MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU.........................................................................................1
CHƯƠNG I..............................................................................................2
THAM NHŨNG VÀ TÁC HẠI CỦA THAM NHŨNG.......................2
1.1. Khai niêm tham nhung..........................................................................................................2
1.1.1. Định nghĩa...........................................................................................................................2
1.1.2.1. Chủ thể tham nhung là người có chức vụ, quyền hạn.....................................................2
1.1.2.2. Chủ thể tham nhung lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao........................................3
1.1.2.3. Mục đích của hành vi tham nhung là vụ lợi.....................................................................3
1.1.3. Những hành vi tham nhung................................................................................................3
1.2. Tac hại của tham nhung.........................................................................................................5
1.2.1.Tac hại về chính trị...............................................................................................................5
1.2.2. Tac hại về kinh tế.................................................................................................................7
1.2.3. Tac hại về xã hội................................................................................................................10
CHƯƠNG II..........................................................................................13
THỰC TRẠNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM...............................13
2.1. Thực trạng tham nhung ở Việt Nam hiện nay.....................................................................13
2.2. Về nguyên nhân của thực trạng...........................................................................................17
2.2.1. Nguyên nhân chủ quan.....................................................................................................17
Ta có thể khai quat một số nguyên nhân dễ nhận thấy như sau:...............................................17
2.2.2. Về nguyên nhân khach quan.............................................................................................21
MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHỊNG , CHỐNG THAM NHŨNG............23
3.1. Giải phap phịng, chống tham nhung..................................................................................23
3.2. Trach nhiệm của công dân trong đấu tranh phòng, chống tham nhung............................26
KẾT LUẬN............................................................................................29
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................31
LỜI NÓI ĐẦU
Tham nhũng và cuộc đấu tranh chống tham nhũng là vấn đề nóng,
phức tạp, nan giải gây bức xúc trong xã hội ở nước ta. Tệ tham nhũng, lãng
phí đã được khái quát, nêu rõ bản chất và nguy cơ hậu quả tai hại của nó đối
với đất nước như "giặc nội xâm", đe dọa đến sự sống cịn của chế độ. Hiểu rõ
nguy cơ đó, thời gian qua, Đảng, Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đề ra những
chủ trương, giải pháp phòng, chống tham nhũng, lãng phí như: Pháp lệnh
phịng, chống tham nhũng, lãng phí và các cơ chế, chính sách có liên quan;
ban hành và triển khai thực hiện Chiến lược quốc gia về phòng, chống tham
nhũng đến năm 2020… Những năm gần đây, nhất là khi có Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa XI): “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”,
cuộc đấu tranh phịng, chống tham nhũng, lãng phí đã đạt được một số kết quả
nhất định: Nhiều vụ tham nhũng lớn, phức tạp, gây hậu quả nghiêm trọng tồn
tại từ lâu đã bị phát hiện, xử lý; việc xử lý kỷ luật nghiêm khắc đối với những
cán bộ đã dính líu vào tham nhũng; rồi những bản án tử hình, tù chung thân
và bắt buộc phải bồi thường tiền, tài sản đã tham nhũng của Nhà nước, của
nhân dân, làm cho tệ tham nhũng từng bước được kiềm chế. Song, tình trạng
tham nhũng, lãng phí hiện nay vẫn cịn nghiêm trọng, phạm vi rộng, tính chất
phức tạp, làm cho nhân dân lo lắng, giảm lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng,
sự điều hành, quản lý của Nhà nước.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài Tiểu luận:
"Thực trạng và giải pháp phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện
nay". Nhằm tìm hiểu, làm rõ thực trạng và từ thực trạng đó đưa ra các ý kiến
cá nhân nâng cao hiệu quả công tác phòng chống tham nhũng ở nước ta hiện
nay.
1
Chương I
THAM NHŨNG VÀ TÁC HẠI CỦA THAM NHŨNG
1.1. Khái niệm tham nhũng
1.1.1. Định nghĩa
Có khá nhiều khái niệm về định nghĩa về tham nhũng với những ưu
điểm riêng của nó như:
Theo Từ điển bách khoa thư Wikipedia: dẫn theo Tổ chức Minh bạch
Quốc tế (Transparency International – TI), tham nhũng “là hành vi của người
lạm dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc cố ý làm trái pháp luật để phục vụ cho lợi
ích cá nhân”. Nhận định trên ngắn gọn, dễ hiểu nhưng tính chính xác chưa
cao, khơng bao qt hết tác động của hành vi này đến các đối tượng khác.
Trong khoản 2, Điều 1 của Luật Phòng, chống tham nhũng của Nhà
nước ta (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/6/2006) đã ghi: “Tham nhũng là hành
vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ
lợi”. Nhận định này khá ngắn gọn nhưng chưa nêu được hậu quả của hành vi
đến các chủ thể khác, chưa xác định được hành vi tham nhũng là gì.
1.1.2. Những đặc trưng cơ bản
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tham nhũng có những đặc trưng
cơ bản như sau:
1.1.2.1. Chủ thể tham nhũng là người có chức vụ, quyền hạn
Đặc điểm của tham nhũng là chủ thể thực hiện hành vi phải là người có
chức vụ, quyền hạn. Người có chức vụ, quyền hạn bao gồm: cán bộ, công
chức, viên chức; sĩ quan, qn nhân chun nghiệp, cơng nhân quốc phịng
trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ,
sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn - kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công
an nhân dân; cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước; cán
bộ lãnh đạo, quản lý là người đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh
nghiệp; người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi
thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ đó (Luật phịng, chống tham nhũng năm 2018).
2
1.1.2.2. Chủ thể tham nhũng lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao
“Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” để vụ lợi là đặc trưng thứ hai của tham
nhũng. Chủ thể tham nhũng phải sử dụng “chức vụ, quyền hạn của mình” như
một phương tiện để mang lại lợi ích cho mình, cho gia đình mình hoặc cho
người khác. Một người có chức vụ, quyền hạn nhưng khơng lợi dụng chức vụ,
quyền hạn đó thì khơng thể có hành vi tham nhũng.
1.1.2.3. Mục đích của hành vi tham nhũng là vụ lợi
Mục đích của hành vi tham nhũng là vụ lợi. Nếu chủ thể thực hiện hành
vi khơng cố ý thì hành vi đó khơng là hành vi tham nhũng. Vụ lợi ở đây được
hiểu là lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần mà người có chức vụ, quyền hạn
đã đạt được hoặc có thể đạt được thơng qua hành vi tham nhũng.
1.1.3. Những hành vi tham nhũng
Theo điều 2 Luật Phòng chống tham nhũng năm 2018 quy những hành
vi sau đây thuộc nhóm hành vi tham nhũng:
- Tham ô tài sản.
- Nhận hối lộ.
- Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì
vụ lợi.
- Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, cơng vụ vì vụ lợi.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục
lợi.
- Giả mạo trong cơng tác vì vụ lợi.
- Đưa hối lộ, mơi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ,
quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa
phương vì vụ lợi.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước
vì vụ lợi.
- Nhũng nhiễu vì vụ lợi.
- Khơng thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ vì vụ lợi.
3
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi
phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra,
thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.
