Tải bản đầy đủ (.docx) (190 trang)

Những đêm trắng – chuyển thể từ văn học sang điện ảnh dưới góc nhìn liên văn hóa.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.99 MB, 190 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

LƯU NGỌC LY

NHỮNG ĐÊM TRẮNG – CHUYỂN THỂ TỪ VĂN HỌC SANG ĐIỆN
ẢNH DƯỚI GĨC NHÌN LIÊN VĂN HÓA

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Hà Nội - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-

LƯU NGỌC LY

NHỮNG ĐÊM TRẮNG – CHUYỂN THỂ TỪ VĂN HỌC SANG ĐIỆN
ẢNH DƯỚI GĨC NHÌN LIÊN VĂN HÓA

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học nước ngoài
Mã số: 60 22 02 45

Người hướng dẫn khoa học:
TS. Nguyễn Phương Liên

Hà Nội - 2019



LỜI CẢM ƠN
Qua luận văn này tôi xin được bày tỏ lịng cảm ơn tới các thầy cơ giáo
khoa Văn học – Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn– Đại học
Quốc gia Hà Nội đã tận tình giảng dạy, chỉ bảo, giúp đỡ tôi trong suốt những
năm học vừa qua, giúp tôi trưởng thành hơn trong chuyên mơn cũng như cuộc
sống.
Tơi xin tỏ lịng cảm ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Phương Liên, người
đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và đóng góp những ý kiến quý báu cho tơi
trong suốt q trình thực hiện luận văn này.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn tới các thành viên khóa K61 khoa Văn
học của trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia
Hà Nội đã giúp đỡ, động viên và chia sẻ khó khăn cùng tơi trong q trình học
tập tại trường.
Xin chân thành cảm ơn!


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi.
Trong luận văn có tham khảo một số kết quả nghiên cứu của các nhà khoa
học, các bạn học viên, các khoá luận tốt nghiệp, luận văn của các khố trước.
Cơng trình này chưa được tác giả nào công bố.
Hà Nội, tháng 6 năm 2019
Học viên

LƯU NGỌC LY


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................3

1.Lý do chọn đề tài.......................................................................................... 3
2.Lịch sử vấn đề............................................................................................... 4
2.1.........................................................................................Tư liệu tiếng Việt
4
2.2.Tư liệu tiếng nước ngoài......................................................................... 5
2.3.Những vấn đề tồn tại............................................................................... 6
3.Đối tượng, mục đích, phạm vi nghiên cứu..................................................7
4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................ 8
5.Cấu trúc luận văn......................................................................................... 8
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ LÝ THUYẾT CHUYỂN THỂ....................10
1.1.Khái niệm chuyển thể........................................................................... 10
1.1.1.....................................................................Chuyển thể như là tái hiện
10
1.1.2....................................................................Chuyển thể như là kiếp sau
17
1.2.Tác phẩm Những đêm trắng.................................................................23
1.2.1..........................................Các phiên bản chuyển thể Những đêm trắng
23
1.2.2.............................................................................Tiềm năng chuyển thể
25
1.2.2.1...........................................................................Tiềm năng từ đề tài
25
1.2.2.2........................................................................Tiềm năng từ thể loại
29
1.2.2.3...............................................................................Từ nhà làm phim
36
1


1.3.Chuyển thể dưới góc nhìn liên văn hóa...............................................39

1.3.1............................................................................Giao tiếp liên văn hóa
39
1.3.2....................................................Chuyển thể với giao tiếp liên văn hóa
40
Chương 2: TÍNH LIÊN VĂN HĨA Ở CẤP ĐỘ HÌNH TƯỢNG..............44
2.1.Nhân vật.................................................................................................44
2.1.1.......................................................................Ước mơ của kẻ mộng mơ
44
2.1.2.................................................Chờ đợi – phần thưởng hay sự đọa đày
51

