Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.26 KB, 25 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
(Về tác phẩm “Chí Phèo”, SGK Ngữ văn lớp 11, tập 1)
Sinh thời, nhà văn Nam Cao đã từng mơ ước “viết một tác phẩm vượt lên
trên tất cả bờ cõi và giới hạn. Nó phải chứa đựng một cái gì vừa đau đớn lại vừa
phấn khởi. Nó ca tụng lịng thương, tình bác ái, sự cơng bình. Nó làm cho người
gần người hơn”. Bao nhiêu giằng xé, vật lộn, trăn trở, dồn hết tâm huyết và tinh
huyết để “hoài thai” trong cơn “trở dạ” đau đớn để năm 1941, nhà văn ấy đã
phấn khởi đón nhận sự sinh thành của một đứa con xứng đáng – “Chí Phèo” –
kiệt tác của văn xi hiện đại Việt Nam. Cái dáng hình “ngật ngưỡng” của Chí
là một điển hình, song cái ám ảnh trong ta, không hiểu sao lại là cái chết đầy đau
đớn, khốc liệt của Chí ở cuối tác phẩm. Bởi ở đó, ta băn khoăn tự hỏi, liệu cái
chết đó là một “sự kết thúc hay khởi đầu”?
<b>1) Cái chết để được sống?</b>
Một câu hỏi q vơ lí chăng? Con người ta đâu có được sống hai lần! Song
từ thẳm sâu trong tâm hồn Chí, khi vung dao lao vào bá Kiến với câu khẳng
định: Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết khơng! Chỉ có một cách …
biết khơng! … Chỉ cịn một cách là … cái này! Biết khơng !… thì hóa ra, cái
chết của Chí thực chất lại là một sự khởi đầu. Nói đúng hơn, đó thực chất là một
sự “khởi động” lại quãng đời lương thiện trước đây hắn đã từng có, đã từng ao
ước và theo đuổi “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt
vải. Chúng lại bỏ một con lợn ni để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba
sào ruộng làm” nhưng đã bị giai cấp thống trị cướp mất. Như vậy, giờ đây, Chí
chết hóa ra là để được sống lại với nhân tâm, nhân phẩm, nhân cách của một con
người hiền lành trước kia. Chí chết nhưng lại là một sự chứng minh cho người
dân làng Vũ Đại rằng, bản tính lương thiện và khao khát làm một người bình
thường với đúng nghĩa của nó là khơng bao giờ mất. Hãy vững tin vào điều đó!
<b>2) Chết để khơng cịn phải sống?</b>
bi kịch khôn nguôi nhưng không thể nào tránh khỏi. Sống làm sao khi hắn
khơng cịn đập đầu, rạch mặt ăn vạ, khơng cịn có thể làm đổ máu và nước mắt
của biết bao nhiêu người dân lương thiện được nữa, vì hắn đã tỉnh – tỉnh rượu và
quan trọng hơn là tỉnh ngộ! Sống làm sao khi nẻo về của con đường lương thiện
mà trước đây Chí mơ ước đã hồn tồn “chăng tơ nghẽn lối”, ngơi nhà nho nhỏ
mà hắn hằng khao khát trước kia giờ đây mãi mãi “cửa vẫn đóng và đời im ỉm
khóa”. “Chí đã trơng thấy trước cái tuổi già của hắn. Và đói rét, và ốm đau, và
cơ độc. Cái này cịn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Gia sản của Chí lúc này
cịn lại gì ngồi những cái đó? Một lời giao tiếp với cuộc sống xung quanh, ao
ước ấy nhỏ bé và bình thường biết bao! Vậy mà rốt cuộc lại, chỉ cịn có tiếng của
Chí và “ba con chó dữ”. Chua xót, đau đớn và ám ảnh! Vậy có phải chăng, cái
chết với Chí là một sự giải thốt. Chết để khơng cịn phải sống!
<b>3) Cái chết “hồi thai” một bi kịch?</b>
Chí Phèo chết đâu phải đã hết! Cái chết ấy “hoài thai” một bi kịch – bi
kịch ấy mang tên “cái lò gạch cũ” – một biểu tượng đau xót và ám ảnh. Đừng
đơn giản hóa cái sinh linh bé bỏng đang lớn dần lên trong sinh thể người mẹ thị
Nở. Nó lớn lắm, bởi nó là một giai cấp, một tầng lớp, một số phận – số phận của
những người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Luẩn
quẩn, bế tắc, không lối thốt. Đó là tiếng kêu cứu của lịng trắc ẩn mênh mông
mà nhà văn Nam Cao muốn gửi tới người đọc: hãy cứu lấy số phận những con
người cùng khổ, cứu lấy nhân hình, nhân tính, đưa lại cho họ một tương lai sáng
sủa trong một xã hội tốt đẹp hơn! Và sinh thời, nhà văn Nam Cao đã tin, rất tin
vào điều đó: “Sự đời không thể cứ mù mịt mãi thế này đâu. Tương lai phải sáng
sủa hơn. Một rạng đông đã báo rồi” (Điếu văn)
<b>4) Cái chết thay đổi xã hội?</b>
thành “Đơi lứa xứng đơi” khơng chỉ vì để giật gân, câu khách mà dường như
ông chủ Nhà xuất bản ấy cũng đã phần nào cảm nhận được cái xung đột quá gay
gắt, quyết liệt, dữ dội và ghê gớm của thiên truyện ngắn kiệt tác này chăng? Như
vậy, liệu có cường điệu quá chăng khi ta nói, cái chết của Chí là cái chết ghê
ghớm, cái chết thức tỉnh, cái chết góp phần thức tỉnh xã hội?
<b>5) Cái chết đánh động lương tri con người?</b>
Liệu đã khi nào trong tâm thức chúng ta đã từng đặt ra câu hỏi: Có ai
trong cái làng Vũ Đại ấy hiểu cho tiếng chửi của Chí Phèo chưa? Hãy tự đặt cho
mình câu hỏi ấy để mà khắc khoải. Chao ơi, Chí chửi nhiều lắm, từ chửi trời,
chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn, chửi
đứa chết mẹ nào đã đẻ ra thân hắn. Vậy mà tất cả đều dửng dưng. Tiếng chửi ấy
dường như không hề vướng bận một chút gì đến họ. Vì sao vậy? Thì ra, đã từ
lâu, cả làng Vũ Đại này đâu cịn xem Chí là người nữa! Mà khơng cịn là người
thì hắn đâu phải giống lồi với mình. Họ mặc nhiên xem Chí là lồi vật, là một
con quỷ dữ khơng hơn khơng kém. Mà là con vật thì cho dù hắn có chửi, có hát
hay có làm gì đi chăng nữa cũng vẫn thế. Họ vẫn không ai ra điều. Tất cả những
người dân làng Vũ Đại đã tự cho mình có cái quyền được gạt bỏ đồng loại ra
khỏi đời sống mà mỗi con người đáng ra phải được hưởng. Họ đã đánh mất đi
một điều quan trọng nhất trong tâm tính của mình, đó là lịng tin vào bản tính
lương thiện của mỗi con người. Hóa ra, Nam Cao đang đặt ra cho tất cả chúng ta
một cái nhìn mang tính biện chứng của triết học, đó là mối quan hệ chặt chẽ,
khơng thể tách rời giữa hồn cảnh và tính cách con người. Tất cả những người
dân làng Vũ Đại đã xem Chí là con vật thì đương nhiên Chí cũng khơng thể xem
mình là con người được nữa. Là con người, làm sao anh có thể sống khi khơng
có đồng loại? Vậy thì Chí phải sống số kiếp của một con vật để tìm cách tồn tại
mà trời đất ban tặng cho mỗi chúng ta! Thông điệp nhân sinh sâu sắc ấy đâu
phải chỉ có giá trị một thời, một đời và thuộc về một quốc gia, một dân tộc? Đó
chắc chắn sẽ là thơng điệp của mn đời và của cả nhân loại!
