BÁO CÁO CUỐI KÌ
MƠN: TRIẾT HỌC MÁC- LÊNIN
Đề tài 1: Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, sự vân dụng của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay.
Lời cam đoan
Chúng em xin cam đoan Báo cáo cuối kỳ do nhóm 5 nghiên cứu và thực hiện.
Chúng em đã kiểm tra dữ liệu theo quy định hiện hành.
Kết quả báo có cuối kỳ là trung thực và khơng sao chép từ bất kỳ báo cáo của nhóm
khác.
Các tài liệu được sử dụng trong Báo cáo cuối kỳ có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU: KHÁI QUÁT VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội ngày một tiên tiến, các cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã đưa
cuộc sống con người phát triển lên một tầm cao mới. Vì vậy, để theo kịp các nước
trong khu vực, Đảng và Nhà nước ta đã và đang tiến hành đổi mới tồn diện đất nước.
Chương trình đổi mới bắt đầu được thực hiện từ Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt
Nam lần thứ VI, năm 1986 và đã mang lại nhiều kết quả to lớn 1. Góp một phần quan
trọng mang lại những thành tựu to lớn trong chương trình đổi mới đất nước đó là nhận
thức đúng đắn và sự vận dụng của Đảng và Nhà nước ta về mối quan hệ giữa vật chất
và ý thức trong quan điểm Triết học Mác-Lênin. Trên con đường đổi mới hiện nay, đất
nước ta đang phải gánh chịu đại dịch Coivd-19 diễn biến phức tập. Trong tình hình đó,
việc phòng chống dịch và ổn định nền kinh tế, đời sống nhân dân là nhiệm vụ vô cùng
cấp thiết. Để giải quyết được vấn đề cấp thiết đó cần đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu về
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, từ đó đưa ra được những giải pháp góp phần phát
triển đất nước trong tình hình hiện nay. Chính vì vậy, nhóm chúng tơi đã chọn đề tài
nghiên cứu về: “ Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, sự vận dụng của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Phân tích những khái niệm, đặc trưng cơ bản của mối quan hệ biện chứng
giữa vật chất và ý thức trong quan điểm Triết học Mác-Lênin.
- Phân tích sự tác động của mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
đến sự phát triển của đất nước.
- Sự vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới.
3. Đối tượng nghiên cứu
Ảnh hưởng của mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức đến sự phát
triển, đổi mới của Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu
Địa bàn nghiên cứu: Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩ Việt Nam
1 Đổi Mới, vi.wikipedia.org
3
Thời gian nghiên cứu: 2021
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Quan điểm của Triết học Mác-Lênin về mối quan hệ biện
chứng giữa vật chất và ý thức.
Phương pháp chung: Phương pháp diễn dịch-quy nạp, phân tích-tổng hợp,...
Phương pháp cụ thể: Phương pháp thu thập, nghiên cứu, phân tích tài liệu; thảo
luận nhóm,...
6. Kết cấu nội dung
Nội dung báo cáo gồm 3 phần chính: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết
luận. Trong đó phần nội dung được chia làm 2 chương.
4
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1. Khái niệm vật chất, ý thức
1.1 Định nghĩa vật chất
Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc và khái quát những thành tựu mới nhất
của khoa học tự nhiên, kế thừa những tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen, vào năm
1908, trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, V.I. Lênin
đã nêu ra định nghĩa kinh điển về vật chất: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để
chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của
chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” 2. Định
nghĩa này bao hàm những nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, vật chất là thực tại khách quan.
Đối lập với những quan niệm duy tâm chủ nghĩa về phạm trù này, V.I. Lênin
nhấn mạnh: "đặc tính" duy nhất của vật chất - mà chủ nghĩa duy vật triết học là gắn
liền với việc thừa nhận đặc tính này - là cái đặc tính tồn tại với tư cách là thực tại
khách quan, tồn tại ở ngoài ý thức của chúng ta.