2


2.2.Thời gian................................................................................................54
2.2.1...............Vịng trịn thời gian khép kín trong Bốn đêm của kẻ mộng mơ
54
2.2.2.................................Vòng tròn thời gian tịnh tiến trong Người u dấu
58
2.3.Khơng gian.............................................................................................62
2.3.1..........................Khơng gian tồn vẹn trong Bốn đêm của kẻ mộng mơ
63
2.3.2....................................Huyền áo hóa khơng gian trong Người u dấu
72
Chương 3: TÍNH LIÊN VĂN HĨA Ở CẤP ĐỘ THỂ LOẠI.......................... 76
3.1.Phong cách đạo diễn............................................................................. 76
3.1.1.............................................Robert Bresson và Làn sóng mới tại Pháp
76
3.1.2..........................................Bhansali với thể loại phim nhạc kịch Ấn Độ
78

3.2.Kỹ thuật làm phim................................................................................ 79
3.2.1............................................................................................Khung cảnh
80
3.2.2..............................................................................Ánh sáng và màu sắc
85
KẾT LUẬN..........................................................................................................91
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU....................................................................... 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................... 95


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chuyển thể từ văn học đến điện ảnh cũng lâu đời như chính lịch sử điện
ảnh. Ngay từ buổi bình minh của điện ảnh, ngành nghệ thuật này đã gắn
chặt số mệnh của nó với văn học. Tuy nhiên hoạt động chuyển thể thường
được coi là việc tạo ra bản sao mô phỏng, tái hiện văn học dưới dạng hình
ảnh. Hiểu chuyển thể như là tái hiện là quan niệm mà luận văn sẽ áp dụng để
khởi đầu nghiên cứu chuyển thể, song, qua đó, gợi mở ra những khả năng khác
của chuyển thể.
Tác phẩm Những đêm trắng (White nights) của F.M. Dostoesky là một tác
phẩm văn học đã được chuyển thể tới hơn 19 lần. Điều đặc biệt là những phiên
bản chuyển thể của nó ln ln có sự biến đổi về mặt không - thời gian so
với nguồn văn học, từ thế kỉ XIX của nước Nga đến thế kỉ XX, thậm chí là
XXI của các nước khác trên thế giới. Một tác phẩm có lịch sử chuyển thể đầy
ấn tượng và đặc biệt như Những đêm trắng sẽ cho phép luận văn áp dụng
những khả năng của chuyển thể một cách triệt để.
Dựa trên lý thuyết về chuyển thể, luận văn đặt chuyển thể trong mối
quan hệ với liên văn hóa để thấy được mối quan hệ hai chiều giữa chúng,
đồng thời, tạo lập tiền đề lý thuyết cho phép thăm dị các đặc điểm văn hóa
ẩn sau hai phiên bản chuyển thể mà luận văn sẽ tập trung phân tích là Bốn

đêm của kẻ mộng mơ (Phiên bản chuyển thể Những đêm trắng của đạo diễn
người Pháp Robert Bresson) và Người yêu dấu (Phiên bản chuyển thể của
đạo diễn người Ấn Độ Sanjay Leela Bhansali). Vì thế, chúng tơi đặt tên cho
luận văn: Những đêm trắng – chuyển thể từ văn học sang điện ảnh dưới
góc nhìn liên văn hóa.


2. Lịch sử vấn đề
2.1.Tư liệu tiếng Việt
Ở Việt Nam, điện ảnh có từ những năm 1890. Tuy nhiên, dấu mốc thực
sự cho sự ra đời của nền điện ảnh Việt Nam vào năm 1923, khi xuất hiện
bộ phim truyện đầu tiên: Kim Vân Kiều - do Công ty Chiếu bóng Đơng
Dương thực hiện (dựa trên tác phẩm bất hủ Truyện Kiều của đại thi hào
Nguyễn Du). Từ đó trở đi, những bộ phim chuyển thể đã trở thành kí ức
vàng son một thời trong tâm trí của khán giả: Lục Vân Tiên (1957, dựa
theo truyện Nôm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu), Vợ chồng A Phủ
(1961, chuyển thể từ truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tơ Hồi), Chị
Tư Hậu (1963, chuyển thể từ tác phẩm Một chuyện chép ở bệnh viện của nhà
văn Bùi Đức Ái), Nổi gió (1966, dựa trên vở kịch cùng tên của Đào Hồng
Cẩm), Loan mắt nhung (1970, dựa theo truyện Loan mắt nhung của Nguyễn
Thuỵ Long), Trống mái và Gánh hàng hoa (1971, dựa theo tiểu thuyết của
nhóm Tự lực văn đoàn)… Thế nhưng, vấn đề nghiên cứu chuyển thể còn khá
rời rạc. Nghiên cứu chuyển thể gần như chỉ xuất hiện dưới hình thức những
bài báo đăng trên tạp với dung lượng ít ỏi: "Về cái gọi là tính văn học trong
điện ảnh" (Tạp chí Nghiên cứu Nghệ thuật, số 06-1984, Lê Châu); "Từ văn
học đến điện ảnh" (Tạp