Thời gian vẫn trôi trong sự miên viễn, trong sự vô thủy vô chung của đất trời và
vũ trụ. Đó là thước đo khắc nghiệt nhất, sàng lọc mọi giá trị. Trên dòng đời cuộn
chảy, những thứ bèo bọt, rác rưởi rồi sẽ bị loại bỏ, chỉ còn lại với đời sẽ chỉ là
những chân giá trị với sức sống trường tồn, bất tử của nó. Trải qua gần một thế
kỉ, “Chí Phèo” của Nam Cao vẫn đủ sức lay động biết bao trái tim độc giả,
gióng lên thơng điệp niềm tin vào bản tính lương thiện của mỗi con người.
Trong dòng chảy của văn học hiện đại Việt Nam, cùng với “Số đỏ” (Vũ Trọng
Phụng) và nhiều tác phẩm khác, “Chí Phèo” của nhà văn Nam Cao sẽ vẫn mãi
xứng đáng là những tác phẩm văn học “ghê gớm, có thể làm vinh dự cho mọi
nền văn học”! (Nguyễn Khải)
<b> Vấn đề 1 : Bi kịch bị tha hố của Chí Phèo:</b>
Giữa lúc dòng văn học hiện thực phê phán (1930-1945) tưởng như chấm
dứt thời kỳ vàng son của mình thì Nam Cao xuất hiện như một ngôi sao lạ trên
bầu trời đầy sao. Với tác phẩm “Chí Phèo” (1940), Nam Cao đã đóng góp cho
dịng văn học hiện thực một điển hình nơng dân mới lạ, sâu sắc, độc đáo với tấn
bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo.
Chí Phèo ra đời thật là thê thảm: “Một anh đi thả ống lươn, một buổi sáng
tinh sương đã thấy hắn trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên
cạnh cái lò gạch bỏ không, anh ta rước lấy và đem cho người đàn bà goá
mù.Người đàn bà goá mù này bán hắn cho bác phó khơng con và khi bác phó
cối chết thì hắn bơ vơ, hết đi ở nhà nọ.Thân phận của đứa con hoang thật là bi
thảm.May thay, xã hội cũng cịn chút tình thương nên Chí mới có thể tồn tại mà
trưởng thành.Nếu ở trong một xã hội bình thường thì Chí vẫn có thể trở thành
người lương thiện.Năm 20 tuổi hắn đã là một thanh niên khoẻ mạnh làm canh
điền cho Bá Kiến, “hắn ao ước có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày
thuê, vợ dệt vải,chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm
ba sào ruộng làm”.Nhưng mơ ước nhỏ nhoi như vậy cũng khơng thành.
Hắn cũng có lịng tự trọng.Khi bị bà Ba nhà cụ Bá gọi lên bóp chân, bóp đùi gì
đó thì”hắn chỉ thấy nhục chứ u đương gì”.Nhưng bản chất lương thiện trong
sáng ấy của Chí đã bị xã hội huỷ diệt.
đầu,rạch mặt trong lúc say…để rồi say nữa, say vô tận.Hành vi lưu manh cơn đồ
của hắn có mấy biểu hiện:Hắn đập đầu, rạch mặt, đe doạ, ăn vạ, tống tiền bọn
cường hào mà tiêu biểu là Bá Kiến.
Đối với dân làng, hắn là con quỷ dữ giết người không gớm tay. Dân làng ai cũng
Với hình tượng Chí Phèo, Nam Cao đã nêu lên một hiện tượng khá phổ
biến, có tính quy luật ở nơng thôn Việt Nam xưa. Những người lao động lương
thiện bị xã hội đẩy vào con đường cùng đã quay lại chống trả bằng con đường
lưư manh để tồn tại. Trước Chí Phèo, làng Vũ Đại đã có Năm Thọ rồi Binh
Chức. Sau khi Chí Phèo chết, hiện tượng đó chắc gì đã chấm đứt. Biết đâu lại có
một Chí Phèo con ra đời trong cái lị gạch cũ?.
Điều chắc chắn là còn bọn cường hào ức hiếp dân lành, khơng cho họ đựoc sống
lương thiện thì họ phải rơi vào con đường lưu manh, giành lấy miếng ăn, tức là
bị huỷ diệt nhân tính và bị xã hội cự tuyệt quyền làm người. “Chí Phèo”đã làm
nổi bật cái quy luật tàn bạo đó của xã hội cũ.
Nhưng nếu truyện dừng lại ở đó thì Nam Cao khơng có gì mới hơn các
nhà văn hiện thực phê phán đi trước. Nét đặc sắc và độc đáo của Nam Cao là đã
rọi ánh sáng vào tâm hồn đen tối ấy để thấy rằng Chí Phèo vẫn còn một chút
lương tri. Nhưng rọi bằng cách nào, Nam Cao đã rọi bằng ánh sáng của tình
thương, tình u, chỉ có những tình cảm ấy mới có thể rọi vào tâm hồn của một
con quỷ. Trong một cơn say, dưới đêm trăng ngoài bãi vắng, hắn vừa la làng vừa
cưỡng ép Thị Nở, người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn ở cái làng Vũ Đại này.
Nhưng điều kì diệu là nếu như lúc đầu Thị Nở chỉ khơi dậy bản năng sinh vật ở
người đàn ơng say rượu Chí Phèo, thì sau đó sự chăm sóc đầy ân tình và sự u
thương mộc mạc chân thành của Thị Nở đã làm thức dậy bản chất lương thiện
của người nông dân lao động . Sau khi ăn bát cháo của Thị Nở thì Chí tỉnh hẳn.
Hắn bâng khng tỉnh dậy sau một cơn say rất dài. Lần đầu tiên từ ngày về làng,
sáng dậy hắn nghe tiếng chim kêu,hắn nghe rõ tiếng cười nói của người đi chợ,
anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng cười nói của những người đàn bà đi
Thị Nở. Bà cũng như dân làng Vũ Đại đã quen coi Chí là tên lưu manh,là con
quỷ dữ rồi. Hôm nay, linh hồn hắn trở về nhưng khơng ai nhận ra. Thế là Chí
Phèo thật sự rơi vào một bi kịch tinh thần đau đớn. Chí Phèo thật sự đã bị xã hội
cự tuyệt. Chí vật vã quằn quại trong cơn đau đớn tuyệt vọng. Hắn lại uống, lại
uống, Nhưng càng uống càng tỉnh ra, không nghe mùi rượu mà chỉ nghe mùi
cháo hành. Hắn càng thấm thía nỗi đau vơ hạn của thân phận mình. Rồi hắn ơm
mặt khóc rưng rức. Rồi lại uống say mèm. Hắn ra đi với một con dao ở thắt
lưng. hắn lẩm bẩm; “Tao phải đâm chết nó”.Hắn định vào nhà Thị Nở thì lại vào
đúng nhà Bá Kiến. Đây là một tình tiết của thiên tài, vì trong tiềm thức, trong vơ
thức Bá Kiến mới là kẻ thù chính của Chí. vả lại cũng thuộc đường, thuộc ngõ.
Bá Kiến đang nằm ngủ trưa. Hắn đang nằm ngủ trưa. Hắn đang bực mình với bà
Tư, không biết đi đâu mà lâu quá “Sao bà ấy cịn trẻ q, gần bốn mươi tuổi mà
trơng cứ phây phây, càng phây phây quá đi nữa! Mà thấy ghét những thằng trai
trẻ…Cụ chỉ muốn cho tất cả những thằng trai trẻ ở tù”. Thì chinh lúc đó, con
người trai trẻ bị hắn đẩy vào tù năm hai mươi tuổi vung dao xơng vào. Chí Phèo
dõng dạc: “Tao muốn làm người lương thiện..Không ai cho tao lương thiện”.