- Về hành vi “đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có
chức vụ, quyền hạn để giải quyết cơng việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc
địa phương vì vụ lợi”: Đây là một biểu hiện mới của tệ tham nhũng. Do vẫn
còn tồn tại cơ chế “xin - cho” trong nhiều lĩnh vực nên có nhiều cá nhân đại
diện cho cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương đã tìm cách hối lộ cho
người có chức vụ, quyền hạn phụ trách việc phê duyệt chương trình, dự án,
cấp kinh phí, ngân sách để được lợi cho cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương
mình và thơng qua đó để đạt được các lợi ích cá nhân. Hành vi này được coi
là hành vi tham nhũng. Điều cần lưu ý là hành vi đưa hối lộ, môi giới hối lộ là
tội danh được quy định trong Bộ luật hình sự khơng thuộc nhóm các tội phạm
về tham nhũng mà thuộc nhóm các tội phạm về chức vụ. Cịn hành vi đưa hối
lộ, làm mơi giới hối lộ được thực hiện bởi chủ thể có chức vụ, quyền hạn để
giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi
thì mới được coi là hành vi tham nhũng. Hành vi này vừa chịu sự điều chỉnh
của pháp luật hình sự với tội danh tương ứng (nếu hành vi đó cấu thành tội
phạm), vừa là hành vi tham nhũng theo sự điều chỉnh của pháp luật về tham
nhũng.
- Về hành vi “lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản nhà
nước vì vụ lợi”: Đây là hành vi lợi dụng việc được giao quyền quản lý tài sản
của nhà nước để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc một nhóm người nào đó thay vì
phục vụ cho lợi ích cơng. Biểu hiện cụ thể của hành vi này thường là cho thuê
tài sản như: nhà xưởng, trụ sở, xe ôtô và các tài sản khác nhằm vụ lợi. Số
lượng tài sản cho thuê nhiều khi lớn. Hành vi này diễn ra khá phổ biến hiện
nay.
- Về hành vi “nhũng nhiễu vì vụ lợi”: Nhũng nhiễu là hành vi đã được
mơ tả trong phần thuật ngữ khái niệm. Cần nhấn mạnh thêm hành vi này xuất
hiện trong hoạt động của một số cơ quan công quyền, nhất là tại các cơ quan
4
hành chính, nơi trực tiếp giải quyết cơng việc của công dân và doanh nghiệp.
- Về hành vi “lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có
hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc
kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi”.
Hành vi tham nhũng nhiều khi được che chắn thậm chí là có sự đồng lõa của
những người có chức vụ, quyền hạn ở cấp cao hơn. Vì vậy, việc phát hiện và
xử lý tham nhũng là hết sức khó khăn. Việc bao che cho người có hành vi
tham nhũng, việc cản trở quá trình phát hiện tham nhũng có khi được che đậy
dưới rất nhiều hình thức khác nhau như: thư tay, điện thoại, nhắc nhở, tránh
khơng thực hiện trách nhiệm của mình hoặc có thái độ, việc làm bất hợp tác
với cơ quan có thẩm quyền…
- Hành vi “không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi” là hành vi
thường được gọi là “bảo kê” của những người có trách nhiệm quản lý, đặc
biệt là một số người làm việc tại chính quyền địa phương cơ sở, đã “lờ” đi
hoặc thậm chí tiếp tay cho các hành vi vi phạm để từ đó nhận lợi ích từ những
kẻ phạm pháp. Đây là hiện tượng hết sức nguy hại cần phải loại bỏ.
1.2. Tác hại của tham nhũng
1.2.1. Tác hại về chính trị
Tham nhũng phá hoại đội ngũ cán bộ, tầm thường hoá hệ thống pháp
luật, là nguyên nhân liên quan trực tiếp đến sự sống cịn của Nhà nước. Tác
hại của tham nhũng khơng chỉ dừng lại ở phương diện thiệt hại vật chất hàng
ngàn tỷ đồng, hàng trăm triệu USD của Nhà nước mà tham nhũng sẽ làm tầm
thường hoá hệ thống pháp luật của Nhà nước, kỷ cương xã hội không thể giữ
vững, gây mất đoàn kết nội bộ, làm giảm uy tín của Đảng và Nhà nước trước
nhân dân và là cơ hội để cho kẻ thù phá hoại, xâm lược. Nếu các nhà hành
pháp mà tự mình phá hoại luật pháp thì làm sao có thể duy trì được phép
nước. Những kẻ tham nhũng chính là những tên đầu trị trong việc làm tê liệt
hệ thống hành pháp, làm cho Nhà nước trở thành đối lập và gánh nặng cho
công dân. Tham nhũng tất yếu dẫn đến phá hoại đội ngũ cán bộ Nhà nước bởi
vì những kẻ tham nhũng sẽ lừa dối và hư hoá cấp trên làm cho bộ máy trở
5
thành quan liêu, chúng sẽ tăng cường đưa thêm kẻ xấu vào guồng máy và triệt
hại đội ngũ viên chức chưa tốt. Những kẻ tham nhũng chính là những tên phá
hoại từ bên trong của hệ thống hành pháp quốc gia. Tham nhũng sẽ làm cho
quần chúng mất đi sự tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước và đây cũng là nguyên nhân căn bản nhất dẫn đến thất bại của Đảng và
Nhà nước. Chính với những tác hại to lớn kể trên cũng như nhiều tác hại do
bệnh tham nhũng tạo ra, nhiều nước đã coi tham nhũng là quốc nạn của đất
nước, là giặc nội xâm nguy hiểm. Trong các văn kiện đại hội VIII, IX Đảng ta
khẳng định: Nạn tham nhũng đang là một nguy cơ trực tiếp quan hệ đến sự
sống còn của hệ thống chính trị.
Tham nhũng là trở lực lớn đối với quá trình đổi mới đất nước và làm xói
mịn lịng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước, đối với
sự nghiệp xây dựng đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Công cuộc đổi mới
đất nước một cách toàn diện đã mang đến cho đất nước ta thế và lực mới.
Những điều chỉnh đúng đắn về chiến lược và sách lược đã phát huy tác dụng
và tạo đà cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, tình trạng tham nhũng
lại là một trở lực lớn đối với quá trình này. Quan điểm và tư duy đổi mới cùng
với cơ chế, pháp luật đúng đắn, phù hợp đã bị tệ tham nhũng làm cho méo
mó. Đối tượng tham nhũng đã lợi dụng sự thơng thống của cơ chế, chính
sách để thực hiện hành vi tham nhũng. Kẻ tham nhũng lợi dụng yêu cầu tăng
cường kiểm tra, giám sát và các biện pháp khác để dọa dẫm, đòi hối lộ của đối
tượng bị thanh tra, kiểm tra. Cơ chế, chính sách trở thành cơng cụ để thực hiện
những lợi ích cá nhân.
Trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài, tham nhũng sẽ làm nản lịng các nhà
đầu tư nếu chúng ta khơng có biện pháp kịp thời ngăn chặn và đẩy lùi tham
nhũng.
Hiện nay tình hình tham nhũng ở nước ta đã ở mức nghiêm trọng, đáng
báo động. Tham nhũng không chỉ xảy ra ở cấp trung ương, ở những chương
trình, dự án lớn mà còn xuất hiện nhiều trong các cấp chính quyền cơ sở - cơ
quan tiếp xúc với nhân dân hàng ngày, giải quyết những công việc liên quan
6
trực tiếp đến lợi ích của nhân dân. Điều đó làm giảm lòng tin của nhân dân
vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, gây ra sự bất bình, bức
xúc, thậm chí phản ứng của nhân dân đối với chính quyền. Để nhân dân mất
niềm tin, tức là chúng ta đã đánh mất một sức mạnh vơ cùng to lớn, có tính
chất quyết định đối với sự nghiệp cách mạng.