chí Văn hóa Nghệ thuật, số 2-2001, Hương

Nguyên); "Mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh" (Tạp chí Văn hóa Nghệ

thuật, số 10-2002, Minh Trí)…Các bài báo đều mới chỉ nhấn mạnh đến vai
trò của văn bản nguồn (các tác phẩm văn học) đối với văn bản đích (phim
chuyển thể) mà chưa chỉ được ra những khả năng chuyển thể cụ thể. Có thể
thấy, ở Việt Nam, chuyển thể đã được tiếp cận ở những cấp độ: nghiên cứu
chuyển thể là hình thức của liên văn bản; nghiên cứu chuyển thể như là
một hình thức so sánh liên ngành (đối chiếu giữa một bên là truyện và phim
và chỉ ra sự khác biệt giữa hai loại hình). Vấn đề nghiên cứu chuyển thể ở Việt


Nam chưa mang lại ý thức sâu sắc giữa tác phẩm và bộ phim. Điều này có
thể do xuất phát thực tế điện ảnh chuyển thể còn tương đối nghèo nàn, do
đó, chưa thấy tính chất phức tạp của chuyển thể. Chỉ đến cơng trình của
Nguyễn Nam [8], ơng mới có những bước nhìn nhận vấn đề chuyển thể rộng
hơn khơng chỉ ở khía cạnh phong cách sáng tạo của


tác giả mà còn là sự trượt nghĩa gốc của bản chuyển thể, đặt văn bản
chuyển thể trong vùng văn hóa có nhiều yếu tố tiếp nhận phức tạp hơn.
Các cơng trình đó là: Từ Chùa Đàn đến Mê Thảo: Liên văn bản trong văn
chương và điện ảnh (2000) và Sự thực tuyệt đối trong tự sự tiếp nhận: tiếp
nhận và cải biên Rashomon ở Việt Nam (2011). “Trong khi ở tiểu luận đầu
tiên Từ Chùa Đàn đến Mê Thảo, Nguyễn Nam mặc dù có nhắc đến “quan
hệ giữa tác phẩm văn học và tác phẩm điện ảnh”, tuy nhiên ông tập trung
nhiều hơn vào việc chỉ ra những khác biệt trong sự xử lý những đơn vị hình
thức giữa hai tác phẩm để khám phá những lớp nghĩa chìm, bởi vậy cải
biên/chuyển thể vẫn chỉ được hiểu là sự biến đổi; thì ở tiểu luận về tiếp nhận
và cải biên Rashomon, Nguyễn Nam đã tiến một bước dài khi ứng dụng khái
niệm cải biên vào phân tích đời sống của bộ phim Rashomon ở Việt Nam”
[1, tr.3]. Tiếp đó, một vài học giả đã bắt đầu nhắc đến khái niệm liên văn
hóa trong văn học, văn hóa hay trong lĩnh vực sử học như trong bài viết của

Thái Phan Vàng Anh trong Tồn cầu hóa và xu hướng đa văn hóa, liên văn
hóa trong văn học (Nhìn từ văn xi Việt Nam đầu thế kỉ XXI): “Thay vào
đó, đa văn hóa, liên văn hóa sẽ làm nên diện mạo mới của văn hóa tồn cầu,
nơi mà cả cái phổ quát lẫn cái riêng/khác đều có thể cùng tồn tại” [2]. Tác giả
đã chỉ ra rằng liên văn hóa là một xu hướng tất yếu của dịng chảy văn học
nói chung và Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên, nhìn chuyển thể từ văn học
sang điện ảnh dưới góc nhìn của liên văn hóa vẫn cịn là “mảnh đất” trống.
2.2. Tư liệu tiếng nước ngoài
Tại giải Oscar 2009, trong số 5 đề cử cho Phim hay nhất có tới 3 bộ
phim là phim chuyển thể từ các tác phẩm văn học: The Curious Case of
Benjamin Button chuyển thể từ một truyện ngắn của nhà văn Mỹ Frank Scott
Fritzgerald, The Reader chuyển thể từ tác phẩm best-seller của nhà văn Đức
Bernhard Schlink và Revolutionary Road chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên


của nhà văn Mỹ Richard Yates. Thành công lớn của phim No Country for
Old Men (chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của nhà văn Cormac McCarthy)
tại Oscar 2008 và The Reader (chuyển thể từ tiểu thuyết The Reader của
Bernhard Schlink) tại Oscar 2009 khiến giới phê bình phim ngày càng ấn tượng
với phim chuyển thể từ tác phẩm văn học. Khá nhiều cuộc


bình chọn liên quan đến phim chuyển thể đã thu hút sự quan tâm của đông
đảo khán giả, các nhà nghiên cứu – phê bình điện ảnh và báo giới. Hoạt
động chuyển thể sôi nổi tại kinh đô điện ảnh Holywood và cả bên ngồi đế
chế này ln chiếm ưu thế trong sản xuất phim. Điều này đã tạo động lực
cho các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực chuyển thể. Tài liệu nghiên cứu
chuyển thể cũng vì thế trở nên rất đa dạng. Có thể kể đến những tác phẩm
khởi đầu và có


tầm quan

trọng trong

nghiên cứu chuyển

thể như:

Introduction: The Theory and Practise of Film Adaptation; In Literature
and Film: a Guide to Theory and Practise of Film Adaptation (Robert Stam
và Alessandra Raengo); The Theory of Adaption (Linda Hutcheon); The
adaption industry, the cultural economy of comtemporary literature
adaption (Simone Murray); Beyond fidelity: the dialogics of adaptation
( Robert Stam, biên tập James Naremore)… Các nghiên cứu trên đã bàn đến
địa hạt của chuyển thế như là sự diễn giải, sự viết lại,… và lí giải khá chi tiết
cho những cơ chế đó. Các học giả cũng bắt đầu chạm đến mối quan hệ của
liên văn hóa và chuyển thể qua các bài so sánh những trào lưu phim đang
được chuyển thể rầm rộ trên thế giới như Boy over Flower hay Ngôi nhà
hạnh phúc. Nhìn chung, lý thuyết chuyển thể trong mơi trường liên văn
hóa từ tài liệu nước ngồi khá dồi dào và tiềm năng.
2.3.Những vấn đề tồn tại
Qua khảo sát tư liệu nghiên cứu về chuyển thể ở Việt Nam, ta thấy khái
niệm này được nhìn nhận tương đối đơn giản, chưa bao quát được thực
tiễn. Chuyển thể có phần xơ cứng bởi quan niệm cho rằng chuyển thể là
đưa một tác phẩm văn học lên phim mà chưa thấy được đó chính là đưa một
hệ thống kí hiệu này được dịch sang hệ thống kí hiệu khác, đưa một văn
bản vốn sáng tạo ở ngữ cảnh này vào một ngữ cảnh khác, đưa kết quả sáng
tạo của một nhà văn trở thành một kết quả tái tạo của người đạo diễn trong



một thế giới không đường biên. Ở phương Tây, các học giả đã bắt đầu
khơi dậy mối quan tâm với chuyển thể trong mối liên hệ liên văn bản với
văn học, bước đầu phá bỏ đi vị trí thứ bậc trong quan hệ chuyển thể với văn
bản nguồn. Văn học từ chỗ độc là sáng tạo thứ nhất, là nguyên bản chi phối
cảm quan của khán giả dần được xem xét lại. Hoạt động chuyển thể điện ảnh
vì thế bắt đầu có


sự trỗi dậy mạnh mẽ của ý thức tạo điều kiện cho việc tiếp cận phim chuyển
thể như là một mối liên hệ liên văn bản, thậm chí đối thoại với văn bản nguồn
trong một bối cảnh văn hóa liên văn hóa. Bằng cách đó, chúng ta có thể nhìn
chuyển thể qua lăng kính của của liên văn hóa để thấy được tiềm năng vĩnh
viễn và dồi dào của chuyển thể với giao lưu và hội nhập văn hóa. Qua khảo
sát tư liệu trong và ngồi nước, chúng tơi cũng nhận thấy rằng tài liệu bàn
về chuyển thể với trường hợp Những đêm trắng chưa nhiều, thậm chí chưa
được bàn luận một cách trực tiếp. Điều này đã thôi thúc người viết mạnh dạn
chọn vấn đề này để nghiên cứu.