Nhắc đến vật chất là nhắc đến tất cả những gì đã và đang hiện hữu bên ngoài
hiện thực cuộc sống, bên ngoài ý thức của con người. Vật chất là hiện thực chứ không
phải hư vô và hiện thực này là khách quan chứ không phải hiện thực chủ quan (tức ý
thức). Mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, dù có “kỳ lạ” đến đâu, nhưng đã tồn tại với
tính cách là hiện thực khách quan thì đều là các dạng khác nhau của vật chất. V.I.
Lênin đã chỉ ra được một “đặc tính duy nhất của vật chất” thoả mãn được mọi vấn đề đặc trưng cho mọi dạng vật chất, phân biệt được sự khác nhau giữa vật chất và ý thức,
đồng thời chỉ rõ tính thứ nhất của vật chất so với ý thức - đó chính là đặc tính tồn tại
với tính cách là hiện thực khách quan.
Thứ hai, vật chất là tất cả sự vật, hiện tượng, quá trình mà khi tác động vào các
giác quan thì mang lại cho ta cảm giác.
Vật chất ln biểu hiện đặc tính “hiện thực khách quan” của mình thông qua sự
tồn tại của các sự vật, hiện tượng cụ thể, tức là thông qua các thực thể. Nhắc đến vật
2 Trích dẫn từ V.I. Lênin: Tồn tập, NXB. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t18, tr.151. 85
5
chất là nhắc đến thực thể, đến tính thực thể của nó. Tính chất thực thể là một trong
những đặc trưng chung của các sự vật, hiện tượng vật chất trong sự khác biệt với các
hiện tượng ý thức. Do tồn tại dưới dạng các thực thể nên khi tác động vào các giác
quan của con người theo một cách nào đó (gián tiếp hay trực tiếp) các sự vật, hiện
tượng vật chất mới được đem lại cho con người trong cảm giác. Và chính là theo
phương thức đó mà con người có thể nhận thức được thế giới vật chất nói chung.
Thứ ba, vật chất - cái mà ý thức của con người có được là hình ảnh của nó do
phản ánh mang lại.
Các loại hiện tượng vật chất tồn tại với tính cách là hiện thực khách quan,
khơng lệ thuộc vào hiện tượng tinh thần. Thế giới này là duy nhất và thống nhất nên
các hiện tượng tinh thần tất yếu phải có nguồn gốc từ các hiện tượng vật chất và xét về
thực chất chúng chỉ là sự chép lại, chụp lại, phản ánh lại các hiện tượng vật chất. Nói
theo một cách khác, vật chất là cái cấu thành nội dung của ý thức hay ý thức chẳng qua
chỉ là hình ảnh đã được cải biến của thế giới vật chất bên trong bộ óc con người.
Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử, thơng qua một định nghĩa khoa học về vật
chất, V.I. Lênin đã giải quyết được trọn vẹn cả hai mặt vấn đề cơ bản của triết học trên
lập trường của chủ nghĩa duy vật triệt để, từ đó, vừa chống lại được những quan điểm
duy tâm, thuyết bất khả tri, vừa khắc phục được những hạn chế của chủ nghĩa duy vật
trước Mác về phạm trù vật chất. Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin khơng những góp
phần đưa chủ nghĩa duy vật lên một tầm cao mới, góp phần vào việc làm rõ quan niệm
về vật chất trong lĩnh vực xã hội, mà cịn góp phần khắc phục sự khủng hoảng về mặt
thế giới quan trong đội ngũ các nhà triết học và khoa học tự nhiên, qua đó thúc đẩy họ
tiếp tục đi sâu tìm hiểu thế giới vật chất, củng cố thêm mối liên minh chặt chẽ giữa
khoa học tự nhiên và chủ nghĩa duy vật triết học.
1.2 Định nghĩa ý thức
Ý thức là một phạm trù triết học dùng để chỉ hình thức phản ánh của một dạng
vật chất đặc biệt, có tổ chức cao - đó là bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan giới
khách quan.
6
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức con người là sản
phẩm của quá trình phát triển tự nhiên và xã hội. Ý thức ra đời từ nguồn gốc tự nhiên
và nguồn gốc xã hội.
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất đặc biệt, có tổ chức cao là "óc
người". Ý thức là hình thức phản ánh cao nhất của thế giới vật chất.