Hắn vung dao nhào tới. Bá Kiến chết rồi hắn tự sát, khi người ta đến thì hắn
“đang giãy đành đạch ở giữa bao nhiêu là máu tươi”. “Chí Phèo đã chết ở
ngưỡng cửa trở về cuộc đời đóng chặt trước hắn. Chí đã chết trong niềm đau
Nhân vật Chí Phèo là một điển hình nơng dân mới mẻ, độc đáo, sâu sắc
mà Nam Cao đã góp vào cho dịng văn học hiện thực. Với nghệ thuật kể chuyện
hấp dẫn, với cách phân tích tâm lí sâu sắc, Nam Cao đã đặt ra và giải quyết tấn
bi kịch của người nông dân. Bi lkịch bị cự tuyệt quyền làm người. Với nhân vật
Chí Phèo, Nam Cao đã hai lần tố cáo xã hôij thực dân phong kiến. Xã hội đó đã
cướp đi những gì Chí Phèo có và đã cướp đi những gì Chí Phèo muốn. Và Nam
Cao chẳng những là một nhà văn hiện thực sâu sắc mà cịn là một nhà văn có
tinh thần nhân đạo cao quý.
<b> Vấn đề 2 : Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo:</b>
Với hình tượng Chí Phèo, Nam Cao đã thể hiện một cái nhìn nhân đạo mới
mẻ, độc đáo, có chiều sâu trong việc thể hiện thân phận của người nông dân
trước cách mạng: Sinh ra là người nhưng lại bị cự tuyệt quyền làm người.
người thân yêu nhất cự tuyệt, từ chối. Nhưng hắn vẫn là người nông dân hiền
lành, khao khát được sống lương thiện.
2. Nhưng bi kịch không dừng lại: người nông dân "cùng hơn cả dân cùng"
ấy không được sống ngay cả một cuộc đời nghèo khổ nhưng lương thiện của
mình. Anh đã bị xã hội cướp đi cả bộ mặt người cùng linh hồn người để trở
thành một con thú dữ, bị loại khỏi xã hội lồi người. Lão cường hào cáo già Bá
Kiến vì ghen tng vu vơ, đã cho giải Chí lên huyện rồi sau đó anh phải ngồi tù.
Cái nhà tù thực dân ấy đã tiếp tay cho lão cường hào bắt giam anh Chí lương
3. Trở về làng Vũ Đại có bọn cường hào độc ác "ăn thịt người khơng
tanh" đó, Chí Phèo càng trượt dài trên con đường tha hóa. Hắn muốn sống thì
phải gây gổ, cướp giật, ăn vạ. Muốn thế phải gan, phải mạnh. Những thứ ấy, Chí
Phèo tìm ở rượu. Thế là Chí Phèo ln ln say, và "hắn say thì hắn làm bất cứ
cái gì người ta sai hắn làm". Chính xã hội ấy đã vằm nát bộ mặt người, cướp đi
linh hồn người của anh. Trở về làng lần này, Chí Phèo trở nên xa lạ với mọi
người, "là con quỷ của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng"... Và
thế là hắn khơng cịn được mọi người coi là người nữa, ai cũng "tránh mặt hắn
mỗi lần hắn qua".
4. Song sâu thẳm trong con “quỉ dữ” ấy vẫn muốn được công nhận là con
người. Mở đầu truyện là hình ảnh Chí Phèo say rượu vừa đi vừa chửi. Nhưng
phải chăng đằng sau những tiếng chửi lảm nhảm của Chí Phèo, có một cái gì
giống như sự vật vã tuyệt vọng của một con người thèm khát được giao tiếp với
đồng loại mà khơng thể được? Trong cơn say đến mất cả lí trí, con người khốn
khổ ấy vẫn cảm nhận được thấm thía "nơng nỗi" của thân phận mình: đó là
"nông nỗi" cô đơn khủng khiếp của một con người đã bị xã hội dứt khốt cự
tuyệt, khơng được coi là người. Hắn thèm được người ta chửi, vì chửi dù sao
cũng là một hình thức giao tiếp, đối thoại; chửi lại hắn tức là còn thừa nhận hắn
là người. Nhưng hắn cứ chửi, xung quanh vẫn cứ là "sự im lặng đáng sợ". Và
Chí Phèo vẫn chỉ có một mình trong sa mạc cơ đơn: hắn cứ "chửi rồi lại nghe",
"chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu!...". Hắn chỉ như một con vật lạ.
Ai thèm nói chuyện với con vật?
đây đã trở về. Anh bỗng thấy "thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người
biết bao!". Tức là anh vô cùng khao khát được mọi người nhận anh trở lại "vào
cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện". Tình yêu của
6. Nhưng con đường trở lại làm người của Chí Phèo vừa được hé mở thì
đã bị đóng lại. Bà cơ Thị Nở không cho phép cháu bà "đi lấy một thằng (...) chỉ
có một nghề là rạch mặt ăn vạ". Nhưng trách gì bà ta! Cách nhìn của bà ta cũng
chính là cách nhìn của mọi người làng Vũ Đại lâu nay đối với Chí Phèo. Tất cả
quen coi anh là "quỷ dữ" mất rồi. Hôm nay, linh hồn anh trở về nhưng không ai
nhận ra. Thế là Chí Phèo thật sự rơi vào một bi kịch tinh thần đau đớn. Khi hiểu
ra rằng xã hội dứt khốt cự tuyệt mình, Chí Phèo vật vã quằn quại trong cơn đau
đớn, tuyệt vọng. Hắn lại uống, lại uống... nhưng "càng uống càng tỉnh ra". Tỉnh
ra để thấm thía nỗi đau vơ hạn của thân phận mình. Rồi "hắn ơm mặt khóc rưng
rức" cho đến khi uống đến say mềm và lại xách dao ra đi, lại vừa đi vừa chửi...
như mọi lần. Nhưng khác hẳn mọi lần: trong cơn quằn quại đau đớn vì tuyệt
vọng, Chí Phèo càng thấm thía tội ác của kẻ thù và tình trạng tuyệt vọng vơ
phương cứu chữa của đời mình. Chí đã đến trước mặt Bá Kiến, đanh thép kết án
lão và đã giết chết lão, sau đó, anh tự sát. Anh khơng muốn sống nữa vì giờ đây,
ý thức về nhân phẩm đã trở về, anh không thể sống kiểu lưu manh, sống như thú
vật được nữa. Nhưng xã hội lại không cho anh sống cuộc sống con người! Vậy
thì anh phải chết! Anh đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc đời, khi cánh cửa
cuộc đời đóng chặt trước anh. Anh chết để mãi được sống là người, chứ không
phải là “quỉ dữ”. Chí Phèo chết quằn quại trên vũng máu của mình, chết trong
niềm đau thương lớn lao vì niềm khao khát mãnh liệt, thiêng liêng của anh là
được sống làm người mà không thực hiện được.
Câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo: "Ai cho tao lương thiện?" là câu hỏi chứa chất
phẫn uất, đau đớn, còn làm day dứt người đọc. Làm thế nào để con người được
sống lương thiện trong cái xã hội tàn bạo, ngột ngạt, vùi dập nhân tính ấy?
7. Với hình tượng Chí Phèo, Nam Cao đã nêu lên một hiện tượng khá phổ
<b>Vấn đề 3 : Nhân vật Thị Nở</b>
Khi xây dựng nhân vật Thị Nở, nhà văn Nam Cao thẳng cánh hạ bút
những dòng này: "Người ta không ai sợ kẻ khác phạm đến cái xấu, cái nghèo,
cái ngẩn ngơ của mình, mà thị lại chỉ có ba cái ấy". Nghèo, xấu, ngẩn ngơ như
ba mặt của một lơ cốt hình tam giác chóp, nơi tác giả đã nhốt chặt nhân vật Thị
Nở của mình vào trong đó. Nhưng có thật thị chỉ có ba điều ấy khơng? Nhà văn
Nam Cao đã xử lý như thế nào trong quá trình triển khai "dự án thiết kế ban
đầu" này?