3. Đối tượng, mục đích, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là chuyển thể cùng những khả năng của
nó, chuyển thể và mối quan hệ với giao tiếp liên văn hóa. Qua đó, luận văn có
thể nhận diện và phân tích được hạt nhân cơ bản được bảo lưu cũng như
biến đổi khi chuyển thể từ văn học lên phim của tác phẩm Những đêm trắng
trong bối cảnh liên văn hóa ấy.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
+ Phạm vi nội dung: Luận văn sẽ tiến hành tìm hiểu các bình diện cụ thể
sau: lý thuyết và ứng dụng của chuyển thể, mối quan hệ của chuyển thể và
giao tiếp liên văn hóa, những vấn đề về hình tượng và thể loại của tác
phẩm văn học nguồn và Những đêm trắng.
+ Phạm vi tư liệu: Tiến hành phương pháp nghiên cứu trường hợp

thông qua việc khảo sát các tài liệu liên quan đến:
* Các tài liệu liên quan đến nội dung chuyển thể văn học và điện ảnh
* Truyện Những đêm trắng của tác giả F.M Dostoevsky
* Phim Bốn đêm của kẻ mộng mơ của đạo diễn Robert Bresson
* Phim Người yêu dấu của đạo diễn Sanjay Leela Bhansali


4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn có sự kết hợp của nhiều phương pháp:
- Phương pháp liên ngành nhằm phân tích các quan hệ chuyển thể văn
học và điện ảnh.
- Phương pháp xã hội học trong việc phác họa lại lịch sử hình thành của
khái niệm chuyển thể
- Phương pháp so sánh để làm nổi bật đặc điểm của các type chuyển thể sẽ
trình bày cũng như đặc điểm của các phim chuyển thể với văn bản nguồn
và với nhau cũng như triển khai các thảo luận về định nghĩa khái niệm chuyển
thể.
- Phương pháp ký hiệu học và ký hiệu học văn hóa để tìm hiểu những dịng
chảy văn hóa ngầm ẩn chi phối đến các kỹ thuật chuyển thể từ văn học sang
điện ảnh.
- Phương pháp phân tích – tổng hợp giúp bóc tách từng yếu tố cấu thành
của các văn bản dưới tác động của văn hóa và sau cùng là tổng hợp để thấy
được một bức tranh tổng quát về các sinh thể chuyển thể mới được hình
thành.

5. Cấu trúc luận văn
Ngồi phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: TỔNG QUAN LÍ THUYẾT CHUYỂN THỂ ĐIỆN ẢNH.
ĐỌC VĂN BẢN NGUỒN
Trong chương này, luận văn sẽ trình bày những quan niệm, khái niệm

về chuyển thể cùng với sự khái quát đặc trưng của chuyển thể từ văn
học sang điện ảnh, để từ đó đi đến quan niệm về chuyển thể của luận
văn. Song song với đó, luận văn sẽ giới thiệu và đánh giá về tiềm năng
chuyển thể của văn bản nguồn Những đêm trắng để lí giải cho hiện tượng


chuyển thể mang tính vượt khơng gian và thời gian này. Từ đó, luận văn tiến
tới xác lập mối quan hệ giữã chuyển thể và giao tiếp liên văn hóa để
xác lập khung lý thuyết khi phân tích hiện tượng chuyển thể từ văn học
sang điện ảnh dưới góc nhìn liên văn hóa.
Chương 2: TÍNH LIÊN VĂN HĨA Ở CẤP ĐỘ HÌNH TƯỢNG


