhập tổ chức thì Việt Nam phải đồng ý các điều khoản gia nhập,
có nghĩa là phần nào đó chịu sự kiểm sốt của ASEAN, đồng thời kìm hãm sự phát triển của chủ
nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội trong khu vực.
<b>III. Triển khai chính sách</b>
Quan hệ Việt Nam với các nước ASEAN sau năm 1975 đã từng bước cải thiện, chuyển
dần từ thế đối đầu sang đối thoại và tiến tới bình thường hóa quan hệ tuy nhiên đây chỉ là những
bước tiến nhỏ, chưa mang lại hiệu quả cao.
<b>1. Từng bước khai thơng quan hệ</b>
<i><b>1.1. “Chính sách bốn điểm” thể hiện thiện chí của Việt Nam</b></i>
Từ năm 1976, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tuyên bố cắt quan hệ với Đảng Cộng sản Mã
Lai; năm 1978, Việt Nam và Lào cũng từ chối quan hệ với Đảng Cộng sản Thái Lan. Việc ta
tuyên bố không tiếp tục ủng hộ Đảng Cộng sản của các nước ASEAN đã khiến cho các nước này
cảm thấy yên tâm phần nào và cũng thể hiện sự tôn trọng của Việt Nam với các chính đảng của
họ.
nhận năm ngun tắc chung sống hịa bình làm cơ sở cho phát triển quan hệ với các nước
ASEAN cũng như các nước trên thế giới. Về cơ bản, tuyên bố này trùng hợp với “Hiệp ước thân
thiện và hợp tác Đông Nam Á” (TAC) mà ASEAN đã thông qua tại Hội nghị Bali tháng 2 năm
1976 do đó tuyên bố được các nước ASEAN hoan nghênh và tạo cơ sở nền tảng khá thuận lợi
cho việc thiết lập các mối quan hệ giữa Việt Nam và ASEAN.
Chúng ta cũng nên tìm hiểu sơ lược về “Hiệp ước thân thiện và hợp tác Đông Nam Á” tại
Hội nghị Bali tháng 2 năm 1976 để hiểu rõ hơn “phản ứng” của ASEAN với Việt Nam sau khi
Việt Nam giành thắng lợi tại Đại thắng Mùa xuân năm 1975. Với chiến thắng này của Việt Nam,
các nước ASEAN đều lo sợ thuyết Domino của Mỹ sẽ ứng nghiệm, tức là Việt Nam có thể xây
dựng một tiềm lực mạnh, mở rộng mơ hình Cộng sản ra các nước Đơng Nam Á. Đó là điều mà
năm quốc gia trong ASEAN đều lo ngại, chính vì vậy họ chủ trương sẵn sàng thiết lập quan hệ
hợp tác với các nước Đông Dương ngay sau sự thắng lợi của ba nước này, mặc dù họ cũng chưa
tin tưởng vào sự hội nhập của ba nước Đông Dương vào ASEAN ngay sau cuộc chiến. Một năm
sau khi Việt Nam hồn tồn giải phóng, ngày 24 tháng 2 năm 1976, năm nước thành viên của
ASEAN ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác tại Bali, nêu các nguyên tắc về hữu nghị, hợp tác, giải
quyết tranh chấp giữa các nước thành viên và sẵn sàng nhận các nước khác ở Đông Nam Á tham
gia Hiệp ước Bali. Như vậy có thể nói với Hiệp ước Bali này, các nước ASEAN tỏ ý thăm dò
phản ứng của Việt Nam và đã phần nào yên tâm hơn với ý đồ của Việt Nam rằng Việt Nam sẽ
không biến họ trở thành Cộng sản. Và để đáp trả sự thăm dò này, ngày 5 tháng 7 năm 1976, trả
lời phỏng vấn của Việt Nam thông tấn xã, Ngoại trưởng Việt Nam Nguyễn Duy Trinh đã cơng
bố “Chính sách bốn điểm” của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với các nước
<i><b>1.2. Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước thành viên ASEAN</b></i>
Sau khi cơng bố “Chính sách bốn điểm”, Việt Nam thiết lập quan hệ với Philippin vào
ngày 12 tháng 7 năm 1976 và với Thái Lan vào ngày 6 tháng 8 năm 1976. Trước đó, Việt Nam
đã có quan hệ ngoại giao với Inđơnêxia vào năm 1964 và ngay sau khi ký Hiệp định Paris vào
năm 1973, quan hệ ngoại giao song phương của Malaixia và Xingapo với Việt Nam đã được
thiết lập. Như vậy là Việt Nam đã có quan hệ với tất cả các nước thành viên của Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á.