Tôi cho rằng nhân vật Thị Nở ngay từ đầu là một biểu hiện nguyên khối
của con người tự nhiên, thuộc về tự nhiên, chứ không hề sắm vai con người xã
hội. Thị xấu ma chê quỷ hờn ư? Trong biết bao nhiêu thành phẩm của tạo hóa có
phải thứ nào cũng đẹp cả đâu! Đã là giới tự nhiên thì vừa có cái hồn tồn đẹp,
có cái hồn tồn xấu, lại có cái vừa đẹp vừa xấu. Thị Nở xấu xí như thể một bộ
phận của tự nhiên xấu xí, là chuyện có thực. Hơn nữa, thị ăn ngủ, yếm áo, nghĩ
ngợi... lúc nào cũng cứ "vô tâm" như khơng vậy, thì đó chẳng phải là đặc tính
hồn nhiên bậc nhất của tự nhiên đó sao! Cho nên trước sau, toàn bộ con người
nát (như đã thấy ở phần cuối truyện). Đây là một quan hệ có tính cách khai sáng.
Nhờ đó mà cái đầu mụ mị và đầy thù địch của Chí bỗng thay đổi hẳn. Chí Phèo
bắt đầu thấy "thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao". Thị Nở
sẽ mở đường cho hắn. Khơng cịn nghi ngờ gì nữa, thị đã can dự sâu sắc
vào cuộc đời Chí, đánh thức tồn bộ tâm hồn Chí, làm cho đời sống tâm hồn của
hắn rung lên từng nếp xếp bấy nay nằm ngủ. Thị Nở đã mang quyền lực của
thiên tạo - chiếc đũa thần yêu thương gõ vào cái hộp tối đen đầy bất trắc ấy, thổi
vào đó những đốm lửa nhân văn ấm áp, và trên thực tế đã kéo được Chí ra khỏi
cõi rồ dại ấy rồi. Đi theo tiếng gọi cảm động của tình u, Chí đã bước những
bước chập chững, non nớt về với cõi người. Tội đồ bất đắc dĩ mang về nước
chúa phục thiện. Ai ngờ, ngoắt một cái, Chí lại nốc rượu, lại xách dao đi... Thế
là cả một cơng trình do thị tạo dựng bỗng chốc đổ vỡ tan tành. Tại thị cả, người
chỉ biết cho, chứ không biết giữ mà, khổ thế!
Xét tồn bộ hành trạng của Chí có hai sự kiện mang tính bước ngoặt: lần
một - đi ở tù, lần hai - tình yêu với Thị Nở. Sự kiện lần một không được miêu tả
mà chỉ nhắc đến như một dữ kiện. Tác giả chỉ chú tâm khai thác triệt để sự kiện
lần hai, và trên thực tế số trang dành cho nó chiếm hơn một phần ba truyện. Nói
như thế để thấy rằng sự có mặt của Thị Nở trong cuộc đời Chí (tuy mới chỉ vẻn
vẹn có năm ngày sau chót) thực sự có nghĩa lý và quan trọng đến ngần nào. Giả
dụ vắng bóng Thị Nở, thì nhân vật Chí Phèo chả có gì đáng nói đáng bàn lắm.
Vậy thì, với tư cách là một khối tự nhiên thô mộc, khiếm khuyết về hình
thể, Thị Nở đã bảo tồn trong mình những phẩm chất "nhân chi sơ, tính bản
Thử đặt lại vấn đề: tại sao Nam Cao cứ phải để cho Thị Nở xấu xí và ngẩn ngơ
như thế? Có thể để cho thị xấu vừa thơi, hoặc khơng xấu tí nào cũng được chứ
sao? Thậm chí thị có thể là một người hoàn toàn lành lặn cả diện mạo lẫn tâm
hồn?Thi pháp truyện truyền thống khi xây dựng nhân vật bao giờ cũng tuân theo
nguyên tắc đồng nhất giữa các mặt của một tính cách: ngoại hình và phẩm hạnh,
ngơn ngữ và tính nết, hành động và suy nghĩ... Cô Tấm đã đẹp là đẹp hết từ
trong ra ngồi. Chị Dậu của Ngơ Tất Tố cũng vậy. Quan phụ mẫu trong Bước
đường cùng (của Nguyễn Công Hoan) khi diện mạo, cử chỉ, điệu bộ, lời nói đã
xấu xa thì phẩm cách cũng khơng ra gì... Nhưng đến Nam Cao, ông tiến hành
ngược hẳn, và phong phú hơn nhiều: có thể bề ngồi xấu nhưng tâm hồn đẹp
(mụ Lợi trong Lang Rận), hoặc tâm địa xấu xa nhưng lại được che đậy bởi mã
ngồi khá đẹp (Kha trong Truyện tình, vợ của Phúc trong Điếu văn...), hoặc chỉ
nội một phương diện tâm hồn thơi cũng vừa có đẹp, vừa có xấu (Điền, Hộ, Thứ
-các nhân vật trí thức)... Ơng đã nhận thức con người với tất cả tính chất phức tạp
khơng cùng của nó, và mơ tả chúng theo ngun tắc không đồng nhất. Thị Nở
thuộc loại đầu tiên - loại nhân vật là một khối không thống nhất giữa các mặt
của một tính cách. Nam Cao đã triệt để đi theo nguyên tắc này.
tiêu biểu của một chủng loại người, mà còn cả ở những hiện tượng riêng lẻ, dị
biệt (nhiều khi oái oăm, trái khốy) của cuộc đời. Những thứ ấy khơng phải là
nhiều, nhưng rõ ràng đã có, từng có. Chúng được thể hiện ở cấp độ chi tiết, hình
ảnh, tình huống truyện... và cao hơn là cấp độ nhân vật. Kiểu thân phận Lão
Hạc, Bá Kiến, Thứ, Điền... có nhiều trong thực tại, chứ cịn Lang Rận, Mụ Lợi,
Trương Rự, thì chỉ là cá biệt, khơng tiêu biểu. Thị Nở cũng là một mảnh vụn dị
biệt và đơn nhất của dòng đời. Nam Cao là người không ngại, và nhiều khi tỏ ra
Trong lịch sử văn học Việt Nam, nhân vật Thị Nở phải nói là hiện tượng
đột xuất. Truyện cổ Việt Nam khơng có một hình ảnh đàn bà nào như Thị Nở.
Nhìn rộng ra, trong ca dao đôi khi bằng cách ngoa ngôn, dân gian cũng đã có lần
chê bai những ngừoi đàn bà thuần xấu xí: "Con gái Sơn Tây yếm thủng tày dần",
hoặc vừa xấu xí vừa đoảng tính: "Lỗ mũi mười tám gánh lơng...". Ta cịn có thể
tìm thấy thêm những câu tục ngữ ca dao khác "kể xấu" về người đàn bà nữa.
Vậy thì, một người lớn lên từ mái tre xóm rạ, sành ngơn ngữ bùn đất q kiểng
như Nam Cao không thể không biết đến những bài ca "ngoa ngoắt" kiểu ấy.
Đến đây, câu hỏi trên kia có phần sáng tỏ. Rõ ràng, Nam Cao có chủ định,
có quan niệm hẳn hoi khi xây dựng nhân vật của mình. Ơng đã nhất qn từ đầu
đến cuối để cho nhân vật Thị Nở của mình thậm xấu như vậy.
Hiểu được đúng và trả lại ý nghĩa cùng kích thước có tầm khái qt cho hình
tượng nhân vật Thị Nở, một lần nữa tác phẩm Chí Phèo sẽ sống dậy với nhiều
tầng nghĩa thú vị...
<b>Vấn đề 4 : Nhân vật Bá Kiến</b>
a) Lai lịch nhân vật.
