Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.9 KB, 18 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>CHUYÊN ĐỀ:. NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA VĂN HỌC HIỆN THỰC VÀ VĂN HỌC LÃNG MẠN TRONG PHƯƠNG THỨC SÁNG TÁC. --- Tổ 3 ---. Lời dẫn: Văn học là một loại hình nghệ thuật đặc biệt, ra đời để đáp ứng nhu cầu của của con người và cuộc sống. Mỗi tác phẩm văn học là một bức thông điệp chuyền tải nội dung, nó thể hiện cái cách mà nhà văn cảm nhận cuộc sống và những điều mà nhà văn gửi gắm. Cuộc sống thì muôn màu muôn vẻ, vì vậy cách cảm nhận của mỗi nhà văn nhà thơ không phải lúc nào cũng giống nhau. Cùng một bức tranh đời sống, mỗi nhà văn sẽ có những cách cảm nhận riêng, cách khai thác và kiến giải riêng của mình về bức tranh ấy. Từ đó tạo nên những phong cách riêng cho mình. Cùng với sự vận động của xã hội, cách cảm của mỗi nhà văn cũng ngày một khác đi. Để hợp theo xu hướng của thời đại, họ sẽ cố gắng tìm ra những phương thức sáng tác mới riêng cho mình. Những nguyên tắc, cách thức... sáng tác cũng vì thế ngày một chặt chẽ hơn, mới mẻ hơn. Các trào lưu cũng từ đó mà xuất hiện ngày càng nhiều trong đời sống văn học, mà nổi bật lên là trào lưu văn học hiện thực và văn học lãng mạn. Sau đây tổ em xin được tìm hiểu về sự khác nhau về phương thức sáng tác của hai trào lưu văn học này. Phần trình bày của tổ em được chia làm 4 phần trọng tâm: -Khái quát chung -Sự khác nhau về phương thức sáng tác giữa văn học hiện thực và văn học lãng mạn -Một số tác phẩm tiêu biểu cho thấy sự khác nhau ấy của 2 trào lưu văn học. -Tổng kết, đánh giá Sau đây, xin mời thầy cô và các bạn đến với phần đầu tiên: I-KHÁI QUÁT CHUNG: 1.TRÀO LƯU VĂN HỌC: Trào lưu văn học là một khái niệm dùng để chỉ một tập hợp những tác giả, tác phẩm gần gũi về cảm hứng, tư tưởng, nguyên.
<span class='text_page_counter'>(2)</span> tắc miêu tả hiện thực…diễn ra nổi lên trong một thời điểm nhất định của lịch sử rồi lại “rút đi”. 2. CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN: -Chủ nghĩa lãng mạn vừa là trào lưu văn học, vừa là phương pháp sáng tác mang một nội dung lịch sử- xã hội cụ thể, được hình thành ở Tây Âu sau cách mạng tư sản Pháp 1789. Chủ nghĩa lãng mạng chia làm hai khuynh hướng: lãng mạn tích cực và lãng mạn tiêu cực, nhưng giữa chúng vẫn có mối liên hệ qua lại khá phức tạp . Lãng mạn được hiểu theo nghĩa chiết tự là sóng tràn bờ, chỉ một sự phóng túng, tự do, vượt lên trên mọi ràng buộc. Xung quanh từ lãng mạn có nhiều thuật ngữ khác nhau mà chủ nghĩa lãng mạn chỉ là một trong số đó như:" phương thức lãng mạn ", "hình thái lãng mạn", "tính chất lãng mạn", ... -Chủ nghĩa lãng mạn được hình thành dựa trên cơ sở xã hội rơi vào tình trạng bấp bênh, đời sống của con người không còn được đảm bảo. Họ không còn tìm thấy một sự thoả mãn nào ở hiện thực. Cuộc khủng hoảng niềm tin và lí tưởng ngày càng lan rộng ra trong đại đa số dân chúng. Cùng với đó là sự vận động nội hàm trong bản thân đời sống văn học, yêu cầu các nhà văn phải không ngừng sáng tạo. Những yếu tố ấy đã làm cho mâu thuẫn giữa những nhà văn và hiện thực cuộc sống ngày càng lớn, các nhà văn đã chọn cách quay lưng lại với thực tại, tìm kiếm những cái đẹp trong đời sống tinh thần, trào lưu văn học lãng mạn ra đời từ đó. -Các nguyên lí của chủ nghĩa lãng mạn: + Đề cao mộng tưởng: Chủ nghĩa lãng mạn là sự phản ứng chống lại xã hội đương thời, con người muốn thoát li thực tế tìm đến với một thế giới khác giúp con người quên đi cuộc sống mà họ chán ghét, vẽ ra một cuộc sống nhằm thỏa mãn cái tôi bị tổn thương của con người, nên thế giới trong chủ nghĩa lãng mạn là một thế giới mộng tưởng. +Đề cao tình cảm: Chủ nghĩa lãng mạn còn được coi là chủ nghĩa tình cảm, vì ở đây tình cảm của con người được biểu hiện rõ rệt nhất. Vì vậy, chủ nghĩa lãng mạn chính là phản ứng chống lại chủ nghĩa cổ điển đề cao và tôn sung lý trí với những quy tắc tam duy nghiêm ngặt đã siết chặt tính sáng tạo và tình cảm của con người. Nên trong chủ nghĩa lãng mạn, tình yêu của con người được khai thác ở mọi phương diện, thiên nhiên được phản ánh một cách sinh động nhất, trở thành nơi phản ánh nội tâm và nuôi dưỡng tình cảm con người. +Đề cao sự tự do: Vì đề cao mộng tưởng và tình cảm nên con người muốn hướng đến một cuộc sống tự do, thoát khỏi mọi ràng buộc. Ở chủ nghĩa lãng mạn, người nghệ sĩ được trả lại tất cả quyền tự do để học thỏa sức sáng tạo và tưởng tượng. Nên đa số các tác phẩm của họ hướng đến cái khoáng.