Áp dụng lý thuyết đã xác lập ở Chương 1, luận văn sẽ đi vào phân
tích tính liên văn hóa ở cấp độ thứ nhất, cấp độ hình tượng của hai bản
chuyển thể điện ảnh là Bốn đêm của kẻ mộng mơ (Robert Bresson 1971)
và Người yêu dấu (Sanjay Leela Bhansali 2003) qua các tín hiệu về hình
tượng. Cụ thể là ở các khía cạnh: Khơng gian, thời gian và nhân vật để từ
đó thấy được văn hóa đã tác động, chi phối và tạo ra những tác phẩm
chuyển thể mới như thế nào.
Chương 3: TÍNH LIÊN VĂN HĨA Ở CẤP ĐỘ THỂ LOẠI
Trong chương này, luận văn sẽ đi vào phân tích những dấu hiệu
ngầm ẩn của văn hóa mỗi quốc gia (Pháp và Ấn Độ) đã tác động lên đặc
trưng thể loại, cả ở hình thức và nội dung của hai bản chuyển thể điện
ảnh. Trong cấp độ thể loại, luận văn tập trung làm rõ hai khía cạnh là
phong cách riêng của hai đạo diễn: tư tưởng và các kỹ thuật phim đã được
áp dụng. Qua đó, chúng ta sẽ thấy được tính bản địa khi so sánh với văn
bản văn chương nguồn.



Chương 1: TỔNG QUAN VỀ LÝ THUYẾT CHUYỂN THỂ
1.1. Khái niệm chuyển thể
1.1.1. Chuyển thể như là tái hiện
Đây là một quan niệm phổ biến nhất về chuyển thể trong sáng tạo điện ảnh.
Đặc trưng chất liệu ngôn từ của văn học mang đến những hình tượng gián
tiếp và khơng có tính trực quan. Điện ảnh lại là loại hình nghệ thuật sinh
sau đẻ muộn, bởi vậy, nó có tham vọng tổng hợp nhiều khả năng trần thuật
bên trong mình. Nhờ những phương tiện điện ảnh mang đến hình ảnh sống
động, khả năng hồi cố, đan cài, song song trong tâm tưởng, điện ảnh đã giúp
trực quan hóa văn học mà kịch sân khấu hay nhà hát opera không thể tái hiện
được. Khái niệm chuyển thể (adaptation, một số cách dịch khác là cải
biên/thích nghi) trong các diễn ngơn nghiên cứu điện ảnh, đặc biệt là điện
ảnh chuyển thể và các nghiên cứu sinh học. Nguyên nghĩa, adaptio/adaptare
có nghĩa là làm cho vừa vặn (to make fit, to alter). Chuyển thể (trong mối
quan hệ giữa văn học và điện ảnh) đã trở thành một hình thức gắn liền với
lịch sử phát triển của màn bạc ngay từ khi nó ra đời vào thế kỉ XX. Điện
ảnh một mặt gắn chặt với những tiến bộ khoa học giúp nó “sao chép”
những chuyển động của đời sống thực, mặt khác tìm nội dung cho việc kể lại
đời sống ở người anh cả lão làng – văn học. Tới năm 1915, các hình ảnh văn
chương sẽ ngày càng trở thành chất liệu cho điện ảnh nhằm tách màn bạc
ra khỏi truyền thống nghệ thuật tạp kỹ và đem đến một kỳ vọng mới từ xã hội
cho ngành nghệ thuật máy móc (nổi bật nhất là phiên bản phim tiếng Ý
của tiểu thuyết Ba Lan Quo vadis năm 1913 cùng tác phẩm huyền thoại
Intolerance của D.W.Griffith năm 1916, sử dụng điệp khúc hình ảnh trong
thơ của Walt Whitman để kết nối kinh Tân ước, hai câu chuyện lịch sử và
một tấn kịch hiện đại lại với nhau. Năm 1932, tác phẩm The Magic Mountain


được dựng thành phim kéo theo đó là tâm trạng mâu thuẫn của chính tác
giả với phim chuyển thể: căm ghét nó - nhưng cũng rất yêu nó. Tới năm