Con người là sản phẩm của q trình tiến hố lâu dài của thế giới vật chất, từ vô cơ
đến hữu cơ, từ đơn bào đến đa bào, từ động vật bậc thấp đến động vật bậc cao. Bộ óc
con người là sản phẩm phát triển cao nhất của vật chất có cấu tạo rất tinh vi, là cơ quan
vật chất của ý thức. Hoạt động ý thức chỉ diễn ra trong bộ não người, trên cơ sở các
quá trình sinh lý thần kinh của bộ não.
Ý thức là thuộc tính của bộ não người, là sự phản ánh thế giới khách quan vào
bộ não. Phản ánh là năng lực giữ lại, tái hiện của hệ thống vật chất này, những đặc
điểm của hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng. Thuộc
tính phản ánh gắn với sự tiến hố của hệ thống vật chất từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp. Sự phát triển của các hình thức phản ánh từ thấp đến cao tương ứng với
trình độ kết cấu của thế giới vật chất, phản ánh ý thức của con người là hình thức phản
ánh cao nhất của thế giới vật chất.
Như vậy, não người và sự tác động của thế giới vật xung quanh lên bộ não là
nguồn gốc tự nhiên của chất ý thức.
Nguồn gốc xã hội của ý thức.
Lao động và ngôn ngữ là nguồn gốc xã hội của ý thức.
Lao động là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo ra những
sản phẩm phục vụ cho các nhu cầu của mình, là q trình trong đó bản thân con người
đóng góp vai trị mơi giới điều tiết và giám sát trong sự trao đổi vật chất giữa con
người và tự nhiên.
Thông qua lao động đã cải biến thế giới tự nhiên, sáng tạo ra con người và xã
hội; cùng với q trình đó các giác quan con người ngày càng phát triển, hoàn thiện và
khả năng phản ánh của ý thức sẽ ngày càng cao.
7
Thông qua lao động con người chế tạo ra công cụ lao động, nối dài các giác
quan. Công cụ càng phát triển càng làm tăng khả năng của con người tác động vào tự
nhiên, xã hội và chính bản thân mình, buộc thế giới khách quan bộc lộ các thuộc tính
để con người nhận thức, cải tạo thoả mãn nhu cầu.
Trong q trình lao động, con người có nhu cầu trao đổi kinh nghiệm với nhau
từ đó ngơn ngữ ra đời và phát triển cùng với lao động.
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu thứ hai, là "cái vỏ vật chất" của tư duy, là công cụ
của tư duy để con người phản ánh khái quát hoá, trừu tượng hoá các sự vật hiện tượng
của thế giới khách quan. Ngôn ngữ là phương tiện để lưu truyền tri thức từ thế hệ này
sang thế hệ khác, giúp loài người và mỗi người nhanh chóng hình thành, phát triển ý
thức.
Lao động cùng với ngơn ngữ là nguồn gốc xã hội hình thành ý thức có mối
quan hệ chặt chẽ, thống nhất biện chứng với nhau. Chúng là cơ sở, tiền đề cho nhau
tồn tại phát triển, trong đó nguồn gốc xã hội ln giữ vai trị quyết định đối với sự ra
đời, phát triển của ý thức.
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải bảo đảm tính tồn diện. Trên cơ sở
nguồn gốc xã hội, phải quan tâm đúng mức đến nguồn gốc tự nhiên. Tránh tuyệt đối
hoá, hoặc tách rời các nguồn gốc với nhau, đồng thời kiên quyết đấu tranh chống quan
điểm coi nhẹ hoặc phủ nhận nguồn gốc xã hội. Điều đó có nghĩa, cùng với phát triển
trí lực, thể lực con người cần phải quan tâm đúng mức tới các hoạt động xã hội, tạo
điều kiện môi trường xã hội tốt đẹp cho con người hoạt động và phát triển.