<span class='text_page_counter'>(3)</span> đạt phi thường, vì chủ nghĩa lãng mạn không chấp nhận những quy định nghiêm ngặt, nên nó đã tự cho phép mình đạt đến sự tự do tuyệt đối. -Một số nhà văn, nhà thơ tiêu biểu: +Thơ mới: Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, Vũ Hoàng Chương…. +Văn xuôi: Khải Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Nguyễn Tuân…. 3. CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC: -Chủ nghĩa hiện thực là trào lưu nghệ thuật lấy hiện thực xã hội và những vấn đề có thực của con người làm đối tượng sáng tác. Chủ nghĩa hiện thực hướng tới cung cấp cho cấp chúng nghệ thuật những bức tranh chân thực, sống động, quen thuộc về cuộc sống, về môi trường xã hội xung quanh. -Chủ nghĩa hiện thực phát triển mạnh mẽ trên cơ sở mâu thuẫn xã hội gay gắt, hiện thực cuộc sống bày ra trước mắt nhà văn biết bao ngang trái, ngổn ngang. Cùng với đó là sự tiếp xúc với các nền văn học tiến bộ khác, các nhà văn muốn vận dụng tinh thần và phương pháp sáng tác văn chương, vì vậy mà có sự ra đời của chủ nghĩa hiện thực. -Những nguyên lí của chủ nghĩa hiện thực: +Nguyên lí 1: Coi hiện thực tiếp là đối tượng phản ánh của nghệ thuật: VHHT chủ chương phản ảnh bản chất và quy luật khách quan của đời sống xã hội Yêu cầu mỗi Nhà văn hiện thực xây dựng hình tượng theo nguyên tắc khách quan, cụ thể, không tô vẽ, không né tránh các hiện tượng xấu xa đen tối, thậm chí còn lấy việc bóc trần cái thứ mặt nạ giả dối làm nhiệm vụ nghệ thuật chủ yếu của mình. +Nguyên lí 2: Chú trọng mối quan hệ biện chứng giữa tính cách điển hiền và hoàn cảnh điển hình. Đó là yêu cầu cao nhất của văn học hiện thực. +Nguyên lí 3: Coi trọng cái tính chất hiện thực trong từng chi tiết, từng sự vật, sự việc diễn ra. -Những tác giả tiêu biểu: +Thời kì 1930-1935: Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Tam Lang…. +Thời kì 1936-1939: Nguyên Hồng, Bùi Đình Lạp, Bùi Huy Phồng… +Thời kì 1940-1945: Nam Cao, Tô Hoài, Bùi Hiển, Kim Lân….
<span class='text_page_counter'>(4)</span> 4. RANH GIỚI NHÒE GIỮA VĂN HỌC LÃNG MẠN VÀ VĂN HỌC HIỆN THỰC: - Trong văn học, “lãng mạn” và “hiện thực” là hai khái niệm thường được cho là có ý nghĩa trái ngược nhau và thường được gắn liền với nhau trong quan hệ đối kháng, thậm chí đôi khi xung đột gay gắt. Tuy nhiên, thực tiễn văn học cho thấy giữa chúng có sự giao thoa và không hề biệt lập, trái lại, chúng thường tác động qua lại, có khi chuyển hóa lẫn nhau. Vì vậy, khi đi vào tìm hiểu một tác phẩm cụ thể, người tiếp nhận phải soi rọi tác phẩm bằng nhiều thứ ánh sáng khác nhau để nhận thức sâu sắc về hai khuynh hướng trên, bởi sự nhận định cứng nhắc thường đem lại những kết quả nhận thức đơn điệu, nghèo nàn và phiến diện.. II- SỰ KHÁC BIỆT GIỮA CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC VÀ CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN TRONG PHƯƠNG PHÁP SÁNG TÁC:. 1. PHƯƠNG PHÁP SÁNG TÁC: - Phương pháp sáng tác (phương pháp nghệ thuật) là một phạm trù được hình thành từ những năm 20 của thế kỉ XX trong nghiên cứu văn học và nghệ thuật học ở liên bang Xô Viết; sau đó được thông dụng và trở thành một trong những phạm trù của mỹ học chính thống tại các nước thuộc khối cộng đồng xã hội chủ nghĩa và đã được luận chứng nhiều lần. - Theo từ điển Tiếng Việt, phương thức là phương pháp và cách thức. Phản ánh là thuật ngữ thuộc về phạm trù của ý thức con người: phản ánh thế giới, phản ánh cuộc sống... Vậy phương thức phản ánh là cách thức, phương pháp tái hiện, phản ánh đời sống vào trong văn học. Nó chính là khái niệm phương pháp sáng tác. - Ở văn học hiện thực và văn học lãng mạn có sự khac nhau về phương thức sáng tác. 2. VĂN HỌC LÃNG MẠN: 2.1:Đề tài, cảm hứng: Coi lí tưởng của con người làm đối tượng thể hiện. Nhà văn lãng mạn thường hướng tới những cái phi thường có tính biệt lệ. Thay vì phản ánh cuộc sống như con người có thật thì phản ánh cuộc sống con người muốn có. Chủ.
<span class='text_page_counter'>(5)</span> nghĩa văn học lãng mạn thoát li khỏi đời sống thực tại, tìm đến một thế giới khác mà con người có thể quên đi thực tại mà họ chán ghét. Người nghệ sĩ lãng mạn tự cho mình đứng lên trên hoàn cảnh, và mọi vấn đề của con người như về tình yêu, lẽ ghét thương... đều là đối tượng của chủ nghĩa văn học lãng mạn. 2.2:Hình tượng nhân vật: Chủ nghĩa lãng mạn xây dựng những tính cách phi thường trong những hoàn cảnh phi thường, tính cách không tồn tại trong những hoàn cảnh không tồn tại. Các nhà văn lãng mạn thường tìm kiếm những giá trị cao đẹp trong những cảnh đời tăm tối, tầm thường; khám phá cái cao cả trong những số phận bị ruồng bỏ, chà đạp. Hình tượng nhân vật của văn học lãng mạng là những con người lí tưởng, có nhân cách cao thượng. Nhân vật lãng mạn chính là cái tôi cá nhân tràn đầy cảm xúc. Cái tôi được các nhà lãng mạn phân tích ở khía cạnh đặc thù, độc đáo với niềm kiêu hãnh riêng trong khi khẳng định những quyền hạn cá nhân cao cả. 2.3: Nghệ thuật phản ánh: Tưởng tượng mãnh liệt là một điểm cần lưu ý khi tìm hiểu tác phẩm lãng mạn. Khi thể hiện tư tưởng, các nhà văn lãng mạn thường bỏ qua khắc họa hiện thực, bởi vậy tính hiện thực thì ít mà tính ước lệ rất nhiều. Văn học lãng mạn cũng thường sử dụng thủ pháp tương phản, đối lập, thích khoa trương, phóng đại, sử dụng ngôn ngữ giàu sức biểu hiện cảm xúc.. 3. VĂN HỌC HIỆN THỰC: 3.1: Đề tài, cảm hứng: Coi hiện thực là đối tượng phản ánh của nghệ thuật, văn học hiện thực chủ trương phản ánh bản chất và quy luật khách quan của đời sống. Nhà văn hiện thực xây dựng hình tượng theo nguyên tắc khách quan, không tô vẽ, không né tránh các hiện tượng xấu xa đen tối, thậm chí còn lấy việc bóc trần cái bộ mặt giả dối, xấu xa đen tối làm nhiệm vụ nghệ thuật chủ yếu của mình. 3.2: Hình tượng Nhân vật: Hình tượng nhân vật trong văn học hiện thực là những nhân vật “điển hình” với những tính cách “điển hình” trong hoàn cảnh “điển hình”. +Tính cách điển hình: Là những tính cách có cá tính sắc nét khó quên nhưng có sức khái quát lớn, tiêu biểu cho một hạng người hay một khuynh hướng tư tưởng lớn trong đời sống..