<i><b>1.3. Một số kết quả đạt được trong các chuyến viếng thăm của Nhà nước Việt Nam với</b></i>
<i><b>các nước ASEAN.</b></i>
Trong các cuộc viếng thăm này, chúng ta đã chủ động thúc đẩy giải quyết một số vấn đề
và đạt được những kết quả tương đối khả quan. Trước hết là việc ta đã chủ động đàm phán về
vùng chồng lấn trên biển với Inđônêxia vào tháng 11 năm 1977. Việt Nam và Inđơnêxia có vùng
chồng lấn phía nam quần đảo Cơn Đảo và phía bắc quần đảo Natuna (của Inđơnêxia) khoảng
40.000 km2<sub>. Sau các cuộc đàm phán kéo dài hơn 20 năm (từ năm 1974 đến 1998), để giải quyết</sub>
tình trạng thềm lục địa chồng lấn, ngày 26-6-2003 hai nước đã ký kết “Hiệp định về phân định
thềm lục địa”.8<sub> Trong suốt q trình 20 năm đàm phán đó, cuộc đàm phán năm 1977 được đánh</sub>
giá là một cột mốc quan trọng. Bên cạnh đó, ta cũng đã ký kết được các hợp đồng kinh tế song
phương với một số nước, tích cực hơn với chủ trương lập ZOPFAN của Malaixia và nhận được
sự trợ giúp của một số nước. Ví dụ như Philippin tặng ta một số tiền và giúp xây dựng trạm
nghiên cứu giống lúa.
<b>2. Vẫn còn nhiều dè dặt</b>
Có thể nói rằng, chính sách đối ngoại và các hoạt động ngoại giao của Việt Nam đã tạo
được bước khởi đầu tốt đẹp trong quan hệ với các nước ASEAN giai đoạn 1976 – 1978. Tuy
<i><b>2.1 Việt Nam vẫn cho rằng ASEAN là SEATO </b></i>
Ngay từ năm 1976, các nước thành viên ASEAN đã nhất trí mời Việt Nam tham gia vào
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, nhưng Việt Nam từ chối cơ hội này. Nguyên nhân chủ yếu
là do ta vẫn còn nghi ngờ ASEAN, coi ASEAN là khối SEATO “trá hình” – một tổ chức qn sự
“trá hình”, cơng cụ mới của chủ nghĩa đế quốc. Chính với tâm lý nghi kị này đã khiến cho các
cuộc viếng thăm của Đoàn ngoại giao Việt Nam cũng như Đoàn cấp cao Việt Nam sang thăm
các nước ASEAN không đạt được nhiều kết quả khả quan, không thể thúc đẩy mối quan hệ này
tiến xa hơn. Có thể thấy rằng, kết quả của những chuyến đi này rất hạn chế. Trong vấn đề chính
trị, các nước ASEAN cũng tỏ ý khơng hài lịng khi chúng ta nêu lên chính sách đối ngoại là
“phát triển hợp tác … vì lợi ích độc lập dân tộc, hịa bình, trung lập thực sự ở Đơng Nam Á”, đặc
biệt là Xingapo. Nước này tỏ thái độ gay gắt về chữ “độc lập thật sự, trung lập thật sự”. Điều đó
thể hiện qua chuyến thăm Xingapo của Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Ngay khi Thủ tướng
Xingapo là Lý Quang Diệu gặp Thủ tướng Phạm Văn Đồng, ông ta đã hỏi thẳng: “Tại sao ngày
ấy, tháng ấy Báo Nhân dân của các ơng lại nói chúng tôi không độc lập thật sự, không trung lập
thật sự?”9<sub> Tuy nhiên, với tài ngoại giao mẫn cán của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, tình hình căng</sub>
thẳng ban đầu chuyến đi đã được giải tỏa, thay vào đó là một tâm lý thoải mái hơn. Về vấn đề
8<sub> truy cập </sub>
ngày 05/03/2011.
kinh tế, ta cũng chỉ đạt được một số hợp đồng kinh tế song phương, và sự trợ giúp của các nước
ASEAN dành cho ta cũng không lớn.