2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Vạn vật xung quanh chúng ta đều được cấu thành từ nhiều thực thể mn hình
vạn trạng. Nhưng mặc cho có tính đa dạng và phong phú tới đâu thì cũng hội tụ về hai
lĩnh vực: vật chất và ý thức. Có thể nói: Vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa chúng
được gọi là vấn đề cơ bản vì:
2.1 Vật chất quyết định sự khai sinh của ý thức
Từ định nghĩa của Lê-nin ta thấy được, vật chất quyết định nguồn gốc của ý
thức, tồn tại một cách khách quan và là cái có trước, ý thức là cái có sau, được sinh ra
từ vật chất. Bộ óc con người là một dạng vật chất có cấu tạo đặc biệt, là nền tảng của ý
8
thức thông qua hoạt động sinh lý thần kinh của não bộ trong quá trình phản ánh thế
giới xung quanh, là sự tương tác giữa não với thế giới khách quan. Vậy nên, một khi
bộ não của người khơng cịn hoạt động được nữa thì nó đồng nghĩa với việc phần ý
thức đó sẽ khơng cịn tồn tại. Hẳn ai trong chúng ta cũng được nghe qua câu chuyện
một cậu bé bị bỏ lại ở rừng xanh sâu thẳm, cậu bé được ni dưỡng bởi một đàn sói
trong suốt qng thời gian dài đằng đẵng, cho đến khi cậu được trả về xã hội lồi
người thì cậu hồn tồn khơng biết cách cư xủa của con người, khả năng giao tiếp
cũng như hành động của cậu hoàn toàn chỉ như một chú sói, nói cách khác, phần ý
thức trong cậu không hề tồn tại.
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào não người, là hình ảnh chủ quan của
hiện thực khách quan. Vì vậy, nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất.
Hơn thế nữa, vật chất còn quyết định bản chất của ý thức, ý thức phản ánh hiện
thực khách quan nhưng không vận hành như một chiếc máy ảnh, một chiếc gương soi
mà là một sự phản ánh có chiều sâu và tính cực, nhằm giúp nhân loại từ đó kiến tạo tự
nhiên một cách tốt đẹp hơn. Lao động và ngôn ngữ, đây có thể coi là nguồn gốc xã hội
của ý thức, là phương tiện giúp con người cải biên thế giới khách quan, là hạn mức
quyết định sự hình thành, tồn tại và phát triển của ý thức. Nhờ có lao động mà các giác
quan con người phát triển mạnh mẽ để phản ánh thấu đáo hơn về hiện thực, trong khi
đó ngơn ngữ lại là cầu nối để trao đổi cảm xúc, là phương tiện để thể hiện ý thức.
Tóm lại, vật chất là đối tượng, là khách thể hay thậm chí cũng là một tiền đề
cho sự tồn tại và phát triển của ý thức. Nó quy định nguồn gốc, nội dung, bản chất
cũng như sự vận động và phát triển của ý thức. Vật chất có ra sao thì ý thức sẽ như thế
ấy, nếu vật chất biến đổi thì sớm hay muộn ý thức cũng phải thay đổi theo. Điển hình
như ở một số bệnh nhân, vật chất tức bộ não của họ bị tổn thương thì phần ý thức
trong họ cũng đã biến đổi theo, chúng rối loạn, mất kiểm soát và hầu như các hoạt
động diễn ra trên cơ chế sinh lý thần kinh não bộ khơng cịn được coi là bình thường.
Chính vì thế, vật chất là cái có trước, quyết định sự ra đời của ý thức.
9
2.2 Sự tác động trở lại của ý thức lên vật chất
Như ta đã biết, ý thức là do vật chất sinh ra nhưng khơng vì thế mà nó phụ
thuộc hồn tồn vào vật chất, nó ln có quy luật riêng để vận động và phát triển. Về
mặt cơ bản, ý thức có tính động lập tương đối so với vật chất.
Trong ý thức ln có sự năng động và sáng tạo thông qua các hoạt động thực
tiễn của con người. Hay nói khác hơn “Mọi hoạt động của con người đều thơng qua
bộ óc chỉ đạo3” nên vai trị của ý thức không phải trực tiếp tạo ra hay thay đổi một
thực thể nào đó mà nó trang bị cho con người tầm nhìn tri thức về thực tại, trên cơ sở
ấy con người mới có thể hình thành nên các hoạt động tinh thần như: tình cảm, cảm
xúc, thói quen, tư tưởng, lý luận,.. đồng thời cũng học được cách xác định mục tiêu, đề
ra phương án, lập kế hoạch, chọn lựa các phương pháp, biện pháp, công cụ, phương
tiện,… để thành cơng hóa mục tiêu của mình. Ở đây, chính ý thức đã thể hiện sự tác
động to lớn của mình đối với vật chất.