<span class='text_page_counter'>(6)</span> +Hoàn cảnh điển hình: là hoàn cảnh tiêu biểu cho một cho một xã hội có tác dụng giải thích sự hình thành tính cách và số phận của nhân vật. 3.3: Nghệ thuật phản ánh: Khi tái hiện đời sống, nhà văn hiện thực không gán ghép tư tưởng chủ quan cho đời sống, không biến nhân vật thành cái hoa cho tư tưởng của mình, mà biến cái hiện tượng và quá trình hiện thực thành phương tiện biểu hiện tư tưởng của mình Nhà văn hiện thực coi trọng những chi tiết cụ thể và độ chính xác của chúng trong việc mô tả con người và cuộc sốngđể chúng tự nói lên tiếng nói của mình.. III- MỘT SỐ TÁC PHẨM TIÊU BIỂU: 1. Văn học lãng mạn:. VỘI VÀNG _Xuân Diệu_ Nói đến văn học lãng mạn Việt Nam, người ta sẽ nghĩ ngay đến Xuân Diệu bởi những đóng góp to lớn của ông trong khuynh hướng lãng mạn. Ông được mệnh danh là ông hoàng của tình yêu, dù đó là tình yêu gì đi chăng nữa thì nó vẫn ngọt ngào đầy xúc cảm. Ông còn được đánh giá là nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới. Những sáng tác ,những bài thơ của ông đem đến cho người đọc một sự yêu đời, niềm vui về cuộc sống và một niềm khao khát cuộc sống đến mãnh liệt cùng với đó là một hồn thơ mới lạ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới mẻ. Trong số đó, tiêu biểu có bài thơ Vội vàng là một trong những bài thơ hay thể hiện tư tưởng đáng quý đó của tác giả. 1. Đề tài, cảm hứng: Ở Vội vàng ông đã nhận ra một thiên đường ngay trên mặt đất, nhà thơ yêu cuộc sống trần thế xung quanh và tìm thấy trong cuộc sống đó biết bao điều hấp dẫn, đáng sống và biết tận hưởng những gì mà cuộc sống ban tặng. Nhà thơ muốn nhắn nhủ đến người đọc hãy sống hết mình khi đang còn trẻ tuổi, đừng để thời gian trôi đi phí hoài. Hãy sống gấp gáp để tận hưởng cuộc sống tươi đẹp. Hãy luôn giữ cho mình mùa xuân tình yêu của tuổi trẻ. “Thà một phút huy hoàng rồi vụt tắt Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”..
<span class='text_page_counter'>(7)</span> Đây là một quan niệm sống rất mới, mang ý nghĩa tích cực, có giá trị nhân văn sâu sắc và chủ nghĩa lãng mạn chính là khởi nguồn của tư tưởng mới mẻ ấy! 2. Hình tượng nghệ thuật: Để mang niềm yêu cuộc sống đến trào dâng, nhà thơ luôn có cảm xúc vội vàng trước cuộc sống ngắn ngủi. Mọi thứ trên đời mang vị ngọt tới nhưng chỉ một lần rồi thôi, ta đâu có đủ thời gian cho những quả ngọt đó được nếm một lần nữa. Không vội vàng, không chạy tới để ôm trọn những gì đang có thì làm sao mà cảm nhận hết vẻ đẹp của đời. Khổ thơ năm chữ duy nhất trong bài thơ khiến giọng điệu gấp gáp giống như một hơi thở hối hả của một con người đang tràn đầy cảm xúc. Đại từ mà tác giả Xuân Diệu đã đặt ở đầu tiên là tôi, chứ không phải “ta” hay chúng ta và cùng với đó là động từ “ muốn”- “ tôi muốn. Nhà thơ đang thể hiện cái tôi công khai, ngang nhiên không lẩn tránh hay giấu giếm, cái tôi đầy thách thức, đi ngược lại với thơ ca trung đại, rất ít dám thể hiện cái Tôi của bản thân mình. Đây cũng chính là một điểm mới của nhà thơ trong nền văn thơ hiện đại lúc bấy giờ, qua đó thể hiện khát khao mãnh liệt về cuộc sống . Khi đọc những câu thơ của bài thơ Vội vàng ta bất giác nghĩ tới tuổi trẻ, niềm ham sống nhiệt thành của tuổi trẻ không bao giờ được đốt cháy như bây giờ. Vội vàng là bài thơ tiêu biểu cho sự bùng nổ mãnh liệt của cái tôi Xuân Diệu, khá đậm nét cho hồn thơ yêu đời, ham sống, “thiết tha, rạo rực, băn khoăn”. Qua vội vàng chúng ta cũng thấy được một cái tôi mạnh mẽ, cuồng nhiệt ưu ái cho xuân thì, và cũng là quan niệm sống mới mẻ và táo bạo. Vội vàng để màu đừng nhạt mất, để hương đừng bay đi, bởi tháng giêng ngon như một cặp môi gần và vội vàng vì thời gian không chờ đợi một ai “ xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua” và “ xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”. Một lối sống tích cực được tác giả gửi gắm qua bài thơ với nhịp thơ nhịp nhàng nhưng nối tiếp nhau, đã tạo đà cho bài thơ thêm khởi sắc và đẹp đẽ. Xuân đấy, thức quý mà đất trời ban cho đấy, đâu còn nhiều thời gian mà con người ta có thể hưởng hết. Vậy nên nếu không mau chóng ôm trọn nó thì quả thật là đáng tiếc. Tôi muốn ôm tất cả vào lòng nhưng có phải muốn là được bởi vì “ lòng tôi rộng mà lượng trời cứ chật Không cho dài ngày tháng của nhân gian” Đấy, những khát khao cháy bỏng ấy, với phép đối rất chỉnh càng tạo ra khí thế dồn dập hối thúc moi người hãy nhanh nữa lên nếu không còn đâu thức trời đẹp mà chiêm ngưỡng mà hưởng thụ. Lòng thiết tha yêu cuộc sống đã đưa tác giả đi đến một quyết Ham sống, khát sống, Xuân Diệu càng băn khoăn hơn trước cuộc đời, thời gian. Xuân Diệu đã nhận ra quy luật tuyến tính của thời.