<i><b>2.2 Việt Nam “nhất biên đảo” Liên Xô</b></i>
Bên cạnh đó, việc Việt Nam từng bước nghiêng hẳn sang phía Liên Xơ, coi quan hệ với
Vào cuối thập kỷ 70, tình hình thế giới và khu vực có những biến động tiêu cực với sự
đổi chiều của chiến tranh lạnh, sự can thiệp của các nước lớn, chính sách đối ngoại của Việt Nam
xuất hiện một vài hạn chế và sự hạn chế về nhận thức đến từ cả hai phía là Việt Nam và ASEAN
đã làm gián đoạn quan hệ Việt Nam – ASEAN, khiến cho việc bình thường hóa quan hệ giữa hai
nhóm nước ASEAN – Đơng Dương trở nên khó khăn và kéo dài, mãi đến gần 20 năm sau mới có
thể hàn gắn và phát triển được.
<b>IV. Đánh giá chính sách</b>
<b>1. Đánh giá chung về chính sách</b>
Có thể nói đến năm 1978 chúng ta đang rơi vào tình hình hết sức khó khăn. Hai mục tiêu
cơ bản là xây dựng và bảo vệ đất nước dường như chưa đạt được. Ta vẫn áp dụng cơ chế quan
liêu bao cấp đã bộc lộ những yếu kém ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa trong khi quan hệ
thương mại của ta với các nước ngoài xã hội chủ nghĩa lại chưa nhiều. Các cuộc xung đột biên
giới Tây Nam và phía Bắc ngày càng nghiêm trọng làm cho tình hình đất nước mất ổn định.
Nhìn vào hiện trạng đất nước lúc bấy giờ để xem xét lại quá khứ: sau chiến thắng mùa
xuân năm 1975 ta có rất nhiều thuận lợi để thực hiện mục tiêu khơi phục đất nước: uy tín của
sao chỉ trong thời gian ngắn quan hệ đã xấu đi một cách nhanh chóng, làm cho tình trạng đất
nước khó khăn đến vậy?
Chính sách đối ngoại của ta cũng thể hiện mong muốn hịa bình hợp tác song lại đầy nghi
kị, các bước triển khai chính sách cịn dè dặt, thậm chí có những khi cịn làm cho các nước
ASEAN hết sức lo ngại (khi Việt Nam gia nhập SEV (29/6/1978), ký hiệp ước hữu nghị, hợp tác
với Liên Xô, trong đó có điểm 6 có ý nghĩa như một liên minh quân sự) để rồi đến vấn đề
Cam-pu-chia đã chính thức đẩy quan hệ Việt Nam - ASEAN từ đối thoại sang đối đầu. Có thể nói,
việc triển khai chính sách đối ngoại với ASEAN của ta giai đoạn này đã đạt được những bước
chuyển mới so với thời kỳ trước. Kết quả đạt được cũng mang lại cho chúng ta những lợi ích
nhất định song chưa có gì thật sự nổi bật và tạo một bước đột phá cho quan hệ Việt Nam
-ASEAN. Ngay từ khi hoạch định chính sách đã có rất nhiều vấn đề cho nên khi triển khai cũng
không hiệu quả. Những kết quả đạt được chưa thực sự góp phần đáng kể vào mục tiêu chung của
đất nước.
<b>2. Ngun nhân chính sách khơng thành cơng</b>
Đất nước đang bộn bề những khó khăn, việc đưa ra mục tiêu cơ bản: xây dựng và phát
triển đất nước là hết sức đúng đắn. Song trên thực tế triển khai, ta đã bị ý thức hệ chi phối quá
lớn, chưa đặt lợi ích dân tộc là trên hết. Nhìn ASEAN qua lăng kính ý thức hệ và lối tư duy chiến
tranh khiến ta vẫn coi ASEAN là khối SEATO “trá hình”. Do đó ta chưa có những bước chủ
động hợp tác phục vụ cho lợi ích của mình. Giải thích cho điều này cũng có rất nhiều lý do.