Tác hại nguy hiểm của tệ tham nhũng, lãng phí gây ảnh hưởng trực tiếp
đến hiệu quả của việc thực hiện chủ trương, chính sách về kinh tế - xã hội
hoặc một nhiệm vụ quản lý nhất định của Nhà nước. Chiến lược quốc gia
phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 khẳng định: Tình hình tham nhũng
vẫn diễn biến phức tạp trên nhiều lĩnh vực, nhất là trong quản lý, sử dụng đất
đai, đầu tư xây dựng, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, quản lý, sử dụng
vốn, tài sản nhà nước, gây hậu quả xấu về nhiều mặt làm giảm sút lòng tin của
nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, tiềm ẩn các
xung đột lợi ích, phản kháng về xã hội, làm tăng thêm khoảng cách giàu
nghèo. Tham nhũng trở thành vật cản lớn cho thành công của công cuộc đổi
mới, cho sức chiến đấu của Đảng, đe dọa sự tồn vong của chế độ.
1.2.2. Tác hại về kinh tế
Tham nhũng gây thiệt hại rất lớn về tài sản của Nhà nước, của tập thể và
của công dân.
Ở nước ta, trong thời gian qua, nạn tham nhũng diễn ra trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội, gây thiệt hại lớn đến tài sản của Nhà nước, tiền
của, thời gian, công sức của nhân dân. Giá trị tài sản bị thiệt hại, bị thất thoát
liên quan tới tham nhũng của mỗi vụ lên tới hàng chục, hàng trăm, thậm chí là
hàng ngàn tỉ đồng. Đó là những con số lớn và đáng lo ngại so với số thu ngân
sách hằng năm của nước ta. Hậu quả của hành vi tham nhũng không chỉ là
việc tài sản, lợi ích của Nhà nước, của tập thể hoặc của cá nhân bị biến thành
tài sản riêng của người thực hiện hành vi tham nhũng, mà nguy hiểm hơn,
hành vi tham nhũng cịn gây thiệt hại, gây thất thốt, lãng phí một lượng lớn
tài sản của Nhà nước, của tập thể, của công dân. Ở mức độ thấp hơn, việc một
số cán bộ, công chức quan liêu, sách nhiễu đối với nhân dân trong khi thực thi
7
công vụ, lạm dụng quyền hạn trong khi thi hành công vụ khiến cho nhân dân
phải mất rất nhiều thời gian, cơng sức, tiền bạc để có thể thực hiện được cơng
việc của mình như: xin cấp các loại giấy phép, giấy chứng nhận, hoặc các loại
giấy tờ khác... Nếu xét từng trường hợp một thì giá trị vật chất bị lãng phí có
thể khơng q lớn, nhưng nếu tổng hợp những vụ việc diễn ra thường xuyên,
liên tục trong đời sống hằng ngày của nhân dân thì con số bị thất thoát đã ở
mức độ nghiêm trọng.
Tham nhũng gây tổn hại to lớn về mặt kinh tế cho sự phát triển xã hội
kéo lùi sự phát triển tuỳ theo quy mơ và mức độ gây hại của nó. Tham nhũng
đã gây thiệt hại vật chất hàng ngàn tỷ đồng, hàng trăm triệu đô la của Nhà
nước. Theo đánh giá của Văn phòng Liên hợp quốc về ma túy và tội phạm
(UNODC) và Ngân hàng Thế giới (WB), nạn tham nhũng đã gây thiệt hại cho
các nước đang phát triển tới 1,6 nghìn tỷ USD mỗi năm. Chi phí kinh tế của
tham nhũng là rất khó xác định nhưng một số cơng trình nghiên cứu đã đưa ra
đó là:
- Tăng từ 3-10% cho giá của một giao dịch để đẩy nhanh giao dịch.
- Một mức tổn thất tới 50% nguồn thu từ thuế của chính phủ do hối lộ và
tham nhũng.
Những thiệt hại về kinh tế mà tham nhũng gây ra cho nước ta có thể kể đến
là:
- Tham nhũng làm thất thoát những khoản tiền lớn trong xây dựng cơ
bản do phải chi phí cho việc đấu thầu, việc cấp vốn, việc thanh tra, kiểm toán
và hàng loạt các chi phí khác. Mặt khác do tham nhũng mà một số lượng lớn
tài sản của Nhà nước bị thất thoát do các hành vi tham ô, lạm dụng chức vụ
quyền hạn chiếm đoạt... Trong đó, những sai phạm trong lĩnh vực đất đai
chiếm một số lượng đáng kể.
Theo báo cáo của Thanh tra Chính phủ, năm 2013, ngành thanh tra phát
hiện 80 vụ, 90 đối tượng có hành vi liên quan đến tham nhũng với số tiền
117,5 tỉ đồng, đã chuyển cơ quan điều tra 11 vụ việc. Cũng trong năm 2013,
cơ quan điều tra các cấp đã thụ lý 371 vụ án, 847 bị can phạm tội về tham
8
nhũng. Thiệt hại được xác định qua các vụ án này lên đến khoảng 9.260 tỉ
đồng, 51.000 lượng vàng SJC, 155.000m2 đất.
Nổi bật là các vụ án vi phạm các quy định cho vay trong hoạt động của
tổ chức tín dụng xảy ra tại Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam chi nhánh Bình
Chánh, TP.HCM gây thiệt hại 410 tỉ đồng, vụ án lạm quyền trong khi thi hành
công vụ xảy ra tại Ngân hàng SeaBank gây thiệt hại 310 tỉ đồng…
Trong năm 2014, ngành thanh tra đã phát hiện 54 vụ, 87 đối tượng có
hành vi liên quan đến tham nhũng với số tiền 68,5 tỷ đồng; đã thu hồi 46,9 tỷ
đồng (đạt 68,5%, tăng 18,3% so với năm 2013).
Một số cá nhân, tổ chức thực hiện các hoạt động đầu tư bằng vốn ngân
sách không dựa trên yêu cầu mang lại lợi ích cho Nhà nước, cho xã hội mà chỉ
nhằm mưu cầu lợi ích cho cá nhân. Vì lợi ích cá nhân của mình hay của một
nhóm người, một số doanh nghiệp đã đầu tư mua, nhập khẩu những dây
chuyền sản xuất, máy móc, thiết bị, phương tiện, tàu thủy rất lạc hậu, cũ nát
mang về không thể sử dụng được do công nghệ đã quá cũ hoặc tiêu tốn quá
nhiều nhiên liệu hoặc thải ra quá nhiều các chất độc hại, gây thất thoát cho
ngân sách nhà nước hàng ngàn tỷ đồng.
- Tham nhũng gây tổn thất lớn cho nguồn thu của ngân sách nhà nước thông
qua thuế. Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Tuy nhiên do tệ
tham nhũng, hối lộ mà một số doanh nghiệp chỉ phải nộp khoản thuế ít hơn nhiều
so với khoản thuế thực tế phải nộp. Điều này đã làm thất thoát một lượng tiền rất
lớn hàng năm. Hối lộ cũng dẫn đến những thất thoát lớn trong việc hoàn thuế, xét
miễn giảm thuế…
- Tham nhũng, nhất là hành vi tham ô tài sản đã làm cho một số lượng lớn tài
sản công trở thành tài sản tư của một số cán bộ, công chức, viên chức. Trong một
số cơ quan, tổ chức đã hình thành các đường dây tham ơ hàng tỷ, thậm chí
hàng ngàn tỷ đồng của Nhà nước.