<span class='text_page_counter'>(8)</span> gian, chống lại quy luật tuần hoàn của các cụ ngày xưa. Mỗi phút giây trôi qua đi sẽ không bao giờ trở lại, tuổi trẻ cũng chỉ đến một lần. Nhà thơ mở lòng ra để yêu đời, yêu cuộc sống nhưng không được đời bù đắp, vì thế mà ông băn khoăn buồn chán cho thân phận của mình. Cảnh vật thiên nhiên giờ đây cũng mang đầy tâm trạng buồn bã, băn khoăn, lo sợ..Chính vì thế cho nên: “Ta muốn ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn Ta muốn biết mây đưa và gió lượn Ta muốn say cánh bướm với tình yêu Ta muốn thâu một cái hôn nhiều” Được nhắc tới trong khổ thơ là hình ảnh thơ tươi mới, sức sống. Và có lẽ tình yêu cuộc sống của nhà thơ tăng dần theo từng từ muốn ôm đến riết là đã ghì chặt hơn. Những động từ mạnh được khai thác một cách triệt để. Và đã say – sự ngây ngất đến bất tỉnh vẫn chưa thỏa lòng – còn muốn thâu nghĩa là muốn thu hết tất cả để có sự hòa nhập một. Cường độ của sự mong muốn khát khao dần tăng lên và câu thơ cuối chính là một sự cuồng nhiệt nhất. “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào người”. Không phải xuân xanh, không phải xuân chín, mà là xuân hồng. Màu hồng gợi cho ta màu của sự chín vừa đủ và non vừa tới.màu hồng màu của muôn hoa cỏ sắc trời màu của hạnh phúc và tình yêu lứa đôi. Hình ảnh, ngôn từ, nhịp điệu của đoạn thơ đã bộc lộ rõ lòng yêu đời cuồng nhiệt khiến nhà thơ phải hối hả, vội vàng đến với cuộc sống. Động từ cắn cũng trở nên táo bạo hơn bao giờ hết, không chỉ là chạm là nhìn mà phải “cắn” để cảm nhận được sự non tơ ngon lành mà cuộc sống ban tặng. Bài thơ Vội vàng mang đến quan niệm sống mới mẻ và táo bạo mà trước đó chưa từng có .Ở Vội vàng, tác giả chỉ đề cập đến lối sống thiên về hưởng thụ chạy theo thời gian. Ông kêu gọi mọi người hãy biết yêu và tận hưởng những thứ cuộc sống ban tặng, hãy tranh thủ thời gian, tuổi trẻ để sống đủ đầy nhất. Nhưng ông đã quên đi nghĩa vụ kêu mọi người phải cống hiến cho cuộc đời. Dẫu sao đây vẫn là một quan niệm tích cực, hối thúc mọi người không nên phí hoài tuổi trẻ và sự non tơ của cuộc sống ban tặng. 3. Nghệ thuật thể hiện: Đọc thơ Xuân Diệu, người đọc không chỉ cảm nhận cái hay về nội dung mà còn thấm thía được cái đẹp về nghệ thuật, những đặc sắc về sử dụng hình ảnh, ngôn từ ẩn đằng sau mỗi câu thơ..
<span class='text_page_counter'>(9)</span> Mở đầu bài thơ với thể thơ ngũ ngôn, nhịp thơ 2/3 ngắn, âm hưởng da diết thể hiện cảm xúc mãnh liệt và phản ánh ý tưởng táo bạo đến dị thường của thi nhân là muốn đoạt quyền tạo hóa. Điệp từ “Tôi” muốn đặt ở vị trí đầu câu có tác dụng khẳng định và nhấn mạnh “cái tôi” của thi sĩ – một điều khá mới trong thơ ca đương thời. Xuân Diệu cảm nhận, thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên và cũng là tình tự với thiên nhiên. Xung quanh nhà thơ, cảnh vật tưng bừng, rạo rực sức sống khiến không ai có thể thờ ơ: “Của ong bướm này đây tuần tháng mật, Và đây hoa của đồng nội xanh rì Này đây lá của cành tơ phơ phất; Của yến anh này đây khúc tình si, Và này đây ánh sáng chớp hàng mi, Mỗi sáng sớm thần vui hằng gõ cửa”. Tình và cảnh của đoạn thơ này được tác giả miêu tả bằng những hình ảnh chọn lọc, tinh tế. Nhạc điệu rộn ràng giống như tiếng reo vui hồn nhiên, mừng rỡ của đứa trẻ thơ ngây lạc vào khu vườn mùa xuân đầy hương sắc, tưng bừng bản nhạc đủ mọi thanh âm. Đối với Xuân Diệu thì mỗi ngày là một niềm vui mới và cuộc đời là một chuỗi vui vô tận: Mỗi sáng sớm thần vui hằng gõ cửa. Xuân Diệu đồng nhất mùa xuân với tuổi trẻ, tình yêu và cảm thấy đời người quá ngắn ngủi trước thời gian, không gian vĩnh cửu. Cho nên thi sĩ ngậm ngùi, tiếc nuối: “Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi, Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”. Nhịp thơ ở đoạn này chậm hẳn: 1 / 2 /1/2/2 ; 1 / 2 / 2/1/2, chất chứa suy nghĩ và cảm xúc khắc khoải lắng sâu. Câu thơ đầy tiếc nuối và tuyệt vọng đã khép lại phần lí giải cho lẽ sống vội vàng của Xuân Diệu và mở ra phần biểu hiện bằng hành động: “Ta muốn ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn; Ta muốn riết mây đưa và gió lượn, Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,.