Tuy nhiên, khơng phải sự phản ánh nào của ý thức cũng hoạt động một cách
sng sẻ mà nó diễn ra theo hai hướng: tích cực và tiêu cực. Ý thức phản ánh đúng về
hiện thực khách quan thì sẽ giúp nhân loại cải tiến hơn trong việc thúc đẩy sự phát
triển của thế giới. Ngược lại, nếu ý thức của con người phản ánh sai lệch về hiện thực,
bản chất, quy luật khách quan thì ngay từ đầu, hướng hành động của con người đã kìm
hãm tất cả các hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới và mang đến ảnh hưởng tiêu cực. Ta
có thể thấy rõ sự tiêu cực và tích cực trên thơng qua vơ vàn câu chuyện và hình ảnh
được ghi lại trong tình hình dịch bệnh COVID-19 đang diễn ra căng thẳng như hiện
nay. Từ một số câu chuyện điển hình trên các trang mạng xã hội được kể lại rằng,
trong một khu phố với số dân cư lên đến hàng trăm con người, không may thay, một
trong số đó có kết quả xét nghiệm dương tính với COVID-19, chuyện sẽ khơng có gì
đáng nói nếu thái độ của mọi người xung quanh đối với bệnh nhân và gia đình bệnh
nhân khơng vượt q giới hạn. Đây là một mối nguy hiểm to lớn và cần phải tránh xa,
đề phòng cho bản thân nhưng mọi người lại thái q lên và có cái nhìn tiêu cực hơn về
thực tại, họ bắt đầu kì thị, xa lánh hay thậm chí tệ hơn là nói ra những lời khơng mấy
tốt đẹp, làm áp lực tinh thần bệnh nhân cũng như người thân của họ. Việc này cũng đã
3 Trích dẫn slide bài giảng chương II Triết học Mác Lê-nin của GV: TS. Đỗ Văn Thắng (ĐH Tôn Đức Thắng)
10
nói lên phần nào về việc ý thức trong họ đã phản ảnh về hiện thực khánh quan một
cách tiêu cực hóa thay vì tích cực hóa lên bằng cách cảm thông, an ủi và sẻ chia nhưng
vẫn giữ an tồn cho bản thân mình. Sự tác động của ý thức đối với vật chất hoàn toàn
dựa vào các điều kiện khách quan và chủ quan thông qua việc định hướng cho hoạt
động của con người, ý thức có thế quyết định hành động của con người đúng hay sai,
thành cơng hay thất bại, hữu ích hay vơ ích. Xã hội càng phát triển thì vai trị ý thức
càng lớn mạnh. Có thể nói : “Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế mà ở đó tri thức xã hội
phổ biến không chỉ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, mà còn là lực lượng sản
xuất chủ yếu và quan trọng nhất4.”
Tóm lại, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ đối đáp 2 chiều,
vật chất sản sinh ra ý thức nhưng đồng thời ý thức cũng tác động trở lại vật chất trên
cơ sở khách quan thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, ta nhận thấy rằng vật chất quyết định ý thức,
mọi hoạt động nhận thức, hành động thực tiễn của con người đều phải xuất phát từ
hiện thực khách quan và phải tuân theo quy luật khách quan, nghĩa là chúng ta phải có
quan điểm khách quan trong nhận thức hiện thực khách quan. Chúng ta không nên
trông chờ, ỷ lại điều kiện khách quan, đồng thời hạn chế sự chủ quan, duy ý chí, tuyệt
đối hóa vai trị của ý thức, tinh thần. Dựa vào Chủ nghĩa Duy vật biện chứng C.Mác –
Ăngghen đề ra, ta rút ra được nguyên tắc phương pháp luận: “Tơn trọng tính thực tiễn
khách quan phải kết hợp tính năng động, sáng tạo; khơng thụ động, cũng khơng duy ý
chí5.