1996, các tác phẩm của Jane Austen như Sense and Sesibility (1915);
Clueless (1915)… cũng được chuyển thể, đã tạo nên một thế hệ độc giả mới
quan tâm đến chính tác phẩm văn


chương của Jane thông qua việc xem phim. Điện ảnh từ thời sơ khai đã
ln kiếm tìm những nguồn văn học khác nhau để khai thác (Các tiểu thuyết,
kịch văn học, truyện ngắn, thơ và thậm chí cả bài luận cũng ln có đối xử
xứng tầm trong phim ảnh), vì thế, Dudley Andrew đã chỉ ra rằng: “việc
nghiên cứu chuyển thể cũng tương đồng như nghiên cứu màn bạc nói
chung” [34, trg.7]. Chuyển thể được xem là một xu hướng phổ quát trong
tất cả các xã hội loài người nhằm viết lại một văn bản gốc nào đó. Kết quả
của việc đó là tác phẩm chuyển thể hoặc trung thành hoặc rất ít liên hệ với
văn bản nguồn: “Chuyển thể, với tư cách là là một tác phẩm phát triển từ
bản gốc-đơi khi thậm chí là cả nhào nặn và biến đổi - từ một nguồn có sẵn”
[13].
Có thể thấy, việc làm phim dựa trên một văn bản có trước cũng lâu đời
như chính cơ cấu điện ảnh. Quá nửa số phim thương mại đều bắt nguồn từ
những tác phẩm văn học - cho dù tất cả những văn bản gốc đó đều chẳng nhận
được chút tơn trọng sùng bái nào. Chuyển thể rõ ràng đã mang đến nội dung
và đơi khi là cả hình thức để tái hiện hiện thực và để hình thành cho mình một
thứ ngơn ngữ riêng. Với những bước đỡ đầu đầy vững chắc và hứa hẹn của văn
học, chuyển thể đã trở thành một trong những hoạt động lâu đời nhất và cốt
lõi nhất của lịch sử điện ảnh. Trung tâm tính của chuyển thể thường được
đem ra thảo luận chính là trung thành hay khác biệt, từ đó trở thành một
trong những vấn đề đáng quan tâm nhất của lịch sử chuyển thể. Những động
cơ của hành động tái hiện, mô phỏng này có thể tìm thấy ngay trong chính
những tác phẩm nguồn. Văn bản văn chương với chất liệu bằng ngôn từ đã
xây nên những hình tượng gián tiếp. Chúng được gợi ra từ sự đọc của mỗi
độc giả. Tuy không mang đến một chỉ dẫn cụ thể nhất quán cho điện ảnh,

song văn học lại mang đến cho ngành nghệ thuật thị giác này những kinh
nghiệm gián tiếp vô cùng quý giá. Thêm nữa, ước muốn được nhìn những gì


trực quan, những gì hữu hình đã tồn tại quá lâu trong sự tưởng tượng từ việc
đọc tác phẩm văn chương cũng tạo nên động lực để các nhà làm phim
chuyển thể để thị giác hóa điều ấy.
Hoạt động chuyển thể từ văn bản văn chương đến phim ảnh theo quan
điểm truyền thống là hoạt động dịch. Nhà làm phim sẽ phải dịch chuyển đơn
vị cơ sở của


văn chương là ngôn từ sang đơn vị cơ sở của điện ảnh là hình ảnh. Sự dịch
chuyển này về bản chất là tái hiện, thị giác hóa lại ngơn từ lên phim. Cụ thể
hơn, hoạt động chuyển thể mang tính tái hiện này sẽ liên quan đến các thuật
ngữ của hệ thống ngôn ngữ (nếu ta cũng quan niệm phim như một văn bản)
mà trong đó đơn vị cơ sở cấu thành nên văn bản văn học chính là tự vị, từ và
câu, cịn văn bản phim là bóng tối và ánh sáng được chiếu đèn, các hình dạng
và âm thanh có thể nhận biết được, và các hành động được biểu diễn. Các hệ
thống này có thể được xây dựng theo cách riêng nhưng chúng ta luôn luôn có
thể tạo nên được sự phù hợp thích đáng từ các hệ thống khác nhau bằng
cách tạo nên những dấu hiệu đặc biệt từ mỗi đơn vị trong hệ thống và nhấn
mạnh đặc điểm chung của chúng. Vấn đề chuyển thể sẽ trở thành vấn đề
tìm kiếm hai hệ thống giao tiếp cho các yếu tố có vị trí tương đương trong các
hệ thống có khả năng khơi gợi cái được biểu đạt ở mức độ phù hợp sẵn có.
Keith Cohen trong Film and Literature: The Dynamics of Exchange đã tìm
cách chứng minh cho mối liên hệ giữa những hình thức nghệ thuật này: “Tôi
từng đưa ra một nhận định cơ bản rằng cả ngơn ngữ và hình ảnh đều là tập
hợp các ký hiệu thuộc về hệ thống và rằng, ở một mức độ trừu tượng nhất
định, những hệ thống này mang lại sự tương đồng với hệ thống khác. Cụ thể