Tham nhũng gây ra những thiệt hại nghiêm trọng cho các cơng trình xây
dựng. Do tham nhũng mà một số cơng trình xây dựng như các cơng trình cầu
đường, nhà cửa kém chất lượng. Điều này không chỉ gây nguy hiểm đáng kể
9
cho cuộc sống của người dân khi sử dụng các cơng trình này mà cịn ảnh hưởng
nghiêm trọng đến sự phát triển của nền kinh tế - xã hội.
Tham nhũng gây ảnh hưởng lớn đến môi trường kinh doanh, làm giảm
đáng kể năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, làm chậm tốc độ tăng
trưởng của nền kinh tế. Ngân hàng Thế giới (WB) ước tính tham nhũng khiến
chi phí của các doanh nghiệp toàn cầu tăng 10%, trong khi chi phí giao dịch
tại các nước đang phát triển tăng thêm tới 25%. Số tiền tham nhũng của quan
chức trên toàn thế giới mỗi năm lên tới hơn 1.000 tỷ USD. Do tệ nạn tham
nhũng mà nhiều doanh nghiệp tuy khơng có đủ thực lực và uy tín nhưng nhờ
“hối lộ” mà vẫn giành được những hợp đồng kinh tế lớn. Điều đó khơng chỉ
làm mất lịng tin của các doanh nghiệp làm ăn chính đáng trong cạnh tranh lành
mạnh mà còn dẫn đến nhiều hậu quả xấu khác như chất lượng cơng trình kém,
làm suy thối phẩm chất của một số cán bộ, cơng chức, viên chức, làm mất
lịng tin của các nhà đầu tư…
Hành vi sách nhiễu, gây khó khăn, địi hối lộ của một bộ phận cán bộ,
cơng chức, viên chức cịn gây thiệt hại đến tài sản của người dân do họ phải
đưa hối lộ khi liên quan đến các thủ tục hành chính. Mặt khác thủ tục hành
chính bị kéo dài đã gây mất thời gian, tiền của của người dân, làm đình trệ các
hoạt động sản xuất, kinh doanh.
1.2.3. Tác hại về xã hội
Tham nhũng xâm phạm, thậm chí làm thay đổi, đảo lộn những chuẩn
mực đạo đức xã hội, tha hóa đội ngũ cán bộ, cơng chức nhà nước. Trước
những lợi ích bất chính đã hoặc sẽ có được khi thực hiện hành vi tham nhũng,
nhiều cán bộ, công chức đã không giữ được phẩm chất đạo đức của người cán
bộ cách mạng. Cán bộ, công chức khi thực hiện hành vi tham nhũng đã khơng
cịn làm việc vì mục đích phục vụ sự nghiệp cách mạng, phục vụ nhân dân mà
hướng tới việc thu được các lợi ích bất chính, bất chấp việc vi phạm pháp
luật, làm trái công vụ, trái lương tâm, đạo đức nghề nghiệp. Điều đáng báo
động là một số cán bộ, công chức coi việc tham nhũng trở thành bình thường.
Đó chính là biểu hiện của sự suy thoái, xuống cấp về đạo đức một cách
10
nghiêm trọng. Sự suy thối về tư tưởng chính trị, phẩm chất, đạo đức, lối sống
thể hiện trước hết ở tư tưởng hưởng thụ, quá coi trọng đồng tiền, tư tưởng vụ
lợi, làm giàu bất chính… Những tư tưởng này đang làm suy thối một bộ
phận cán bộ có chức, có quyền. Xuất phát từ những tâm lí này mà một số cán
bộ, đảng viên đã lợi dụng công việc, nhiệm vụ, quyền hạn được giao để đòi
hối lộ, tham ô tài sản. Đặc biệt là những cán bộ công tác trong các lĩnh vực tài
chính, tiền tệ, cấp phát vốn, thanh tra, kiểm toán cũng như các lĩnh vực có liên
quan đến nguồn vốn ngân sách hay vốn tài trợ, vốn vay ưu đãi…
Hơn thế, tham nhũng còn xâm phạm những giá trị đạo đức truyền thống
của dân tộc, khi người thực hiện hành vi tham nhũng cũng có khi là giáo viên,
bác sỹ, những người hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội –
những người xây dựng nền tảng tinh thần cho xã hội.
Qua cách chạy điểm và buôn bán bằng cấp, người ta sẽ tạo ra vơ số
những trí thức giả, vừa kém tài vừa kém tư cách, những kẻ sẽ góp phần phá
huỷ bất cứ một dự án tốt đẹp nào của xã hội. Dạy học, họ sẽ là những thầy cô
giáo dốt. Làm việc, họ sẽ là những cán bộ tồi. Khi cái dốt và cái tồi ngồi cao
hơn vị trí vốn có của chúng, chúng trở thành gian. Nhưng tai hại nhất là ở hai
điểm này: Thứ nhất, chúng tạo ra hoặc khoét sâu thêm các bất công trong xã
hội. Nói đến chuyện bình đẳng, hầu như ai cũng thừa nhận: quan trọng nhất là
sự bình đẳng trong các cơ hội giáo dục. Có cơ hội giáo dục là có cơ hội thăng
tiến. Có cơ hội thăng tiến là có tương lai. Có tương lai là có tất cả. Với sự xuất
hiện của tham nhũng, cơ hội giáo dục của rất nhiều người sẽ bị cướp mất: vì
nghèo, họ khơng thể vào học được các trường có chất lượng cao; hay vì
nghèo, họ khơng thể học thêm ngay với các thầy cơ giáo đang đứng lớp, do
đó, khơng thể có điểm cao; và cũng do đó, mất hẳn tự tin. Thứ hai, chúng làm
cho trẻ em, ngay từ nhỏ, đã mất hẳn niềm tin vào công lý. Thi tuyển vào
trường, các em biết kết quả không thuộc ở khả năng hay sự cố gắng của bản
thân mà chủ yếu tuỳ thuộc vào quà cáp của bố mẹ. Ngồi trong lớp học, các em
biết rõ thái độ của thầy cô giáo đối với mình sẽ khác hẳn đi khơng phải do
hạnh kiểm bản thân mà do sự hào phóng của bố mẹ các em. Những bài học
11
đầu đời, do đó, là những bài học xấu: mọi chuyện đều, có khi chỉ, được giải
quyết bằng tiền. Và đồng tiền khôn luôn luôn là đồng tiền đi cửa sau.
12
Chương II
THỰC TRẠNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng tham nhũng ở Việt Nam hiện nay
Thực trạng tham nhũng ở Việt Nam hiện nay đang mang đến rất nhiều
nguy hại, hành vi tham nhũng khơng cịn chỉ dừng lại là hành vi của một cá
nhân có chức có quyền mà nó đang dần lan tràn, trở thành hành vi của cả
một tập thể ban lãnh đạo cơ quan, đơn vị. Tham nhũng không chỉ diễn ra một
cách ngấm ngầm trong nội bộ một cơ quan, mà nó cịn là sự cấu kết một cách
có tổ chức, có liên kết với một vài cơ quan, đơn vị khác,…. Các ý kiến phát
biểu tại phiên thảo luận về tham nhũng trong Hội nghị nhóm tư vấn các nhà
tài trợ giữa kỳ ngày 9/6/2006 đã nhận định: “Tham nhũng ở Việt Nam đến
mức báo động”.