<span class='text_page_counter'>(10)</span> Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều; Và non nước, và cây, và cỏ rạng. Sự kết hợp tài tình giữa hình ảnh, âm thanh và nhịp điệu khiến đoạn thơ này đã đặc tả được tình yêu cuộc sống mãnh liệt của thi sĩ. Cảm hứng thơ giống như những đợt sóng đại dương mỗi lúc mỗi dâng cao. Điệp ngữ Ta muốn khẳng định khát khao cháy bỏng muốn ôm trọn cả vũ trụ trong vòng tay âu yếm muôn đời. Mỗi lần điệp ngữ Ta muốn xuất hiện là lại đi kèm với một động thái yêu đương mạnh mẽ, đắm say: ôm, riết, say, thâu và cắn. (ôm cả sự sống…, riết mây đưa và gió lượn…, say cánh bướm với tình yêu…, thâu trong một cái hôn nhiều…). Phải nói rằng cách thể hiện tâm trạng của Xuân Diệu ở bài thơ Vội vàng là rất mới, rất lạ, rất “Xuân Diệu”, xưa nay chưa từng có. Cách dùng từ ngữ và hình ảnh thật táo bạo; nhịp điệu thơ thay đổi linh hoạt, phù hợp với việc diễn đạt cảm xúc trong từng đoạn. Chỉ có như thế tác giả mới bày tỏ được mức độ nồng nàn, say đắm của tình yêu thương cuộc đời, yêu thương con người.. CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ _Nguyễn Tuân_ Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một nghệ sĩ tài hoa. Mỗi lời văn của Nguyễn Tuân đều là những nét bút trác tuyệt như một nét chạm khắc tinh xảo trên mặt đá quý của ngôn ngữ (Tạ Tỵ). Một trong những nét bút trác tuyệt đó là tác phẩm Chữ người tử tù. 1. Đề tài, cảm hứng: Nguyễn Tuân trước Cách mạng là một nhà văn duy mỹ. Ông yêu đến say đắm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, tôn thờ cái đẹp. Ông miêu tả cái đẹp bằng kho ngôn ngữ giàu có của riêng ông. Nhưng nhân vật hiện lên trong các tác phẩm của Nguyễn Tuân phải là hiện thân của cái đẹp. Đó là những con người tài hoa, hoạt động trong những hoàn cảnh, môi trường đặc biệt, phi thường. Ông phát hiện, miêu tả cái đẹp bên ngoài và bên trong của nhân vật. Trong cái đẹp của.
<span class='text_page_counter'>(11)</span> ông bao gồm cái chân và thiện. Ông còn kết hợp mỹ với dũng. Truyện ngắn chữ người tử tù là áng văn hay nhất, tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân. 2. Hình tượng nhân vật: Huấn Cao là một kẻ sĩ xả thân vì đại nghĩa, lên án và tố cáo sự trắng trợn của triều đình, ông bất chấp tất cả để chống lại triều đình mục nát, thối rữa. Huấn Cao trong mắt của bọn lính là một kẻ “ngạo ngược và nguy hiểm nhất”, nên đề phòng. Đối với thầy thơ thì ông “văn võ đều có tài cả, chà chà” còn đối với người quản ngục thì Huấn Cao là người “chọc trời quấy nước”, coi thường tiền bạc và bạo lực. Với những cách nhìn ấy, Huấn Cao là một người tài ba trong mắt của mọi người, là một kẻ tù nhưng lại có tấm lòng kiên trung, toát lên sự thanh cao giữa chốn xiềng xích nhơ bẩn. Bằng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Tuân đã vẽ lên hình ảnh Huấn Cao bộc trực, đầy hào khí, từng đường nét đều rất thoát phàm, rất độc đáo. Là một kẻ tù nhưng Huấn Cao dường như chẳng sợ trời, chẳng sợ đất, ông có thể thét lên với bất cứ ai. Không cần hành động nhưng khí phách của ông lại khiến cho mọi người nể phục. Huấn Cao giữa chốn lao tù này còn được biết đến là kẻ sĩ tài hoa, người đời mến mộ bằng cái tên “cái người mà vùng tỉnh Sơn đã khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp..” Những kẻ sĩ có chữ đẹp luôn được sung bái và ngưỡng mộ như vậy. Chữ của ông như “một báu vật trên đời”, ai có diễm phúc sở hữu chữ của ông chính là sở hữu một vật báu trong thiên hạ. Huấn Cao không biết ông quản ngục luôn có một ước mong được sở hữu chữa Huấn Cao, được treo chữ của ông viết ở trong nhà, chữ ông Huấn Cao đẹp và vuông lắm. Một con người tài đức vẹn toàn, một con người không chỉ tài hoa mà còn có cái tâm rất trong sáng và ngay thằng. Kỳ thực ông viết chữ đẹp nhưng chưa bao giờ “ép mình viết bao giờ” Đấy là cốt cách thực sự đáng quý. Ông chỉ viết cho những người thực sự xứng đáng, những người có thể khiến ông ngưỡng mộ và khâm phục nhất. Nguyễn Tuân thực sự rất tài, tài đến nổi đọc từng câu từng chữ của ông người ta cứ ngỡ như ông đang vẽ nên một bức họa thật sinh động giữa chốn nhân gian về một kẻ sĩ đáng trọng như Huấn Cao. Huấn Cao còn là một người trân trọng tìn bạn, mến mộ những con người có “chí nhớn” trong thiên hạ. Qua lời kể của viên thơ lại, ông đã biết được tấm lòng của viên quản ngục và ngưỡng mợ trước tấm chân tình cũng như sự yêu mến và khát khao có được chữ của ông. Ông xúc động nhận ra được con người có thú vui thanh tao giữa chốn gong cùm nhơ bẩn này “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Nào ta biết đâu một người như thầy quản mà lại có.