<i><b>2.1. Ngun nhân khách quan </b></i>
Phía ASEAN tuy chủ động hợp tác song bên cạnh mục đích hợp tác vẫn ẩn chứa ý đồ
muốn kiềm chế Việt Nam bằng những nguyên tắc khu vực cho nên những lo lắng của ta khơng
phải là khơng có cơ sở.
<i><b>2.2. Nguyên nhân chủ quan</b></i>
<i><b>2.2.1. Yếu tố lãnh đạo trong hoạch định và triển khai chính sách</b></i>
Việc thành bại của chính sách đối ngoại phụ thuộc rất lớn vào yếu tố lãnh đạo. So sánh
với thời kỳ 1945 – 1946 khi đất nước ta đang trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”: Việt Nam
dân chủ cộng hịa ra đời chưa có được mối quan hệ với bất kỳ quốc gia nào, chưa được thế giới
cơng nhận, một mình phải “ứng xử cùng một lúc với năm nước lớn, đối phó với bốn đạo qn
nước ngồi trên 30 vạn binh lính có mặt tại Việt Nam”11<sub>. Khó khăn thì chồng chất mà thuận lợi</sub>
không nhiều, lại chủ yếu xuất phát từ bản thân quốc gia nhưng với tư duy sắc bén và bản lĩnh
ngoại giao, chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với những lãnh đạo khác của Đảng cộng sản Việt đã
khôn khéo, linh hoạt đưa Việt Nam vượt qua những biến cố lịch sử đầy khó khăn.
<i><b>2.2.2. Nguyên nhân chủ quan khác</b></i>
Thứ nhất, vào thời điểm ngay sau cuộc chiến tranh khi đau thương và mất mát cịn đang
hiện hữu thì hợp tác ngay với kẻ thù dường như là rất khó trong tâm lý của đại đa số người dân.
Chính sách đối ngoại của một đất nước dù thế nào cũng ln phải phù hợp với lịng dân.
Thứ hai, lại nói về tình hình khó khăn của đất nước sau chiến tranh, chúng ta khó khăn về
mọi mặt, trong đó phải kể đến cả cơng tác phân tích dự báo. Một nhà nước non trẻ chưa có nhiều
kinh nghiệm nay mới thực sự bắt tay vào công tác đối ngoại cho một đất nước độc lập, hịa bình,
thống nhất trước tình hình thế giới phức tạp, tiềm lực khó khăn, cơng tác đào tạo chủ yếu là qua
nước ngồi dẫn tới việc đội ngũ thực hiện công tác đối ngoại của ta còn thiếu cả diện và lượng.
Thứ ba, chúng ta là nước xã hội chủ nghĩa, trong cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam
thống nhất đất nước, sự giúp đỡ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa là rất lớn, hơn nữa
trong hiện tại xây dựng đất nước họ cũng đang hỗ trợ tích cực cho ta cả vốn, công nghệ, nguồn
nhân lực… Đặt mối quan hệ với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em lên hàng đầu và
chịu chi phối của ý thức hệ cũng là điều dễ giải thích… Hai khối Đơng – Tây từ hịa hỗn dần
chuyển sang đối đầu. Ta coi ASEAN là khối SEATO “trá hình”, là tay sai phục vụ cho Mỹ cho
nên quan hệ rất thận trọng với ASEAN.
Thứ tư, phía ASEAN tuy chủ động hợp tác song bên cạnh mục đích hợp tác vẫn ẩn chứa
ý đồ muốn kiềm chế Việt Nam bằng những nguyên tắc khu vực cho nên những lo lắng của ta
khơng phải là khơng có cơ sở.