Theo công bố của Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI) công bố năm 2017,
chỉ số CPI của Việt Nam đã tăng nhẹ trong 2 năm 2016 và 2017, đạt 35/100
điểm và xếp hạng 107/180 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Chỉ số CPI
tăng cho thấy những nỗ lực cố gắng phòng, chống tham nhũng những năm
vừa qua của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã đạt được những hiệu quả tích
cực. Tuy nhiên, khi xét trên thang điểm 100 của CPI, số điểm 35 của Việt
Nam vẫn bị coi là vô cùng nghiêm trọng.
Theo TS Đăng Hồng Giang, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu
phát triển và Hỗ trợ cộng đồng (CECODES), chỉ số xếp hạng và nhận định
của Tổ chức Minh bạch Quốc tế đã phản ánh đúng vấn đề tham nhũng tại Việt
Nam những năm vừa qua. Có thể nói, mỗi người dân tại nước ta đều phải trải
nghiệm vấn đề tham nhũng ở khu vực công khi đến cơ quan hành chính, khi
đi bệnh viện, khi đến trường học, và thậm chí là di chuyển giao thơng trên
đường. Theo ơng Giang: “Năm 2016, chúng tôi đã công bố chỉ số hiệu quả
quản trị và hành chính cơng cấp tỉnh ở Việt Nam (PAPI), tỉ lệ người dân cho
biết họ phải chi "lót tay" cho cơng chức để làm xong giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất tiếp tục tăng lên. Ngoài ra, hiện trạng vịi vĩnh trong khu vực
cơng ngày càng phổ biến.”
13
Ngành Xây dựng cơ bản đứng đầu bảng tham nhũng và thứ hai là
ngành Giao thông - Vận tải.
Sau chiến tranh, kiến thiết quốc gia, ngành Xây dựng cơ bản có vai trị
quan trọng hàng đầu. Ngành Xây dựng cơ bản được ví là xương sống, thứ đến
là ngành Giao thông - Vận tải được xem là huyết mạch của công cuộc phát
triển kinh tế - xã hội. Hai ngành này có những cơng lao, thành tích rất to lớn,
vẻ vang, đã dựng xây những cơng trình ngang tầm khu vực và thế giới, góp
phần làm cho đất nước ta đàng hoàng, to đẹp hơn mười ngày xưa..Tuy vậy, về
khuyết điểm, đây cũng được đánh giá là 2 ngành xà xẻo, rút ruột công quỹ lớn
nhất.
Như chúng ta đã biết, với mọi cơng trình xây dựng, việc hệ trọng trước
tiên là xác lập định mức tiêu chuẩn kỹ thuật cơ bản, thậm chí cịn gia thêm hệ
số an tồn để đảm bảo độ bền vững lâu dài. Thế nhưng, cả 2 ngành này đều có
nguy cơ tham nhũng lớn ngay từ khâu đầu tiên khi làm dự toán thiết kế đề án.
Những “quan tham” thường kê khai nguyên vật liệu tăng cao gấp nhiều lần
định mức tiêu chuẩn kỹ thuật đã được xác lập. Qua đó, tham ơ một lượng lớn
tiền, tài sản của Nhà nước. Q trình thi cơng lại tiếp tục ăn cắp nguyên vật
liệu hoặc đánh tráo ngun vật liệu, khiến cho cơng trình bị kém chất lượng.
Nhà nước buộc phải chi thêm tiền duy tu, sửa chữa, đội vốn đầu tư, kéo dài
thời gian thi công. Không chỉ ngân sách bị thiệt hại lớn, mà nguy hại hơn
nhiều là gây bao thương tật, cái chết cho con người, làm mất uy tín của Đảng
và Nhà nước.
Qua các vụ án kinh tế cho thấy tình hình tham nhũng của các dự
án thường gắn chặt trong một móc xích với các vấn đề về hối lộ và tham ô bất
động sản.
Về ngành Xây dựng cơ bản, vụ án Trịnh Xuân Thanh là một điển hình
về “siêu chạy hối lộ” bằng ma lực đồng tiền, liên quan đến nhiều ban, bộ ở
Trung ương và lãnh đạo, ngành ở địa phương.
Trịnh Xn Thanh là một cán bộ khơng có gì xuất sắc, được bầu làm
Phó Tổng Giám đốc Tổng Cơng ty Xây lắp dầu khí (PVC) và nhanh chóng
14
làm Chủ tịch Hội đồng Quản trị (HĐQT) PVC của Tập đồn Dầu khí Việt
Nam (PVN) do ơng Đinh La Thăng làm Chủ tịch Hội đồng Thành viên.
Năm 2012, PVC thua lỗ hơn 1.800 tỷ đồng, nhưng được tuyên dương
danh hiệu Anh hùng Lao động!
Trịnh Xuân Thanh được điều lên làm Phó Chánh Văn phịng Bộ Cơng
Thương, rồi được điều về làm Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang. Thường
vụ Tỉnh ủy Hậu Giang bầu Trịnh Xuân Thanh làm Tỉnh ủy viên. Đặc biệt, ô tô
riêng của Trịnh Xuân Thanh được Công an Hậu Giang cấp biển số xe công.
Năm 2013, PVC lỗ lũy kế gần 3.300 tỷ đồng. Vốn điều lệ 4.000 tỷ đồng
chỉ cịn 2,7 tỷ đồng vì Trịnh Xuân Thanh đã rút vốn khá lớn của PVC để ơng
Đinh La Thăng đầu tư ngồi ngành, trong đó có 800 tỷ đồng của PVN góp
vốn vào Ngân hàng Đại Dương (Ocean Bank).
Khi sự kiện Đinh La Thăng vỡ lở, chấn động dữ dội dư luận, việc chạy
chức, chạy cấp, chạy khen thưởng, chạy luân chuyển, chạy quyền thế, chạy
danh vọng của Trịnh Xuân Thanh bị phanh phui. Y làm cú chạy ngoạn mục ra
nước ngồi, rồi sau đó tự thú. Theo đó, cơ quan bảo vệ pháp luật mới xét xử
được.
Phần ơng Đinh La Thăng, dính vào 2 vụ án, đã lĩnh 30 năm tù, bắt buộc
phải bồi thường 600 tỷ đồng cho PVC. Số tiền bồi thường q lớn. Cơ quan
thi hành án cịn xác minh thơng tin về nhà, đất trước đây của ông Đinh La
Thăng sinh sống tại khu đô thị Sông Đà - Sudico, phường Mỹ Đình 1, quận
Nam Từ Liêm, Hà Nội.
Vụ án Phan Văn Anh Vũ (“Vũ nhôm”) cũng động trời không kém.
Có biệt danh “Vũ nhơm” vì Phan Văn Anh Vũ từng làm nghề nhơm
kính. “Vũ nhơm” được xem là một bố già, trùm bất động sản ở Đà Nẵng. Y là
Chủ tịch Hội đồng Thành viên The Sunrise Bay Đà Nẵng, Chủ tịch HĐQT
Công ty Cổ phần Xây dựng Bắc Nam 79 ở Đà Nẵng (10% cổ phần Ngân hàng
Đông Á Bank), Chủ tịch Công ty Cổ phần NOVA Bắc Nam 79 ở thành phố
Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Thành viên Công ty IVC. Y sở hữu hàng
chục ngôi nhà, đất công ở trung tâm Đà Nẵng.