<span class='text_page_counter'>(12)</span> những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Chỉ một cụm từ “phụ một tấm lòng trong thiên hạ”, Huấn Cao đã khiến cho người đọc không thể nén được cảm xúc. Một con người biết trân trọng cái đẹp, hướng về cái đẹp, đó là một lối sống hướng đến vẻ đẹp “ChânThiện-Mỹ”. Hình ảnh cảnh cho chữ hiện lên ở cuối tác phẩm dường như là cảnh tượng khó quên nhất trong tác phẩm. Một cảnh tưởng khiến cho người đọc nhớ mãi. Cảnh cho chữ diễn ra không phải ở một nơi thanh cao mà lại diễn ra giữa chốn ngục tù, là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Hình ảnh ba con người hiện lên trong cảnh tượng ấy thật đẹp, thật lung linh, họ không còn là người tù, viên quản ngục nữa mà là những người yêu cái đẹp, tâm đắc với cái đẹp. Cảnh cho chữ ấy thật thiêng liêng và xúc động, sự gặp gỡ quá muộn màng giữa những con người yêu cái đẹp, yêu cái vẻ đẹp hoàn thiện nhất. Hình ảnh Huấn Cao vươn xiềng xích, tung bút viết những chữ vuông vắn nhất thực sự là hình ảnh đẹp nhất, đáng ngưỡng mộ và khâm phục nhất. Hình ảnh viên quản ngục “vái lạy” Huấn Cao và Huấn Cao đỡ viên quản ngục dây thực sự là hình ảnh ám ánh khi gấp trang sách lại. Thời khắc mong manh giữa sự sống và cái chết khiến cho người kẻ sĩ ấy thêm kì vĩ, lấp lánh hơn. Kẻ tử tù không thể có cốt cách như vậy, chỉ có anh hùng mới xứng đáng với cốt cách ấy. Và Huấn Cao là môt đấng anh hùng như vậy. Huấn Cao hiện lên rõ nét, oai phong, đĩnh đạc qua từng nét bút của Nguyễn Tuân thực sự khiến cho người đọc không thể rời mắt khỏi trang viết. Huấn Cao là biểu tượng của cái đẹp vĩnh cửu, của những gì hoàn hảo và kiên trung nhất. Một con người “khó kiếm” trong thiên hạ. Thực vậy, gấp trang sách lại nhưng hình ảnh Huấn Cao vẫn hiện hiển trong trí óc của người đọc. Ông là hình ảnh tiêu biểu cho những anh hùng hiên ngang bất khuất giữa chốn nhơ bẩn, bất công của thời đại. 3. Nghệ thuật thể hiện: Là nhân vật đẹp nhất, sang nhất trong văn nghiệp của Nguyễn Tuân, hình tượng Huấn Cao vừa kế tinh từ tư tưởng nhân văn, vừa thể hiện phong cách độc đáo của tác giả “Vang bóng một thời”. Xây dựng nhân vật Huấn Cao , Nguyễn Tuân đã thể hiện khuynh hướng khám phá, ca ngợi con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ Không đi sâu vào nội tâm, Nguyễn Tuân có tài dựng chân dung, tính cách nhân vật thông qua tình huống truyện éo le, oái ăm đầy kịch tính với những chi tiết chọn lọc.
<span class='text_page_counter'>(13)</span> Phát huy triệt để sức mạnh của bút pháp lãng mạn, nghệ thuật tương phản đối lập, tất cả được đẩy đến mức siêu phàm phi thường Ngôn ngữ trong tác phẩm mang vẻ đẹp cổ kính trang trọng, giàu chất tạo hình và màu sắc điện ảnh. Đoạn giỗ gông và cảnh cho chữ có thể xem là những thước phim ngắn cận cảnh đặc sắc. Quả không sai khi nói rằng, bằng tài năng ngôn ngữ độc đáo, Nguyễn Tuân không chỉ tạo dựng nên chân dung sống động về Huấn Cao – một người nghệ sĩ mang khí phách anh hùng mà còn tạo dựng được không khí cổ xưa, của đất nước góp phần lưu giữ vẻ đẹp vang bóng một thời cho muôn đời. Từ đó bộc lộ niềm trân trọng đối với giá trị văn hóa cổ truyền. 2. Văn học hiện thực:. SỐ ĐỎ _Vũ Trọng Phụng_. Vũ trọng phụng là một nhà văn, nhà báo trẻ của Việt Nam vào đầu thế kỉ XX. Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh khó khăn cũng với những nhiễu nhương của thời cuộc, Vũ Trọng Phụng sớm nhận ra được cái bản chất nhố nhăng của xã hội đương thời. Ngòi bút của ông đa phần là châm biếm, đả kích những tầng lớp "tư sản hóa" cùng với chính quyền chạy theo tư lợi trong xã hội lúc bấy giờ. Các tác phẩm của ông từ phóng sự, tiểu thuyết, cho đến truyện ngắn đều có giọng điệu trào phúng đặc sắc, châm biếm mỉa mai, bởi vậy, ông còn được coi là "banzac của Việt Nam". các tác phẩm của ông đã gây nên một hiệu ứng mới trong nền văn học Việt Nam lúc bấy giờ, mà hơn cả là tiểu thuyết “Số đỏ” hoàn thành năm 1936. "Số đỏ" với giọng văn trào phúng sâu cay là một sự phản ánh trung thực xã hội đương thời, có tính khái quát một phần bản chất của cuộc sống. Tác phẩm cũng được coi là một trong những tác phẩm điển hình của trào lưu văn học hiện thực 1930-1945. 1. Đề tài, cảm hứng: Viết vào những năm 30 của thế kỉ XX, khi mà xã hội đang dần suy thoái, trong nhân dân tồn tại lẫn lộn những tầng lớp tây-tàu nhố nhăng. Trật tự xã hội bị đảo lộn, những điều đúng đắn bị phủ nhận, những cái nhố nhăng, nhắng nhít của thời đại thì được coi là chân lý. Với những điều đó, Vũ Trọng Phụng đã.