4 Trích dẫn slide bài giảng chương II Triết học Mác Lê-nin của GV: TS. Đỗ Văn Thắng (ĐH Tơn Đức Thắng)
5 Trích dẫn slide bài giảng chương II Triết học Mác Lê-nin của GV: TS. Đỗ Văn Thắng (ĐH Tôn Đức Thắng)
11
CHƯƠNG 2: SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN TRONG QUÁ TRÌNH
ĐỔI MỚI NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Vận dụng
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã dẫn đến nhiều chuyển biến tích cực lẫn tiêu cực ở
thế kỷ XX, là chìa khóa giải đáp về các vấn đề tư tưởng, soi sáng những nhiệm vụ lịch
sử chín muồi của nhân loại, giải phóng con người khỏi sự bóc lột. Sự thành cơng của
Cách mạng Tháng Mười Nga, Xô-viết ra đời ( Nhà nước công nông đầu tiên trên thế
giới) mở ra mời thời đại mới cho nhân loại, cỗ vũ tinh thần cho các dân tộc bị chủ
nghĩa đế quốc áp bức bốc lột trên thế giới, đứng lên giải phóng dân tộc trong đó cách
mạng Việt Nam. Trong thập kỷ 80, 90 sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và
các nước Đông Âu ảnh hưởng sâu sắc đến các nước Xã Hội Chủ Nghĩa mà còn đối với
các nước Tư Bản Chủ Nghĩa. Nguyên nhân là do sai lầm trong việc áp dụng rập khuôn
của mô hình Chủ Nghĩa Xã Hội theo Tư tương Mác-Lênin. Mặc, dù trước đó trong
khoảng thời gian khi mà Chủ Nghĩa Mác-Lênin được hiện thực hóa trong mơ hình Chủ
Nghĩa Xã Hội Xô Viết đến khi xảy ra khủng hoảng đã thu được những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa thời đại.
Quay về Việt Nam, nước ta đã lấy Chủ Nghĩa Mác làm kim chỉ nam cho cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc, áp dụng trong công cuộc xây dựng đất nước và phát
triển kinh tế một cách sáng tạo. Ở đây, chúng ta chỉ nói về thành tựu của Đảng Cộng
Sản trong qua trình xây dựng đất nước.
Theo lý thuyết, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng lẫn nhau. Vật chất
yếu tố cơ sở quết định đến ý thức và nhân tố ý thức có vai trò tác dụng trở lại đối với
nhân tố vật chất. Trong hồn cảnh cụ thể chúng ta có thể thấy rằng trong một đất nước
thì giữa kinh tế ( đại diện cho vật chất ) và chính trị ( đại diện cho ý thức ) cũng có mối
quan hệ ràng buộc nhau. Một minh chứng cho thấy là một quốc gia giàu mạnh cuộc
sống người dân yên ổn, ấm no thì tình hình chính trị sẽ ổn định, mặc khác cho thấy bộ
máy nhà nước ở đó có những chính sách đường đi đúng đắn. Ngược lại nếu nói theo ý
thức tác động lại vật chất thì, một quốc gia giàu mạnh nhưng chính trị khơng ổn định,
tơn giáo giữa các Đảng phái khác nhau,... thì người dân có sung túc, ấm no nhưng phải
sống trong sợ hãi vì có thể có một cuộc chiến chết chóc. Ngồi ra, biểu hiện rõ hơn
12
giữa sự ràng buộc là mối quan hệ của nên kinh tế và chính trị ln thay đổi để phù hợp
với nhau. Con người đã từng trải qua 5 hình thái kinh tế: Thời kỳ nguyên thủy, nô lệ,
phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa ngày nay. Nếu xã hội tiến đến một
nền kinh tế mới nhưng bộ máy chính trị khơng phù hợp thì sớm muộn cũng sẽ bị lật đổ
và thay thế bằng một bộ máy mới phù hợp hơn với xã hội đó.