15
Dư luận xôn xao “Vũ nhôm” làm chủ nhiều khu “đất vàng” ở trung tâm
thành phố Đà Nẵng có sự ưu ái “nhúng chàm” của một số lãnh đạo chủ chốt
của Đà Nẵng.
Từ 8/4 đến 14/5/2017, Tạp chí Giao thơng Vận tải điện tử cho đăng 8
kỳ bài của nhà báo Dương Hằng Nga, Trưởng Văn phòng đại diện của Tạp chí
ở khu vực Miền Trung và Tây Nguyên, phanh phui những sai phạm nghiêm
trọng của dự án khu đô thị quốc tế Đa Phước (The Sunrise Bay Đà Nẵng).
Khoảng tối của “Vũ nhôm” không ai dám đụng đến dần được đưa ra
ánh sáng.
Tháng 9/2017, theo chỉ đạo của Chính phủ, Cơ quan An ninh Điều tra
Bộ Công an vào cuộc, tiến hành điều tra 9 dự án đầu tư và 31 nhà, đất cơng
sản ở trung tâm Đà Nẵng.
Ơng Nguyễn Xuân Anh đã nhận cái gọi là “quà tặng” liên quan đến
“Vũ nhôm” gồm 1 ô tô xịn và 2 ngơi nhà… Ơng đã mất tất cả, mất chức Bí
thư Thành ủy Đà Nẵng và chức Ủy viên Trung ương Đảng khóa XII.
Hai ơng Trần Văn Minh, Văn Hữu Chiến - nguyên Chủ tịch UBND
thành phố cùng nhiều cán bộ khác dính vào vụ án “Vũ nhơm”.
Ơng Trần Văn Minh, ngun Ủy viên Trung ương Đảng khóa XI. Ơng
được điều động giữ chức Phó Trưởng ban Tổ chức Trung ương, nghỉ hưu
tháng 1/2016 theo chế độ. Ông bị bắt tạm giam để điều tra vì trong số 9 dự án
và 31 nhà, đất công sản đều xảy ra dưới thời ông làm Chủ tịch UBND thành
phố. Chỉ riêng với “Vũ nhôm” ông đã ký quyết định liên quan đến 3 dự án lớn
và hơn chục tịa nhà, đất cơng sản ở các đường Bạch Đằng, Lê Duẩn, Nguyễn
Thái Học, Hoàng Văn Thụ, Trần Phú… với giá chuyển nhượng rất rẻ.
Ơng Văn Hữu Chiến, người kế tiếp ơng Trần Văn Minh làm Chủ tịch
UBND thành phố Đà Nẵng, bị cấm đi khỏi nơi cư trú.
Năm 2016, “Vũ nhôm” đã tặng Công an thành phố Đà Nẵng 50 xe mô
tô Yamaha Exciter 1500cc và thêm 4 mô tô đặc chủng đang đặt hàng với tổng
số tiền hơn 4 tỷ đồng.
Khơng cịn thế lực nào bảo kê, “Vũ nhôm” đã trốn sang Singapore.
16
Nhưng lưới trời lồng lộng khơng thốt thân, hiện đang lĩnh án 9 năm tù.
Tình trạng tham nhũng diễn ra ngày càng phức tạp, tham nhũng xảy ra
trên tất cả các lĩnh vực từ dầu tư xây dựng, giao thông vận tải, kinh tế và cả
giáo dục. Đảng và Nhà nước ta đã có những quan điểm, biện pháp trong cơng
tác phịng, chống tham nhũng, vận dụng có hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh về
phịng, chống tham nhũng
2.2. Về nguyên nhân của thực trạng
2.2.1. Nguyên nhân chủ quan
Ta có thể khái quát một số nguyên nhân dễ nhận thấy như sau:
- Phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên bị suy thối;
cơng tác quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên còn yếu kém;
- Cải cách hành chính vẫn cịn chậm và lúng túng, cơ chế “xin - cho”
trong hoạt động cơng vụ cịn phổ biến; thủ tục hành chính phiền hà, nặng nề,
bất hợp lý;
- Sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác phòng, chống tham nhũng trong
một số trường hợp chưa chặt chẽ, sâu sát, thường xuyên; xử lý chưa nghiêm
đối với hành vi tham nhũng.
- Thiếu các công cụ phát hiện và xử lý tham nhũng hữu hiệu.
Những năm qua, hoạt động điều tra, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán,
giám sát đã thu được một số kết quả tích cực nhưng trên thực tế vẫn chưa đáp
ứng được yêu cầu của cơng tác đấu tranh phịng, chống tham nhũng. Về pháp
luật, chúng ta chưa có những quy định cho phép các cơ quan chức năng áp
dụng các biện pháp đặc biệt để có thể phát hiện các hành vi tham nhũng nên
hiệu quả phát hiện tham nhũng chưa cao.
- Việc huy động lực lượng đông đảo của nhân dân cũng như sự tham
gia của lực lượng báo chí vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng còn chưa
được quan tâm đúng mức.
Báo chí và các phương tiện thơng tin đại chúng đóng một vai trò rất
quan trọng trong việc phát hiện và đấu tranh chống những hành vi vi phạm
trong hoạt động của bộ máy nhà nước, nhất là tệ tham nhũng. Báo chí vừa có
17
tác dụng cảnh báo những nơi có nguy cơ tham nhũng, vừa tham gia phát hiện
và đặc biệt là tạo nên dư luận mạnh mẽ đòi xử lý tham nhũng. Đây là kinh
nghiệm chung của các nước trên thế giới.
Thứ nhất, nguyên nhân và động cơ chủ yếu của tham nhũng là lịng
tham của con người hám lợi, ích kỷ khi có chức quyền trong tay dễ bị đồng
tiền làm mờ mắt, điều khiển, dễ bị thao túng, kiểm soát hành động và vì lợi
ích của bản thân, của nhóm lợi ích mà khơng màng lợi ích của tập thể, lợi ích
của nước nhà. Lợi ích nhóm cũng xuất phát từ lợi ích cá nhân mà ra. Nếu
khơng vì nhóm là từ những cá nhân mà hình thành, nếu cá nhân nào cũng tư
lợi và có móc nối với nhau thì sẽ là lợi ích nhóm. Vì lợi ích cá nhân, người ta
có thể làm tất cả, bất chấp mọi thủ đoạn, mọi hậu quả để đạt được dù hành vi
đó là vi phạm đạo đức, pháp luật, hay vi phạm nghiêm trọng kỷ luật đảng.
Thứ hai, do lối sống ỷ lại, lười lao động thích hưởng thụ của một bộ
phận, tầng lớp trong xã hội, đặc biệt là giới trẻ ngày nay. Chính lối sống này
kết hợp với bản chất ích kỷ, đam mê lợi ích vật chất của các bậc phụ huynh,
cán bộ, công chức. Lối sống hưởng thụ len lỏi vào các cơ quan công quyền
thể hiện ở sự quan liêu và suy đồi của khơng ít cán bộ, công chức, viên chức
nhà nước.
Thứ ba là do cuộc sống, áp lực công việc, do môi trường xung quanh;
do giáo dục, do cơ chế và do chính bản thân mà đạo đức con người ngày càng
bị suy thoái, tha hóa. Điều này làm cho tệ tham nhũng càng có điều kiện thuận
lợi để phát sinh và lan rộng trong tồn xã hội. Tình trạng này đang có xu
hướng ngày càng tăng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung
ương Đảng khố X nhận định: “Cơng tác cán bộ nói chung và việc quản lý,
giáo dục cán bộ, đảng viên, cơng chức nói riêng cịn yếu kém. Một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức suy thối về tư tưởng chính trị, phẩm
chất đạo đức, lối sống.