<span class='text_page_counter'>(14)</span> dùng ngòi bút trào phúng bậc thầy của mình để lật mặt cái xã hội giả dối đương thời. Tác phẩm với những tiếng cười châm biếm sâu cay đã một phần tái hiện lại bộ mặt của xã hội đương thời, đả kích vào những thế lực xã hội làm đảo lộn trật tự, chân lý của đời sống con người. 2. Hình tượng nhân vật: Hình tượng nhân vật trung tâm của tác phẩm là nhân vật Xuân tóc đỏmột nhân vật điển hình cho số phận của những con người biết "nghiêng theo thời thế" mà đổi đời. Cuộc đời của Xuân được bắt đầu khi bà Phó Đoan đến chơi ở sân quần vợt nơi Xuân tóc đỏ làm việc. Vô tình Xuân tóc đỏ vì xem trộm 1 cô đầm thay đồ nên bị cảnh sát bắt giam và được bà Phó Đoan bảo lãnh. Sau đó, bà Phó Đoan giới thiệu Xuân đến làm việc ở tiệm may Âu Hóa, từ đó Xuân bắt đầu tham gia vào việc cải cách xã hội. Nhờ thuộc lòng những bài quảng cáo thuốc lậu, hắn được vợ chồng Văn Minh gọi là "sinh viên trường thuốc", "đốc tờ Xuân". Hắn gia nhập xã hội thượng lưu, quen với những người giàu và có thế lực, quyến rũ được cô Tuyết và phát hiện cô Hoàng Hôn ngoại tình. Xuân còn được bà Phó đoan nhờ dạy dỗ cậu Phước, được nhà sư Tăng Phú mời làm cố vấn cho báo Gõ Mõ. Vì vô tình, hắn gây ra cái chết cho cụ cố tổ nên được mọi người mang ơn. Văn Minh vì nghĩ ơn của Xuân nên dẫn Xuân đi xóa bỏ lí lịch trước kia rồi đăng kí đi tranh giải quần vợt nhân dịp vua Xiêm đến Bắc Kì. Bằng thủ đoạn xảo trá, hắn làm hai vận động viên quán quân bị bắt ngay trước hôm thi đấu nên Xuân được dịp thi tài với quán quân Xiêm. Vì để giữ tình giao hảo, hắn được lệnh phải thua. Kết thúc trận đấu, khi bị đám đông phản đối, Xuân hùng hồn diễn thuyết cho đám đông dân chúng hiểu hành động "hi sinh vì tổ quốc của mình", được mời vào hội Khai trí tiến đức, được nhận huân chương Bắc Đẩu bội tinh và cuối cùng trở thành con rể cụ cố Hồng. Vậy là với sự đểu cáng cùng với thói nịnh bợ, Xuân tóc đỏ đã từ một thằng lưu manh vô học bước lên trên bục đài, đứng ngang hàng với những kẻ có học thức, được trọng vọng, được hô hào. Hình tương Xuân tóc đỏ đã một phần phản ánh cái nhố nhăng của thời đại. Thời cuộc nhố nhăng, những giá trị tốt đẹp bị xáo trộn, cái chân lý, cái đúng đắn không còn là những chuẩn mực để đánh giá con người nữa. Mà thay vào đó, những thứ gọi là "nhanh tay", "thức thời", biết tận dụng thời cơ mới là cái làm nên giá trị, đem lại danh lợi cho con người. Xuân tóc đỏ là đại diện cho một lớp người, một hạng người, lợi dụng cái suy tàn của thời đại mà tiến thân! 3. Nghệ thuật biểu hiện: "Số đỏ" có được thành công như ngày hôm nay một phần cũng là nhờ ngòi bút trào phúng bậc thầy của Vũ Trọng Phụng. là một nhà văn hiện thực, Vũ.
<span class='text_page_counter'>(15)</span> Trọng Phụng chú ý đến từng chi tiết khi miêu tả nhân vật hay kể lại diễn biến. Ngay từ cách đặt nhan đề cho mỗi chương truyện, Vũ Trọng Phụng đã thể hiện cái ngòi bút hiệt thực bậc thầy của mình, có thể lấy điển hình là chương truyện "hạnh phúc của một tang gia". Thông thường tang gia là bất hạnh, bao trùm lê một gia đình có người chết phải là cảnh buồn đau nhưng ở đây, cái chết của cụ tổ lại đem đến cho cả gia đình một niềm hạnh phúc hoan hỉ. Nó cho thấy được cái giả dối đểu cáng, một xã hội chẳng còn gì nữa khi mà tình thần còn chẳng được trọng vọng! Hay trong từng ngôn ngữ kể, Vũ Trọng Phụng bộc lộ được tài năng của mình: "Cái chết kia làm cho nhiều người hạnh phúc lắm", "đám cứ đi",....Từng chi tiết liên quan đến từng nhân vật cũng được nhà văn chú trọng: Ông cụ cố Hồng thì cứ lặp đi lặp lại câu "Biết rồi, khổ lắm, nói mãi", tưởng chừng như là biết nhiều lắm, biết tất cả mọi điều nhưng thật ra là chẳng biết gì cả. Cậu tú tân thì "điên người lên vì cậu đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mà mãi không được dùng đến", cô Tuyết thì diện bộ trang phục Ngây Thơ, để làm gì, để cho người ta thấy rằng, mình "vẫn chưa đánh mất cả chữ trinh"...rất nhiều, rất nhiều những chi tiết như thế được Vũ Trọng Phụng chú ý xây dựng kết hợp với một lối nói châm biếm đã làm nên một "Số đỏ" đậm chất hiện thực! "Số đỏ" không chỉ đem lại những thành công nhất định trong sự nghiệp văn chương của Vũ Trọng Phụng mà còn là một tác phẩm hiện thực có giá trị đặc biệt trong nền văn học việt nam nói chung và văn hoc hiện thực nói riêng. Nó đã phản ánh, phơi trần caí bản chất bịp bợm, rởm đời của xã hội tư sản thuộc địa, thực dân thành thị đương thời. Đó là một xã hội nhố nhăng, khốn nạn, "chó đểu' nhưng bề ngoài lại có vẻ sang trọng, "Âu hóa", văn minh. Một xã hội Tây-Tàu nhố nhăng, mà ở đó, cái thật, cái giả cũng như mọi thang bậc giá trị bị đảo lộn, đồng thời cũng thấy được thái độ mỉa mai, châm biếm của Vũ Trọng Phụng trước thói đạo đức giả, hợm hĩnh, rởm đời trong xã hội thượng lưu!. CHÍ PHÈO _Nam Cao_ Nhắc đến những nhà văn hiện thực tiêu biểu của Việt Nam thì chúng ta không thể nào không nhắc đến nhà văn Nam Cao-Một cây bút hiện thực xuất sắc. Xuất thân từ một tầng lớp trung lưu, bên cạnh đó cũng được tiếp xúc với nền nho học, đã từng trải qua kiếp chật vật của nghề giáo. Bởi vậy mà ngòi bút của Nam Cao thường hướng đến đó chính là bi kịch của người nông dân.