“Nếu hồi đó ta có cái nhìn tỉnh táo hơn đối với tình hình thế giới và khu vực, thấy rõ và
cân bằng hơn hai nhiệm vụ chiến lược của ta sau chiến tranh là xây dựng và bảo vệ đất nước, có
lẽ ta đã có một chính sách đối ngoại thức thời hơn, tạo nên một sự cân bằng lực lượng mới trong
khu vực có lợi cho ta, ngăn ngừa những mưu đồ xấu, tránh được những khó khăn khơng đáng có
trong hơn 10 năm qua và có điều kiện thuận lợi hơn cho vệc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược
nói trên, nhất là nhiệm vụ xây dựng đất nước là ưu tiên hàng đầu của nước ta”12<sub>. Nhưng từ những</sub>
nguyên nhân thực tế khách quan và chủ quan nêu trên, có thể nói rằng vào thời điểm đó rất khó
để tạo nên một tình hình mới khả quan hơn.
<b>V. Bài học rút ra</b>
giai đoạn này. Những hạn chế này có hệ quả liên quan chặt chẽ với nhau, gây thiệt hại lớn cho ta
về đối ngoại, về an ninh – quốc phòng, về phát triển kinh tế trong một thời gian dài.
Tuy nhiên, việc chúng ta phân tích, mổ xẻ lịch sử, khơng phải để tiếc nuối, mà để từ đó
có thể rút ra những bài học, những kinh nghiệm quý báu, phục vụ cho những chính sách đối
ngoại của ta về sau. Qua tìm hiểu, phân tích bối cảnh lịch sử về chính sách đối ngoại của ta cũng
như kết quả và đánh giá chung các chính sách đó, chúng tơi rút ra được những bài học sau:
<i>Thứ nhất</i>, phải nắm vững lợi ích dân tộc, mà cụ thể trong giai đoạn này là thực hiện hai
mục tiêu xây dựng và bảo vệ đất nước. Để có thể thực hiện các mục tiêu này, trên mặt trận ngoại
giao, ta phải giữ vững được độc lập tự chủ và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác, tạo điều kiện
quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
<i>Thứ hai</i>, nhận thức về lợi ích quốc gia gắn liền với lợi ích chung của khu vực là một đảm
bảo quan trọng cho sự phát triển bền vững của mối quan hệ hữu nghị. Quan hệ với các nước láng
giềng, các nước trong khu vực luôn trực tiếp ảnh hưởng đến hịa bình, an ninh và phát triển của
nước ta, tạo môi trường thuận lợi hay không thuận lợi trực tiếp cho ta. Đây là một bài học xương
máu mà chúng ta nhận được trong giai đoạn này. Chính vì quá đề cao ý thức hệ nên ta đã thiếu
nhạy bén trong việc đánh giá tầm quan trọng của việc quan hệ với các nước trong khu vực dẫn
đến việc bỏ lỡ cơ hội cải thiện quan hệ với ASEAN, và sa vào thế bất lợi phải mất gần hai mươi
năm mới gỡ ra được. Ta chưa nhận ra được một khu vực hịa bình, ổn định, hợp tác sẽ tạo ra mơi
trường thuận lợi, nâng cao uy tín và vị thế cho cả hiệp hội cũng như mỗi thành viên trong các tổ
chức, diễn đàn.
Một điều cần ghi nhớ đó là trong quan hệ với các nước cùng khu vực, phải luôn sẵn sàng
giúp đỡ nhau nhưng tuyệt đối không can thiệp sâu vào công việc nội bộ của nhau để có thể tránh
khỏi những nghi kị khơng đáng có, gây nhiều bất lợi cho ta trước dư luận của thế giới (vấn đề
Campuchia).
<i>Thứ ba</i>, trong quan hệ với các nước lớn, luôn thân thiện, tỏ ý muốn làm bạn với tất cả
mọi nước, giữ quan hệ hòa hiếu, hợp tác với các nước lớn trên nguyên tắc bình đẳng, hai bên
cùng có lợi và phải nắm vững lợi ích dân tộc, giữ vững độc lập tự chủ, khơng để bị phụ thuộc
vào bất kì một nước nào hay trở thành sân sau, con bài của bất cứ ai. Tuyệt đối khơng “nhất biên
đảo”, vì giữa các nước lớn ln có những tranh chấp, đối đầu. Ta phải thi hành những chính sách
cân bằng, khơng ngả theo bên này, chống bên kia.