Sau khi thống nhất đất nước nên kinh tế ở cả hai miền điều gặp nhiều khó khăn,
lạm phát cao, năng suất yếu kém, thiếu lương thực cho nhân dân,... Trước tình hình đó
ở Đại hội Đảng lần thứ IV-V đã đề ra những kế hoạch để phát triển năm 1976-1985.
Nhưng những đánh giá sai lầm khách quan ở tình hình trong nước, Đảng đã không đưa
ra nhưng chỉ tiêu phù hợp với tình hình kinh tế trong nước nên đã đề ra những mục
tiêu quá cao so với khả năng của kinh tế trong nước. Những hoạch định phát triển sai
lầm đó đã tác động xấu đến nền kinh tế, nhân dân dẫn tới hiệu quả khơng cao, lãng phí
thời gian của nhân dân.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
đã nhận định: “Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên
cứu, tìm tịi, xây dựng đường lối, xác định đúng mục tiêu và phương hướng xã hội chủ
nghĩa. Nhưng Đảng đã sai phạm sai lầm chủ quan duy ý trí, vi phạm qui luật khách
quan: Nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành
phần; đẩy mạnh q mức việc xây dựng cơng nghiệp nặng; duy trì cơ chế quản lý tập
trung quan liêu bao cấp, có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền
lương”.
Ở đây chúng ta có thể thấy tác động của ý thức ( nhưng chính sách chủ trương
của Đảng ) đối với vật chất ( nền kinh tế ) xấu ra sao. Theo qui luật biện chứng duy vật
thì nếu ý thức tiêu cực thì sớm muộn gì cũng bị đào thải.
Đại hội thứ VI nước ta được mở ra, Đảng đã tự phê bình nghiêm khắc và chỉ ra
đúng nguyên nhân của tình hình khủng hoảng, đề ra các kế hoạch sát với nên kinh tế
nước nhà và đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Cuộc sống của
người dân được cải thiện, nền kinh tế ổn định, tình hình chính trị đất nước ổn định.
Vậy chúng ta đã thấy rõ được mối liên hệ cái vật chất và ý thức, kinh tế và chính trị.
13
Qua những năm tiếp theo tình hình kinh tế trong nước cũng đã gặt hái được
nhiều thành tựu đáng kể, chăm lo đời sống nhân dân ngày càng tốt hơn. Quan hệ
ngoại giao các năm sau cũng được mở rộng, thị trường xuất nhập khẩu được củng cố
và mở rộng, nguồn vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh,... Hội nghị Đại biểu toàn quốc
cũng nêu lên thành tựu đã đạt được và tiếp tục phát huy, đặc biệt là bên ngoại giao.
Qua dẫn chứng trên ta thấy được yếu tố vật chất ( kinh tế ) tác động đến chính
trị xã hội. Vận dụng đúng đắn các qui luật của phép biện chứng duy vật Đảng đã chỉ ra
đúng các vấn đề của nền kinh tế đất nước từ đó tạo nên những hướng đi đúng đắn phù
hợp.
Khái quát một lần nữa, trước đây Đảng ta đã phạm sai lầm chủ quan ý chí, vi
phạm luật khách quan: nóng vội trong việc cải tạo chủ nghĩa xã hội, xóa bỏ nên kinh tế
nhiều thành phần. Nhưng sau đó, Đảng nước ta đã vận dụng tốt các mặt mạnh và hạn
chế các mặt yếu kém của chủ nghĩa tư bản để đưa ra một hoạch định hướng đi cho nền
kinh tế Việt Nam một cách đúng đắng. Ở các đại hội sau đó cũng đi từ thực tế khách
quan, đánh giá đúng tình hình kinh tế, chính trị việt Nam về thuận lợi và khó khăn,
thời cơ và nguy cơ mà khắc phục, đảm bảo kinh tế nước ta phát triển đúng hướng.
Thực tế đã cho thấy Đảng ta đã có bước đi trong phát triển kinh tế, chính trị, xã
hội và ngoại giao rất phù hợp, chính xác nên đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể.
Trong nước đạt được nhiều thành tích như GDP liên tục tăng cao, lạm phát giữ được ở
mức dưới 10%. năm 1995 nước ta chính thức là thành viên ASEAN đánh dấu q trình
hội nhập khu vực của Việt Nam, bình thường hóa quan hệ với Mỹ cùng năm đó, năm
1998 là thành viên của APEC (Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương).