<span class='text_page_counter'>(16)</span> và người trí thức tiểu tư sản trong xã hội. Văn phong của Nam Cao mộc mạc, gần gũi song lại có một sức tác động lớn đến hiện thực xã hội đương thời. Những tác phẩm của ông đa phần đi sâu vào khai thác bi kịch về tinh thần của con người, cái mà biết bao nhà văn hiện thực khác không làm được. Tác phẩm của Nam Cao không chỉ phản ánh sâu sắc cái xã hội coi trọng danh vọng và quyền lực, coi rẻ nhân phẩm con người, mà nó còn chứa đựng những giá trị nhân đạo thấm thía. Điển hình có thể kể đến tác phẩm "Chí Phèo"-một tác phẩm hiện thực kinh điển của văn học Việt Nam!. 1: Đề tài, cảm hứng: Cũng đi bóc trần cái bản chất xấu xa của xã hội đương thời và cuộc sống khốn khổ của những người nông dân, song Nam Cao đã có một hướng đi khác so với những nhà văn hiện thực cùng thời. Nam Cao không trực tiếp đi miêu tả quá trình bần cùng cơm đói áo rách dù đó cũng là một hiện thực phổ biến. Nhà văn trăn trở, suy ngẫm nhiều hơn đến một hiện thực: Con người không được là chính mình, thậm chí không còn được làm một con người mà là một con "quỷ dữ", bởi âm mưu thâm độc và sự chà đạp của một guồng máy thống trị tàn bạo. Với một cái nhìn sắc bén, đầy tính nhân văn, bằng khả năng phân tích lí giải hiện thực hết sức tinh tế, bằng vốn sống dồi dào và trái tim nhân ái, Nam Cao đã xây dựng nên một tác phẩm không chỉ có một giá trị hiện thực sắc bén mà còn thấm đãm tinh thần nhân đạo! 2: Hình tượng nhân vật: Với "Chí Phèo", Nam Cao đã xây dựng nên một hệ thống nhân vật điển hình với những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình: +Chí Phèo: Giống như Binh Chức, Năm Thọ, Chí Phèo cũng phải chịu chung một số phận của những co người bị dồn vào những bước đường cùng và cuối cùng phải chọn cái chết để giải thoát. Chỉ vì cái ghen tuông vu vơ của Lí Kiến, Chí Phèo bị đẩy vào tù. Cái nhà tù thực dân đó cũng có một sức mạnh ghê ghớm, nó đã biến một anh nông dân hiền lành thành một con quỷ dữ. Chí Phèo không còn là người và cũng không ai công nhận hắn là người nữa, Hắn đã biến đổi cả nhân hình lẫn nhân tính! Nhưng hơn cả, trong sâu thẳm tâm hồn, chí vẫn là người và khao khát được đồng vọng với con người. Cái khao khát ấy đã đẩy chí vào tấm bi kịch, đó chính là bi kịch bị cự tuyêt làm người. Thị nở đã thức tỉnh chí, cho chí hy vọng, nhưng cuối cùng còn lại gì, chí cũng phải chọn lấy cái chết để bảo toàn nhân cách. Số phận của chí,.
<span class='text_page_counter'>(17)</span> nhân cách của chí đại diện cho cả một kiếp người bị xã hội vùi dập, không còn sự lựa chọn riêng cho mình! +Thị Nở: Thị Nở đại diện cho một tầng lớp nằm dưới đáy của xã hội, bị xã hội khinh bạt. Đó là một người đàn bà xấu xí cả về dung nhan lẫn về tính cách. thế nhưng đó cũng là đại diện cuối cùng còn sót lại ở làng vũ đại còn có lòng người. Thị là người đã giúp Chí thoát khỏi vòng vây của quỷ dữ, đã cho Chí nhận ra ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Thị tùy gàn dở nhưng vẫn còn tình người, hơn rất nhiều những kẻ có học ngoài kia! +Bá Kiến: Cuộc sống của những người nông dân trước cách mạng tháng 8 bị những thế lực tàn bạo thống trị thì Bá Kiến chính là đại diện đây đủ cho những thế lực ấy. Bá kiến được xây dựng, khắc họa với đầy đủ những tính cách của những kẻ cầm quyền ngang ngược, coi rẻ nhân phẩm con người. Vì một lần ghen tuông bậy bạ, Bá Kiến đã đẩy một con người hiền lành vào vòng vây của quỷ dữ, biến Chí từ một anh canh điền trở nên một con “quỷ dữ” của làng vũ đại. Bá kiến chính là nhân vật điển hình cho những xấu xa tàn ác của xã hội bất nhơn! +Bà cô thị Nở: Nhân vật bà cô Thị Nở chỉ thoáng qua trong tác phẩm, song cũng là một nhân vật quan trọng góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm. Không trực tiếp là người đẩy chí phèo vào vực tha hóa, nhưng bà cô của thị nở đã vô tình đẩy chí IV- KẾT LUẬN: 1. CỦNG CỐ KIẾN THỨC: Nội dung.. Văn học hiện thực.. 1. Đề tài, cảm - phân tích, lí giải hiện thực hứng. xã hội. - đi vào đề tài xã hội với thái độ phê phán trên tinh thần dân chủ và nhân đạo. 2. Thể loại - tiểu thuyết thích hợp. - truyện ngắn - phóng sự. Văn học lãng mạn. -cái tôi trữ tình, ước mơ, khát vọng. - quan hệ riêng tư, số phận cá nhân. - thái độ bất hòa, bất lực trước thực tại - thơ trữ tình - văn xuôi trữ tình. 3. Hình tượng - xây dựng nhân vật điển - cái tôi cá nhân tràn đầy cảm nhân vật. hình với những tính cách xúc với một niềm kiêu hãnh điển hình. riêng trong khẳng định quyền hạn cá nhân..
<span class='text_page_counter'>(18)</span> 4. Nghệ thuật - khách quan, không tô vẽ, - sử dụng thủ pháp ước lệ, phản ánh. không né tránh các hiện tương phản, đối lập, thích tượng xấu xa, đen tối. khoa trương, phóng đại, ngôn ngữ giàu sức biểu hiện cảm xúc. 2. ĐÁNH GIÁ:. Lời kết: Phần trình bày của nhóm em đến đây là kết thúc. Cảm ơn cô và các bạn đã chú ý lắng nghe!.
<span class='text_page_counter'>(19)</span>