Nhà Bá Kiến bốn đời làm tổng lí. Con trai hắn làm lí trưởng. Hắn từng
làm lí trưởng rồi làm chánh tổng. Hắn leo đến đỉnh cao của danh vọng: tiên chỉ
làng Vũ Đại, chánh hội đồng kì hào, Bắc Kì nhân dân đại biểu, phe cánh của hắn
mạnh - luôn đối địch với bọn cường hào trong làng, nơi "quần ngư tranh thực".
b) Bản chất Bá Kiến.
- Gian manh nham hiểm.
Thủ đoạn dùng người: "Trị không lợi thì cụ dùng". Sử dụng họ như cơng cụ
"khơng có những thằng đầu bị thì lấy ai để trị những thằng đầu bị?". "Mềm nắn
rắn bng" với triết lý: "Thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều
thân". Hắn là kẻ cường hào "khơn róc đời".
- Ném đá giấu tay.
Bá Kiến lấn át các phe cánh khác nhờ thu dụng được những kẻ "không sợ
chết, không sợ đi ở tù". Lọc lừa, giả dối và xảo quyệt: "Hay ngấm ngầm đẩy
người ta xuống sơng, nhưng rồi dắt nó lên để nó đền ơn. Hay đập bàn ghế, địi
cho được năm đồng nhưng được rồi thì vất trả năm hào" vì "thương anh túng
quá!"...
Bá Kiến đã từng xô đẩy bao người lương thiện vào đường cùng: Năm Thọ,
Binh Chức, Chí Phèo. Chính hắn đã đẩy Chí Phèo vào tù vì hắn "chỉ muốn tất cả
những thằng trai trẻ đều đi ở tù".
Chính hắn biến Chí Phèo thành quỷ dữ làng Vũ Đại, và khi cần hắn sẵn sàng
thí mạng Chí Phèo (sai đi đòi tiền Đội Tảo).
Chính hắn sống trên mồ hơi xương máu của người nghèo. Hắn là con quỷ
dữ rất ghê tởm!
- Dâm ô đồi bại.
Dù đã có bốn vợ nhưng Bá Kiến không bỏ lỡ ngồi chung xe lên tỉnh với vợ
Binh Chức. Tiền của anh lính gửi về chỉ đủ cho Bá Kiến chơi bời hành lạc.
c) Nghệ thuật xây dựng nhân vật.
- Bá Kiến là nhân vật điển hình.
+ Bá Kiến có nét chung của giai cấp thống trị tham lam, tàn bạo, không trừ
một thủ đoạn nào để bóc lột người nghèo.
+ Bá Kiến có nét riêng của tên ác bá gian manh, nham hiểm, thủ đoạn.
- Nghệ thuật độc đáo của Nam Cao.
Không như các nhà văn khác chỉ chú ý miêu tả ngoại hình của giai cấp thống
trị (Nghị Quế của Ngô Tất Tố, Nghị Lại của Nguyễn Cơng Hoan), Nam Cao ít
chú ý đến ngoại hình khi xây dựng Bá Kiến. Ơng khắc hoạ tâm địa là chính: "Cụ
cười nhạt nhưng giịn giã lắm"..., "cụ hay quát để thử dây thần kinh người khác".
"Tiếng cười Tào Tháo" ấy là tâm địa của kẻ độc ác xảo quyệt.Qua đó, thấy cái
nhìn sắc sảo của Nam Cao.
<b>Vấn đề 5: Ý nghĩa đoạn kết truyện:</b>
- Là hình ảnh: Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ
hoang, xa nhà cửa, và vắng
người qua lại…
- Kết thúc này thể hiện rất rõ tư tưởng chủ đề của thiên truyện và cho
thấy tài năng nghệ thuật trần thuật bậc thầy của Nam Cao.
a. Ý nghĩa nội dung:
Kết thúc này bộc lộ rõ tư tưởng chủ đề của thiên truyện: Vòng quay số phận
luẩn quẩn của người
nông dân nghèo trước Cách mạng tháng Tám.
- Hình ảnh lị gạch cũ là một hình ảnh có ý nghĩa quan trọng trong thiên
truyện. Sự xuất hiện của
hình ảnh gắn với sự xuất hiện của hình tượng Chí Phèo.
- Hình ảnh lị gạch cũ bỏ khơng từng xuất hiện ở nhan đề cũ của tác phẩm
(Cái lò gạch cũ), ở phần
đầu và phần cuối thiên truyện, gợi về không gian của làng quê Việt Nam hoang
phế, tiêu điều, tàn tạ.
rơi, "trần truồng và xám ngắt" trong cái lị gạch cũ. Tồn bộ hành trình sống, tha
hóa và thức tỉnh của Chí Phèo cũng bắt đầu từ chính cái lị gạch này. Sự kiện
gặp gỡ Thị Nở tưởng đã vãn hồi được nhân tính ẩn
sâu trong Chí Phèo, cho y cơ hội trở lại làm người nhưng rồi chính định kiến
tăm tối của làng Vũ Đại đã khiến Chí buộc phải lựa chọn cái chết khi y không
muốn chấp nhận kiếp sống thú vật.
- Chi tiết lò gạch xuất hiện trong tâm trí Thị Nở ở cuối tác phẩm như một
sự dự báo sự diễn tiến về sau của "hiện tượng Chí Phèo". Chí Phèo chết nhưng
hiện tượng Chí Phèo vẫn cịn tiếp tục, lị gạch vẫn cịn đó và rất có thể sẽ cịn có
những Chí Phèo khác tiếp tục được hồi thai.Từ đó Nam Cao bộc lộ thái độ
đau xót trước một qui luật của số phận người nông dân trong xã hội cũ
và định hướng một con đường giải quyết hiện tượng Chí Phèo – quét sạch
những "lò gạch cũ", những tàn
dư của xã hội thực dân phong kiến.
b. Ý nghĩa nghệ thuật
Hình ảnh kết thúc này cũng thể hiện tài năng của Nam Cao trong trần
thuật. Sự xuất hiện của hình ảnh tất yếu, phù hợp với sự vận động logic của
diễn biến thiên truyện.
<b>Vấn đề 6 : Gía trị hiện thực và giá trị nhân đạo của “Chí Phèo”</b>
1-Giá trị hiện thực:
- Phản ánh những mâu thuẫn xung đột trong xã hội nông thôn trước CMT8 (bao
gồm xung đột giữa các thế lực thống trị và xung đột gay gắt, quyết liệt và khơng
thể điều hịa giữa giai cấp thống trị với người lao động, tiêu biểu là xung đột Bá
Kiến và Chí Phèo
+ Bá Kiến: Tiêu biểu với bản chất tàn bạo và quỉ quyệt. BK lọc lõi, thủ đoạn:
túm thằng có tóc, khơng túm thằng trọc đầu; dùng thằng đầu bò trị thằng đầu
bò;, dìm người ta xuống để rồi lại cứu người lên. Từ tội nhân BK biến mình
thành ân nhân. Và hắn biến CP từ nạn nhân thành tội nhân.
+ Chí Phèo: Điển hình cho người nơng dân lương thiện biến thành quỷ dữ, khi
thức tỉnh lương tâm, CP lại chết một cách bi thảm, thảm khốc ngay trên ngưỡng
cửa trở về làm người lương thiện.
- Phản ánh một hiện thực mang tính quy luật trong xã hội cũ, phản ánh và lí giải
quy luật: chừng nào cịn XH vơ nhân đạo thì chừng ấy vẫn cịn hiện tượng CP.