Khơng ít cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành, kể cả cán bộ
lãnh đạo cao cấp, cịn thiếu gương mẫu trong việc giữ gìn phẩm chất đạo đức;
chưa đi đầu trong cuộc sống đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và thực
18
hành tiết kiệm”. Hơn nữa, một bộ phận cán bộ, cơng chức chưa có ý thức rèn
luyện, tu dưỡng đạo đức, lối sống, tư tưởng chính trị. Điều này dẫn đến sự tha
hóa, suy thối về đạo đức khơng thể tránh khỏi của các công chức, viên chức
nhà nước, sẵn sàng vì lợi ích cá nhân mà tham nhũng. Đảng và Nhà nước ta
đã nhận ra được nguyên nhân này, nhưng biện pháp giải quyết chưa thật sự
hiệu quả. Ở nguyên nhân này, môi trường làm việc là điều kiện khách quan
ảnh hưởng đến sự suy thoái đạo đức. Hiện tượng đút lót, quà cáp để vụ lợi
trong các cơ quan công quyền không phải là điều quá xa lạ và diễn ra ở hầu
hết mọi nơi. Trong một môi trường như vậy, nếu như không “nhập gia tùy
tục”, người ta sẽ bị hất tung khỏi “dây truyền lợi ích”.
Thứ tư là do tâm lý “truyền thống văn hóa” và trình độ nhận thức của
một bộ phận người dân cịn yếu kém. Với quan niệm “dầu bôi trơn bánh xe”,
“đầu xuôi đuôi lọt”, “đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn” và nghĩ rằng giải
pháp nhanh nhất, hiệu quả nhất để giải quyết công việc là “thủ tục đầu tiên”
cũng là nguyên nhân thúc đẩy tham nhũng. Hơn thế, người ta cịn dùng hối lộ,
q cáp như một hình thức “kết thân”, “đầu tư chiều sâu”, “đầu tư vào tương
lai” để tạo thuận lợi cho con đường công danh sự nghiệp sau này cho cả bản
thân lẫn người thân. Chính hành vi tâm lý và trình độ nhận thức này đã vơ
tình làm cho khơng ít cán bộ, nhân viên bị tham nhũng thụ động. Tình trạng
này kéo dài làm xuất hiện tư tưởng gây khó dễ ở cán bộ, cơng chức để nhận
“phong bì” từ dân mới giải quyết công việc, cho rằng nhận hối lộ là một thủ
tục tất yếu trong q trình xử lý cơng việc. Vơ hình trung điều này tạo nên
một cách suy nghĩ, một thói quen xấu trong cả cán bộ cơng chức và cả những
người muốn dùng tiền để giải quyết công việc, dần dần hình thành nên “văn
hóa phong bì”.
Thứ năm và cũng là nguyên nhân quan trọng, dễ dẫn đến tham nhũng
nhất đó chính là sự sơ hở, bất cập, thiếu cơng khai, thiếu minh bạch, cơ chế
“xin - cho”cịn tồn tại. Đây là nguyên nhân thường xuyên được đề cập và lặp
đi lặp lại nhiều lần trong các phiên họp của Quốc hội. Nguyên nhân này thể
hiện ở chỗ: cơ chế kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng, quản lý, luân chuyển tài
19
sản có nhiều sơ hở, giao tài sản cho nhân viên nhưng khơng có biện pháp
kiểm tra, giám sát chặt chẽ, gian lận trong công tác để chiếm đoạt tài sản,...
Các thủ tục, quy định của Nhà nước chưa được cơng khai, rõ ràng nên nhân
dân có suy nghĩ “tiếp cận, giải quyết” mới xong, tạo điều kiện cho cán bộ
tham nhũng; thiếu công khai, minh bạch trong công tác quản lý, trong công
tác kê khai tài sản, trong công tác sử dụng tài sản, và thiếu minh bạch trong
các văn bản, quy định, thủ tục. Hơn nữa, việc thiếu trách nhiệm giải trình của
các lãnh đạo cấp cao ở các cơ quan, đơn vị cũng dẫn đến tình trạng thiếu công
khai, minh bạch mặc dù việc báo cáo nghe có vẻ vẫn rất “ổn”, “tốt” trong khi
thực tế đó chỉ là “báo cáo láo”.
Thứ sáu, một nguyên nhân cần được nghiên cứu thêm đó là tư duy
chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên còn phảng phất tư duy “truyền
thống”, phong kiến, manh mún, chắp vá, thiếu tính hệ thống dẫn đến thiếu
mạnh dạn và quyết tâm trong việc thực hiện đường lối đổi mới, đặc biệt là đổi
mới tư duy chính trị.
Bên cạnh một số nguyên nhân chủ quan cơ bản nêu trên cịn có những
ngun nhân khách quan rất quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến tình trạng
tham nhũng ở nước ta.
20
2.2.2. Về nguyên nhân khách quan
Thứ nhất là việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa
triệt để, khơng theo kịp được trình độ phát triển của hoạt động thực tiễn.
Trong quá trình lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, để xây dựng,
phát triển và bình ổn trật tự xã hội cịn nghiêng về “đức trị”, “nhân trị” mà
chưa nghiêng về “pháp trị”. Chính sách thưởng phạt chưa đủ sức răn đe người
phạm tội và khuyến khích người lập cơng, tố giác tội phạm.
Thứ hai là do hệ thống pháp luật, chính sách ở nước ta thiếu đồng bộ,
chưa thỏa đáng và nhất quán; trong xử lý, chế tài chưa nghiêm minh, pháp
luật còn nhiều kẽ hở, cơ chế quản lý còn nhiều yếu kém. Các thủ tục hành
chính hay giấy tờ, đất đai đều chưa minh bạch, rườm rà, cơ chế quản lý bất
động sản chưa hiệu quả và chặt chẽ tạo kẽ hở cho các cán bộ, viên chức tham
nhũng. Pháp luật là công cụ mạnh nhất để ngăn chặn, chế tài và xử lý tham
nhũng nhưng pháp luật lại chưa nghiêm, lỏng lẻo tạo điều kiện, cơ hội cho
tham nhũng phát triển.
Thứ ba là do những bất cập trong triết lý về giáo dục, chưa hình thành
được một triết lý giáo dục đủ tầm cỡ, làm trụ cột lâu dài, xuyên suốt và bền
vững trong quá trình phát triển, kể cả giáo dục nói chung và giáo dục pháp
luật nói riêng; giáo dục đạo đức cán bộ, đảng viên trong giai đoạn phát triển
kinh tế thị trường chưa được chú trọng đúng mức. Hơn nữa, việc đưa những
người thiếu năng lực và thiếu phẩm chất đạo đức vào làm cho các cơ quan
nhà nước do “quan hệ”, nể nang, “đi đêm”,... làm suy thối hệ thống chính trị
và làm cho tình trạng tham nhũng ngày càng phát triển nhanh chóng.