hơn, trong mỗi hệ thống như thế này đều có nhiều mã khác nhau (thuộc về
cảm giác, quy chiếu, biểu tượng). Vậy thì cái mang lại khả năng cho một
nghiên cứu về liên hệ giữa hai hệ thống ký hiệu khác biệt, giống như tiểu
thuyết và phim, là cái thực tế rằng những mã tương tự có thể tái hiện không
chỉ trong hệ thống… Bởi vậy, người ta có thể thấy chính cơ cấu của hệ thống
ngơn ngữ mang các mối tương quan phức tạp và đa dạng: ngồi các chức
năng khác, chức năng ngơn ngữ là để định rõ các đơn vị được phân cắt bởi hình
ảnh (nhưng cũng góp phần phân cắt chúng), và … ngồi các chức năng khác,
chức năng của hình ảnh là để truyền cảm hứng cho các hình thể ngữ nghĩa


(nhưng cũng được chúng truyền cảm hứng” [4, trg.374]
Chính bản thân điện ảnh trong lịch sử phát triển của mình cũng góp phần
định hình nên quan niệm về việc tái hiện. Ngay từ đầu, điện ảnh đã vay mượn
tư liệu văn học trong mọi thể loại để làm nên nội dung và đề tài với mong
muốn tự tách mình


ra khỏi nghệ thuật tạp kỹ và vươn tới một địa hạt mà ở đó vị thế của nó
được ghi nhận hơn. Thiết nghĩ, ta cần có một cái nhìn tổng quát về mối
“nhân duyên” giữa điện ảnh và văn học để thấy được những động cơ và cách
thức của mối quan hệ không dễ miêu tả giữa hai ngành này. Điện ảnh có thể
coi là sự kế nhiệm của nhiếp ảnh. Kĩ thuật máy móc đã mang đến cho công
chúng phương Tây những năm 1750 - 1825 sự hứng thú say mê với hình ảnh
và sản phẩm thị giác: “William Hogarth, người xây dựng phương thức kể
chuyện trào phúng thông qua một loạt các khắc bản; những tranh tầng sâu
và tranh tồn cảnh mơ phỏng nổi tiếng đã xuất hiện đâu đó trong sân khấu
kịch chính thống và dàn tranh trào phúng (Trong những năm 1790, tác
phẩm Phantasmagoria của Etienne Gaspard Robertson đã thu hút hàng
vạn người với những phản thân về Rosseau, Marat và những vĩ nhân khác của

Cách mạng Pháp), và vô số tuyệt tác khoa học (chẳng hạn như kính viễn
vọng do Ngài David Brewster phát minh năm 1814) đã báo trước sự ra đời
của phương thức và công cụ khoa học năm 1826 và 1839” [4, trg.17]. Điều
này làm dấy lên sự tranh luận gay gắt về vị thế của văn học trong nền văn
hóa dễ bị cuốn hút bởi hình ảnh động thay vì sức mạnh truyền thống của
ngôn từ tinh xảo. Chủ nghĩa hiện thực thế kỉ 19 trở thành thước đo phản
ánh hiện thực của văn học và các ngành văn hóa thị giác mới nổi như thế.
Tuy nhiên, nếu những tiền thân của điện ảnh cứ kể mãi về phong cảnh và
phản thân, chính nó cùng với sức mạnh mê hoặc của mình khiến khán giả
cảm thấy ngột ngạt. Họ muốn một sản phẩm thị giác kể một nội dung có
chiều sâu. Các dự án quay bằng đèn chiếu Magic lanter trong tiểu thuyết của
Walter Scott; những tác phẩm văn xuôi khác cùng tiểu thuyết hàng loạt trở
thành một loại hình hịa quyện giữa nhiếp ảnh và kể chuyện thơng qua sự hỗ
trợ của ảnh in bằng thạch bản hay sau năm 1880 là cả việc in ảnh bán sắc.
Sự gặp gỡ văn học và điện ảnh tiếp tục được phát triển trong hình thái mà


×