Thể hiện rõ nhất ở số phận người nơng dân có số phận bi thảm và cái chết thảm
khốc, nhất là được thể hiện rõ trong chi tiết cuối tác phẩm. BK chết, Lí Cường
lên thay, và một CP “con” lại nối nghiệp tiếp tục, XH VN vẫn không thay đổi,
2- Giá trị nhân đạo:
- Khẳng định, đề cao bản chất tốt đẹp của người lao động. Đó là bản chất lương
thiện; là sức mạnh của sự thức tỉnh lương tâm:
+ Khẳng định bản chất lương thiện của người lao động, tiêu biểu là nhân vật CP
và TN. Từ một người nông dân lương thiện, CP bị BK nhuộm đen nhân tính,
tưởng chừng như CP bị mất nhân tính. Nhưng bản chất lương thiện của CP vẫn
luôn ẩn khuất đâu đây, chỉ chờ dịp là nó sống lại. Sự săn sóc và tình u của TN
đã làm trỗi dậy bản chất lương thiện, nhân tính của CP, ban đầu là nước mắt
(qua tiếng khóc) của CP; Ở nhân vật Thị Nở, tác giả miêu tả thị như một sản
phẩm vô giá trị nhưng lại tồn tại cái vơ giá đó là tình người. Bản chất lương
thiện và tình người của TN đã làm bừng sáng bản chất lương thiện của người lao
động
+ Đề cao sự thức tỉnh lương tâm chủ yếu được thể hiện qua nhân vật CP. Cái
chết của CP là sự chiến thắng của lương tâm, của nhân tính con người. Sau khi
thức tỉnh, CP gắng gượng trở về cuộc đời LT. CP đã có một sự lựa chọn: hoặc
trở về cuộc sống quỷ dữ, hủy hoại lương tâm, hoặc phải chết. CP đã chọn cái
chết để giữ lương tâm trong sáng. Cái chết của CP là cái chết của một Con
người, là sự chiến thắng của lương tâm.
- Lên án, tố cáo tội ác xã hội đương thời, tiêu biểu là nhân vật BK. TP là bản cáo
trạng đanh thép, tố cáo XH đã tiêu diệt đến tận cùng khát khao lương thiện và
quyền sống của người lao động; XH đã cướp đi nhân hình lẫn nhân tính của CP.
Trước khi vào tù CP là một thanh niên khỏe mạnh, sau khi ở tù ra, CP buộc phải
bán linh hồn cho quỷ dữ để sống. Sau khi gặp TN, CP thức tỉnh lương tâm, linh
hồn trở về thì ngay lập tức bị XH thủ tiêu sự sống.
- Qua TP, Nam Cao cịn hướng tới những giải pháp XH mang tính nhân đạo,
mang tính triết lí. Thơng điệp của nhà văn là hãy ngăn chặn tình trạng XH làm
tha hóa con người. Nghĩa là phải thay đổi hồn cảnh XH. Với chi tiết CP ở tù ra,
3 lần CP đến nhà BK, 2 lần đầu CP đến đòi tiền và CP tồn tại. Nhưng lần 3 CP
đến đòi lương thiện, địi cái mà XH, mà BK khơng có, kết cục CP nhận ra điều
này (ai cho tao lương thiện) vì thế mà CP phải chết ngay trên ngưỡng cửa cuộc
đời lương thiện.
<b>PHÂN TÍCH TẤN BI KỊCH BỊ CỰ TUYỆT QUYỀN LÀM </b>
<b>NGƯỜI CỦA NHÂN VẬT CHÍ PHÈO TRONG TÁC PHẨM CHÍ PHÈO </b>
<b> NAM CAO.</b>
<b>1. MỞ BÀI</b>
Nam Cao là đại biểu ưu tú của dịng văn học hiện thực phê phán. Ơng là
cha đẻ của những tác phẩm tên tuổi : “Chí Phèo”, “Lão Hạc”, “Đời
thừa”… trong đó Chí Phèo là kiệt tác của Nam Cao và cũng là kiệt tác của
văn học hiện thực phê phán. Thơng qua hình tượng nhân vật Chí Phèo và
con đường tha hóa của người nơng dân trước Cách mạng, Nam Cao đã
khắc họa thành công tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật
Chí Phèo mang đến cho bạn đọc bao niềm xúc động sâu sắc.
a. Bi kịch là gì ? Bi kịch là sự mâu thuẫn giữa hiện thực đời sống và khát
vọng cá nhân. Hiện thực đời sống không đủ điều kiện để cá nhân thực
hiện được khát vọng của mình dẫn đến cá nhân rơi vào hồn cảnh bi đát
(có thể dẫn đến cái chết). Trong văn học Việt Nam ta đã từng bắt gặp bi
kịch tình yêu của Thúy Kiều, bi kịch nghệ thuật của nhà văn Hộ, bi kịch
b. Bi kịch ấy ngay từ đầu tác phẩm đã hiện lên qua tiếng chửi của Chí
Phèo. Chí Phèo xuất hiện lần đầu tiên trước mắt người đọc không phải
bằng xương bằng thịt mà là bằng tiếng chửi "hắn vừa đi vừa chửi". Đó là
hình ảnh vừa quen vừa lạ. Quen vì đó là tiếng chửi của những thằng say
rượu. Lạ vì hắn chửi mà khơng có ai chửi nhau với hắn, khơng ai lấy làm
điều. Chí "chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào
không chửi nhau với hắn, chửi đứa chết mẹ nào đã đẻ ra thân hắn". Đó là
một tiếng chửi vật vã, đau đớn của một thân phận con người ít nhiều nhận
thức được bi kịch của chính mình. Chửi cũng là một cách để giao tiếp
nhưng đớn đau thay đáp lại tiếng chửi của Chí Phèo là một sự im lặng đến
rợn người. Cay đắng hơn nữa, đáp lại tiếng chửi của Chí Phèo lại là “tiếng
chó cắn lao xao”. Chí đã bị đánh bật ra khỏi cái xã hội lồi người. Xã hội
mà dù sống trong nó Chí cũng khơng cịn được xem là con người nữa.
Qua tiếng chửi ấy, ta nhận ra bốn thái độ: Thái độ của người chửi: hằn
học, hận thù; thái độ người nghe: dửng dưng, khinh miệt; thái độ nhà văn:
xót xa, thương cảm; thái độ người đọc: tị mị… Vậy Chí Phèo là ai?
c. Bi kịch của một đứa con hoang bị bỏ rơi. Lật lại trang đời của Chí,
người đọc khơng sao cầm được nước mắt trước một hồn cảnh đáng
thương. Ngay từ khi mới ra đời Chí đã bị bỏ rơi bên cạnh chiếc lò gạch cũ
giữa một cánh đồng mùa đơng sương trắng. Rồi Chí được dân làng nhặt
về nuôi nấng. Tuổi thơ của anh sống trong bất hạnh, tủi cực "hết lang
thang đi ở cho nhà người này lại đi ở cho nhà người khác, năm hai tuổi thì
làm canh điền cho nhà Bá Kiến". Đây là quãng thời gian đẹp nhất trong
cuộc đời của Chí, bởi đó là quãng đời lương thiện, quãng đời tuổi trẻ
nhiều mộng đẹp. Chí giàu lịng tự trọng, biết ghét những gì mà người ta
cho là đáng khinh. Bị con mụ chủ bắt làm điều khơng chính đáng, Chí vừa
làm vừa run, thấy nhục hơn là thích. Chí cũng như bao con người khác,
hiền lành như đất nữa. Trước mắt người đọc là một tên lưu manh với một
nhân hình gớm ghiếc "cái đầu thì trọc lóc, cái mặt thì đen mà lại rất cơng
cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết... cái ngực phanh, đầy những
nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay
cũng thế". Cả cái nhân tính cũng bị xã hội tàn hại. Giờ đây là Chí Phèo
say, Chí Phèo với những tội ác trời không dung thứ khi hắn bỗng dưng trở
thành tay sai đắc lực cho lão cáo già Bá Kiến, quay ngược lại lợi ích của
dân làng Vũ Đại, đối lập với nhân dân lao động cần lao. Từ một người
nông dân hiền lành lương thiện Chí trở thành thằng lưu manh "con quỷ dữ
của làng Vũ Đại". Đáng buồn thay, mới ngày nào chính dân làng Vũ Đại
ni Chí lớn lên trong vịng tay u thương vậy mà nay Chí đã quay lưng
lại với chính cái nơi mà hắn được yêu thương và chở che. Từ đây Chí
sống bằng rượu và máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương
thiện: "Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước
mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện". Hắn làm những việc ấy
trong lúc say " ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say...
đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc say để rồi say nữa say vô tận".
Chưa bao giờ hắn tỉnh để thấy mình tồn tại trên đời bởi vì "những cơn say
của hắn tràn từ cơn này sang cơn khác thành những cơn dài mênh mang".
Nam Cao đã cho người đọc thấy một thực tế đau lòng về cuộc sống của
nhân dân ta trước cách mạng tháng Tám. Đó chính là cuộc sống bị bóp
Lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh dậy. Chợt nhận ra nơi căn lều ẩm
thấp là ánh nắng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe được tiếng chim hót
ngồi kia vui vẻ q, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông,
tiếng lao xao của người đi chợ bán vải về... Những âm thanh ấy ngày nào
chả có. Nhưng hơm nay Chí mới nghe thấy. Chao ôi là buồn! Âm thanh
cuộc sống này khiến ta liên tưởng đến tiếng sáo của đêm tình mùa xuân
trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ. Tiếng sáo đã lay động tiềm thức xa xôi
của Mị, đánh thức tâm hồn Mị, thức dậy cả một q khứ đẹp tươi. Đó
chính là những chi tiết nghệ thuật đặc sắc làm nên chất thơ cho tác phẩm.
Chính cuộc sống đã lay động trong tiềm thức xa xơi của Chí. Nó như cơn
gió thổi tung đám tro tàn nguội lạnh, như từng giọt nước nhỏ vào tâm hồn
sỏi đá, cằn khô làm tan đi giá băng tâm hồn. Hơn hết, nó làm sống dậy
ước mơ một thời trai trẻ :"có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc muốn cày
thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả
thì mua dăm ba sào ruộng làm". Rồi cũng trong cái phút giây tỉnh táo ấy,
Chí Phèo đã cơ đơn hơn bao giờ hết “Nhìn phía trước người thân chẳng
có/ Ngó sau lưng quá khứ rợn ghê người”. Hắn như đã thấy "tuổi già của
hắn, đói rét, ốm đau và cơ độc - cái này cịn sợ hơn đói rét và ốm đau".
Phải chăng Chí đang hối hận và ăn năn những việc mà mình đã làm?
Chẳng biết có phải hay khơng mà Chí thấy lịng buồn man mác. Và nếu
như Thị Nở không qua, chắc là hắn đã khóc được mất.
của phần người... Nhìn Thị hắn như muốn khóc, hắn cảm động và ngay
trong chốc lát "Hắn cảm thấy lòng thành trẻ con, hắn muốn làm nũng với
f. Đỉnh điểm của bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Nhưng, bi kịch và
đau đớn thay, rốt cuộc thì ngay Thị Nở cũng khơng thể gắn bó với Chí
Phèo. Lời nói của bà cô Thị Nở như một gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt
Chí Phèo làm tắt ngúm ngọn lửa lịng vừa được nhen lên trong Chí. “Ai
lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha không mẹ như cái thằng Chí
Phèo” đã trở thành định kiến khắc nghiệt lấp mất lối về của Chí. Cánh cửa
cuộc đời vừa hé mở thì cũng ngay lập tức đóng sầm lại trước mắt của anh.
Đó chính là bi kịch của một con người chết trên ngưỡng cửa trở về với
cuộc sống lương thiện. Chút hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không đến
được với Chí Phèo. Và thật là khắc nghiệt, khi bản tính người nơi Chí
Phèo trỗi dậy, cũng là lúc Chí Phèo hiểu rằng mình khơng cịn trở về với
lương thiện được nữa. Cánh cửa trở về với xã hội lương thiện, xã hội lồi
người vừa mở ra thì cũng là lúc đóng sầm lại ngay trước mắt Chí Phèo.
phải mang lốt quỷ, kẻ đã làm mình ra nỗng nỗi khốn cùng này chính là Bá
Kiến. Anh càng thấm thía tội ác kẻ đã cướp đi quyền làm người, cướp đi
cả bộ mặt và linh hồn của mình. Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với tư cách là
một nơ lệ thức tỉnh, địi quyền làm người:
- Tao muốn làm người lương thiện ?
- Ai cho tao lương thiện ?
Đó là những câu hỏi vút lên đầy cay đắng và không lời giải đáp. Câu hỏi
chất chứa nỗi đau của một con người thấm thía được nỗi đau khôn cùng
của bi kịch cá nhân. Câu hỏi đánh thẳng vào bộ mặt của xã hội bất lương.
Câu hỏi như cứa vào tâm can người đọc về một thân phận con người đầy
đắng cay trong xã hội cũ. Lương thiện có ngay trong mỗi con người là di
sản tinh thần của mỗi người. Tại sao phải đi đòi lương thiện ? À, thì ra
Chí đã bị cái xã hội vơ nhân tính ấy cướp mất. Khốn nạn thay cho Chí,
ngay cả cái quyền được làm một con người cũng bị xã hội người ăn thịt
người ấy bóp nát. Và Chí Phèo cũng đã tự kết liễu cuộc đời mình sau khi
kết liễu tên cáo già Bá Kiến. Cái chết bi thảm của Chí Phèo là lời kết tội
đanh thép cái xã hội vô nhân đạo, là tiếng kêu cứu về quyền làm người,
cũng là tiếng gọi thảm thiết cấp bách của nhà văn: Hãy cứu lấy con người!
Hãy yêu thương con người!
Tác phẩm Chí Phèo thơng qua tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của
nhân vật chính, nhà văn đã mang đến những giá trị nhân văn cao đẹp. Tác
<b>3. KẾT BÀI</b>
Chí Phèo là một kiệt tác bất hủ bởi nó chứa đựng trong đó là tư tưởng,
tình cảm lớn mang giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc mà người đọc rút
ra được từ những trang sách giàu tính nghệ thuật của Nam Cao. Tác phẩm
Chí Phèo mãi mãi bất tử, mãi mãi có khả năng đánh thức trí tuệ và khơi
dậy những tình cảm đẹp đẽ trong tâm hồn người đọc mọi thời đại. Có một
nhà thơ đã từng viết rằng: "Nam Cao mất và Chí Phèo vẫn sống - Nào có
dài chi một kiếp người - Nhà văn chết, nhân vật từ trang sách - Vẫn ngày
ngày lăn lóc giữa trần ai". Vâng! Gần một thế kỉ qua, giá trị nghệ thuật và
ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm, vượt qua gió bụi thời gian, đã chứng minh
sức sống mạnh mẽ, bất hủ của nó.
<b>NHÂN VẬT BÀ CÔ THỊ NỞ TRONG TRUYỆN NGẮN “CHÍ</b>
<b> PHÈO” CỦA NAM CAO</b>
(Ngữ văn 8 và Ngữ văn 11, tập 1) cùng với nhiều truyện ngắn khác, từng đem
đến cho Nam Cao vinh dự là tác gia có số lượng truyện ngắn trong nhà trường
phổ thơng nhiều nhất.