Thứ tư là do sự quản lý, thanh tra, kiểm tra lỏng lẻo, yếu kém của Nhà
nước; xử lý qua loa, chỉ mang tính “hình thức” như cảnh cáo, phê bình hoặc
chủ trương “đại sự hóa tiểu sự, tiểu sự hóa vơ sự” vì người vi phạm thường là
cán bộ có quyền lực và địa vị, nên chưa mang tính răn đe. Các cán bộ cấp cao
và cấp trên chưa làm gương cho cấp dưới, chưa thấm nhuần tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh với phương châm “một tấm gương sống về đạo đức gấp hàng
trăm, hàng nghìn bài diễn thuyết”. Việc chấp hành kỷ luật cũng bị xem nhẹ
21
dẫn đến tình trạng “phép vua thua lệ làng”, “trên bảo dưới không nghe”,...
Người quản lý, thanh tra, kiểm tra, điều tra cũng chưa thật sự mạnh tay và làm
việc có hiệu quả, vẫn cịn nặng tình trạng “báo cáo tốt”, tệ hại hơn còn đồng
lõa, “gợi ý” làm cho tệ tham nhũng gia tăng, khó có thể ngăn chặn, phát hiện,
xử lý kịp thời.
Thứ năm là do việc thực hiện chính sách phịng, chống tham nhũng của
nước ta chưa hiệu quả, đồng bộ, chưa đáp ứng được thực trạng tham nhũng
hiện nay, thiếu một chương trình phịng, chống lâu dài, tổng thể mà chỉ chủ
yếu tập trung vào việc giải quyết những vụ “tham nhũng vặt”, nhỏ lẻ. Mặt
khác, các chính sách của nước ta chưa khuyến khích tồn dân và cả hệ thống
chính trị cùng phịng, chống tham nhũng. Chúng ta chưa có cơ chế hữu hiệu
để bảo vệ những người phát hiện và dám tố cáo tham nhũng. Việc tuyên
dương người đứng lên tố cáo tham nhũng hiện nay cũng chưa phải là giải
pháp hiệu quả để động viên toàn dân tham gia. Hơn nữa, người “đưa hối lộ”
đi tố cáo tham nhũng cũng bị khép tội “đưa hối lộ” nên cũng làm hạn chế việc
tố cáo tham nhũng của nhân dân.
Thứ sáu là do mặt trái của nền kinh tế thị trường và sự phân cực giữa
các giai tầng trong xã hội ngày càng sâu sắc làm cho các giá trị đạo đức bị đảo
lộn. Đồng tiền đang lên ngôi trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Khi đồng
tiền được xem là “thước đo của vạn vật” thì các giá trị đạo đức, nhân phẩm sẽ
bị coi nhẹ. khơng ít tổ chức, cá nhân vì những mục tiêu riêng để tồn tại trong
cuộc cạnh tranh khốc liệt đã dùng mọi thủ đoạn, trong đó có thủ đoạn hối lộ
được sử dụng phổ biến nhất. Hơn nữa, chính sách tuyển dụng, trọng dụng và
đãi ngộ các nhân viên cơng quyền chưa thỏa đáng (chính sách tiền lương) là
nguyên nhân góp phần thúc đẩy mọi người cần phải kiếm thêm để bù đắp cho
gia đình họ làm cho tình trạng tham nhũng phát triển và lan rộng.
22
Chương III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÒNG , CHỐNG THAM NHŨNG
3.1. Giải pháp phịng, chống tham nhũng
3.1.1. Cơng khai, minh bạch trong hoạt động
Công khai, minh bạch trong là hoạt động cần thiết không những đối với hoạt
động của các cơ quan đơn vị mà còn đối với các cá nhân
3.1.1.1. Công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn
vị
Đây là biện pháp quan trọng đầu tiên để ngăn ngừa tham nhũng. Công
khai, minh bạch sẽ tạo điều kiện để người dân cũng như toàn xã hội tham gia
giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước. Với việc công khai minh bạch
trong hoạt động tại các cơ quan nhà nước, người dân sẽ dễ dàng nhận biết
được các quyền và nghĩa vụ của mình để chủ động thực hiện theo các quy
định của pháp luật cũng như đòi hỏi các cơ quan nhà nước và các cán bộ,
công chức nhà nước thực hiện các quy định đó. Cơng khai, minh bạch sẽ làm
cho cơng chức nhà nước có ý thức hơn trong việc thực hiện chức trách, cơng
vụ của mình theo đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền mà pháp luật quy định
bởi mọi hành vi vi phạm, phiền hà, sách nhiễu hay lợi dụng chức trách để tư
lợi đều có thể bị phát hiện và xử lý. “Công khai và minh bạch là những chìa
khóa then chốt nhằm bảo đảm đấu tranh chống tham nhũng thành cơng”. Luật
Phịng, chống tham nhũng đưa ra các nguyên tắc và những quy định cụ thể để
bảo đảm cho việc thực hiện công khai, minh bạch trong một số hoạt động cụ
thể, nhất là những lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng như: trong mua sắm công và
xây dựng cơ bản, trong quản lý dự án đầu tư xây dựng, tài chính và ngân sách
nhà nước, việc huy động và sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân, việc
quản lý, sử dụng các khoản hỗ trợ, viện trợ, trong quản lý doanh nghiệp của
Nhà nước, trong cổ phần hóa doanh nghiệp của Nhà nước, việc sử dụng ngân
sách, tài sản của Nhà nước, trong quản lý và sử dụng đất, trong quản lý, sử
dụng nhà ở, trong lĩnh vực giáo dục...
23
3.1.1.2. Công khai, minh bạch trong hoạt động kê khai tài sản của cá
nhân
Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 cũng đã quy định một cách
khá toàn diện và đầy đủ những nội dung cơ bản nhất của một hệ thống minh
bạch tài sản, bao gồm những vấn đề chính sau:
+ Cán bộ, công chức phải kê khai tài sản hằng năm để tránh che giấu, tẩu
tán tài sản tham nhũng; ngoài việc kê khai tài sản của bản thân, cán bộ, cơng
chức cịn phải kê khai tài sản của vợ hoặc chồng và con chưa thành niên.
+ Việc xác minh tài sản được tiến hành trong một số trường hợp nhất định.
Khi xem xét đề bạt, bổ nhiệm, bầu cử hoặc có hành vi tham nhũng thì thủ trưởng
cơ quan tổ chức việc xác minh tài sản để xem cán bộ, cơng chức có kê khai trung
thực hay khơng.
+ Bản kết luận về sự minh bạch trong kê khai tài sản được công khai
trong một số trường hợp nhất định theo yêu cầu và trên cơ sở quyết định của
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
+ Người có nghĩa vụ kê khai tài sản sẽ phải chịu trách nhiệm kỷ luật nếu
kê khai không trung thực, nếu là người ứng cử thì sẽ bị loại khỏi danh sách
bầu cử, người được dự kiến bổ nhiệm, phê chuẩn thì sẽ không được bổ nhiệm,
phê chuẩn vào chức vụ dự kiến.
3.1.2. xây dựng và thực hiện các chế độ, định mức, tiêu chuẩn
Chế độ, định mức, tiêu chuẩn trong các lĩnh vực quản lý luôn liên quan
đến việc sử dụng tài sản, vốn và ngân sách nhà nước. Việc thực hiện một cách
tùy tiện và trái phép các tiêu chuẩn, chế độ, định mức đó sẽ dẫn đến việc tài
sản của Nhà nước bị thất thoát, tiền bạc hoặc những lợi ích vật chất rơi vào
một số ít người. Đây chính là hành vi tham nhũng cần ngăn chặn.
Điều 34 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định về những
nguyên tắc trong việc xây dựng, ban hành và thực hiện các chế độ, định mức, tiêu
chuẩn như sau:
- Cơ quan nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách
24