Lâu nay, nhắc đến hình tượng nhân vật điển hình của truyện ngắn Chí
Phèo, người ta nghĩ ngay đến nhân vật chính mà tác giả lấy làm nhan đề tác
phẩm mình (“lúc đầu được Nam Cao đặt tên là Cái lò gạch cũ. Khi in thành sách
lần đầu (1941), Nhà xuất bản Đời mới đổi tên là Đôi lứa xứng đôi. Đến khi in lại
Quả thật, nhân vật bà cô Thị Nở chỉ là một nhân vật phụ. Trong truyện,
Nam
Cao miêu tả nhân vật bà cô ấy không nhiều, chỉ phát thảo sơ lược vài nét. Về lai
lịch, tác giả chỉ kể ngắn gọn : “…, trừ một người cô đã có thể gọi được là già, và
đã khơng chồng như thị… Người cô làm thuê cho một người đàn bà bn chuối
và trầu khơng xếp tàu đi Hải Phịng, có khi đi tận Hịn Gia, Cẩm Phả”. Ngay cả
cái tên nhân vật này cũng khơng có, chỉ được gọi theo quan hệ họ hàng với nhân
vật chính. Ở gần cuối truyện, khi Thị Nở sau năm ngày ăn ở với Chí, đến ngày
thứ sáu, sực nhớ mình cịn người cô và “nghĩ bụng : hãy dừng yêu để hỏi cơ thị
đã” thì nhân vật bà cơ này mới hiện lên qua một ít suy nghĩ và hai lời thoại. Tất
cả chỉ có vậy. Cho nên rất khó để dựng chân dung nhân vật này.
dữ dội. Có người bảo phải chi Nam Cao đừng xây dựng nhân vật này, hay ít nhất
đừng để bà cơ Thị Nở khơng xuất hiện ở cuối truyện thì câu chuyện sẽ kết thúc
có hậu hơn biết mấy. Có thể là như vậy. Nhưng theo chúng tôi, nếu cắt đi chi tiết
này thì Nam Cao khơng cịn là chính ơng nữa. Giá trị của Chí Phèo cũng vì thế
giảm sút rất nhiều. Bởi cái chết của Chí với nhiều nguyên nhân, trong đó trực
tiếp nhất là sự khước từ một cách thơ bạo của bà cô Thị Nở, mang nhiều ý
nghĩa.
Riêng ở nhân vật người cô này cũng mang nhiều giá trị điển hình.
Trước hết nhân vật này rất tiêu biểu cho câu thành ngữ của dân gian “giặc bên
ngô không bằng bà cơ khơng chồng” (Cịn có dị bản “giặc bên ngô không bằng
bà cô bên chồng”). Bà cô Thị Nở đã ngoài năm mươi, hơn nửa cuộc đời mà vẫn
khơng tìm được một tấm chồng. Trong mắt của người đàn bà khốn khổ ấy,
chuyện chồng con của “con cháu gái ba mươi tuổi mà chưa trót đời” “sao mà đĩ
thế ! Thật đốn mạt… Nhục nhã ơi là nhục nhã”. Thái độ giãy nảy lên, những lời
cay độc, “xỉa xói vào mặt con cháu gái” đã có hiệu quả ngay lập tức. Bởi bà cô
này tự ái, uất ức bao nhiêu thì cháu bà càng tự ái, uất ức bấy nhiêu. Thậm chí cả
khi Chí chết đi rồi, bà vẫn khơng tha cho cháu mình mà cịn “chỉ vào mặt cháu
mà đay nghiến”. Rõ ràng, thái độ, lời nói của nhân vật rất tiêu biểu cho những
nét tính cách của những người phụ nữ lớn tuổi lận đận trong chuyện tình dun.
Xét cho cùng, nó mang nỗi ẩn ức tính nữ cả về tâm lí lẫn sinh lí mà biểu hiện rõ
nhất là thái độ “không ăn được thì đạp đổ”, “trâu buộc ghét trâu ăn”. Bà cơ
khơng chồng trong truyện, xét ở phương diện nào đó, có thể xem là một điển
hình. Tuy vậy, ở nhân vật này cũng có những điểm làm cho người đọc xót xa,
tội nghiệp, thấy đáng thương hơn là đáng ghét. Ngòi bút nhân đạo Nam Cao
khơng dừng lại ở lời nói, hành động nhân vật mà còn đi sâu mổ xẻ tâm trạng khi
nhân vật rơi vào hoàn cảnh trớ trêu trên. Nhà văn viết : “Cũng có lẽ tủi cho thân
bà. Bà nghĩ đến cái đời dằng dặc của bà, khơng có chồng. Bà thấy chua xót
lắm…”. Chỉ từng ấy thôi, ta cũng hiểu hết được nỗi đau thân phận phụ nữ không
Đặc biệt, nhân vật bà cô Thị Nở rất điển hình cho người nơng dân ở “làng
Vũ
Đại ngày ấy” nói riêng và làng q nơng thơn Bắc Bộ trước Cách mạng 1945
nói
Chí ra khỏi quan hệ của mình, “mặc thây cha nó”, coi như Chí khơng hề tồn tại
trong cộng đồng “người” ấy. Cái định kiến hẹp hòi về nguồn gốc, gia cảnh, về
những qng đời u ám của Chí này có một sức mạnh ghê gớm, như bức tường
vơ hình cao ngất mà Chí khi được tình u Thị Nở tái sinh trở nên “thèm lương
thiện”, “muốn làm hòa với mọi người biết bao”, tìm mọi cách vượt qua nhưng
mãi khơng phá bỏ được. Ngay cả khi Chí chết đi một cách thảm khốc, người
làng chẳng một ai tỏ ra xót xa cho Chí, dẫu một giọt nước mắt thương hại. Làng
Vũ Đại là một điển hình cho làng q nơng thơn miền Bắc trước 1945. Trong
cái làng quê nghèo nàn, tù túng và đầy những định kiến hẹp hòi, lạc hậu ấy,
nhân vật bà cô Thị Nở được Nam Cao xây dựng thành cơng mang giá trị điển
hình rõ nét. Những suy nghĩ của bà cô khi đứa cháu thưa chuyện “vợ chồng” với
Chí (“Đàn ơng chết hết cả rồi sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha.
Ai lại đi lấy một thằng chỉ có một nghề là đi rạch mặt ra ăn vạ”) cũng như câu
nói đay nghiến của bà cuối truyện với Thị Nở trước cái chết khơng ai ngờ được
của Chí (“Phúc đời nhà mày, con nhé. Chả ơm lấy ơng Chí Phèo”) đã nói lên tất
cả. Bà cô không được mô tả nhiều nhưng qua những suy nghĩ, thái độ, ngôn ngữ
của nhân vật này, hiện thực làng quê nông thôn Bắc Bộ trước 1945 còn mang
nhiều định kiến nặng nề, lạc hậu đã được phản ánh, khái qt rất thành cơng.
Tóm lại, khơng được miêu tả cụ thể, đầy đủ nhưng nhân vật bà cô Thị Nở là một
sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nam Cao. Bên cạnh Chí Phèo, Thị Nở, Bá
Kiến, nhân vật này cũng mang trong mình nhiều ý nghĩa điển hình như trên đã
<b> Phân tích nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao </b>
<b>để làm nổi bật bi kịch cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo. </b>
không miêu tả thật chi tiết q trình Chí Phèo bị đối xử ra sao trong suốt chặng
đường dài ấy, nhà văn chỉ tập trung miêu tả cái kết cục, cái hậu quả thảm khốc
của nó. Qua một kết cấu khơng theo trình tự thời gian - chủ yếu theo mạch dẫn
dắt tâm lý của người kể chuyện - người đọc hiểu ra: trước kia Chí vốn là người
lương thiện. Chỉ sau khi ở tù về, hắn mới hoá thành một người khác hẳn, bị tước
mất cả nhân tính lẫn nhân hình với “cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn,
cái mặt thì đen và rất cong cong, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Với vẻ
dường như lạnh lùng, nhà văn viết: “Bây giờ thì hắn đã trở thành người khơng
tuổi rồi. Ba mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hay là ngồi bốn mươi? Cái
mặt hắn khơng trẻ cũng khơng già; nó khơng cịn phải là mặt người; nó là mặt
một con vật lạ, nhìn mặt những con vật có bao giờ biết tuổi?”. Sau khi ở tù về,
hắn đã trở thành con quỉ dữ của làng Vũ Đại mà khơng tự biết. Cuộc đời hắn
khơng có ngày tháng bởi những cơn say triền miên. “Hắn ăn trong lúc say, ngủ
trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu rạch mặt, chửi bới doạ nạt trong lúc
say, uống rượu