Ngày nay, nối tiếp được những thành cơng đó Việt Nam đến nay đã có nhiều
thành tích đáng kể vượt bật, nếu như GDP năm 1989 đạt 6,3 tỷ UDS/năm thì năm 2020
đã đạt khoảng 268,4 tỷ trên năm, chưa nói đến trong thời gian này tình dình dịch bệnh
covid-19 vẫn đang hồnh hành ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế nước ta về nhiều
lĩnh vực kinh tế, nghiêm trọng là lĩnh vực du lịch phải đóng cửa, dịch vụ hàng khơng
đình đốn,... ảnh hưởng rất nhiều đến nền kinh tế nước ta. Từ năm 1986 đến nay,
thu
nhập bình quân đầu người đã tăng gần 4 lần, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ trên 50% xuống
còn dưới 5%,... Đó là những thành tựu khơng thể phủ nhận của Đảng ta, không chỉ là
14
có những chính sách phát triển kinh tế mà song song đó nhà nước ln có những chính
sách giúp người dân phát triển tốt hơn. Trong những năm gần đây, Việt Nam một lần
nữa cho thấy sự đúng đắn trong việc vận qui luật biện chứng duy vật trong việc phòng
đại dịch Covid-19 so với các nước trên thế giới. Đảng đã dựa trên tình hình kinh tế, xã
hội của đất nước từ đó đưa ra các biện pháp phịng chống dịch bệnh phù hợp nhanh
chóng đẩy lùi dịch bệnh, trong khi các nước có số ca lên đến đơn vị hàng trăm nghìn
ca hay thậm chí là triệu ca thì Việt Nam chỉ ở mức con số gần 1500 ca nhiễm năm
2020 nhận được nhiều đánh giá tích cực từ các nước khác trên thế giới về các biện
pháp phòng dịch của nước ta. Ngay từ ngày đầu lập nước, Đảng nước ta đã có những
bước ngoại giao khéo léo, đến nay Việt Nam đã thiết lập khuôn khổ quan hệ ổn định,
lâu dài với 30 đối tác chiến lược và đối tác toàn diện, là nước duy nhất tại khu vực
Đông Nam Á xây dựng khuôn khổ quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với
5 nước là thành viên thường trực Hội đồng Bảo an hợp quốc, chủ tịch ASEAN 2020 và
Chủ tịch Hội đồng Liên Nghị viện các quốc gia Đông Nam Á (AIPA) lần thứ 41, Ủy
viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021,...
Như vậy, công cuộc đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh
đạo ngày càng được cụ thể hóa và được người dân hưởng ứng thực hiện. Ban đầu
Đảng ta đã có những bước đi thiếu sự chính xác, nhưng chính vì Đảng ngày càng nắm
được và vận dụng đúng đắng sáng tạo hoàn toàn phù hợp phương pháp luận triết học
toàn diện Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
2. Kiến Nghị
Ý thức và vật chất tác động qua lại và bù trừ cho nhau, nhận thức của con người
đúng thì dẫn đến sự hình thành vật chất đúng theo chiều hướng phát triển và ngược lại.
Vì vậy ta khơng nên chủ quan trong mọi tình huống, phát triển đất nước phải đi đơi với
việc gìn giữ đất nước và bản sắc văn hoá dân tộc phương châm “hồ nhập nhưng
khơng hồ tan” khơng được tha hố chạy theo xu hướng mà lơ đãng đi nền an ninh,
trật tự và bản sắc văn hoá của nước nhà.
Đảng và nhà nước ta trải qua nhiều thời kì, nhiều thế hệ từ cha ơng tiếp bước để gìn
giữ mảnh đất hình chữ S, có nhiều bước tiến quan trọng, cho thấy sự đi lên của đất
nước từ thời kì đồ đồng đồ đá cho đến nay, tránh khỏi những nguy cơ tuột hậu về kinh
tế-quốc phịng, an ninh-chính trị, khơng như một số đế quốc mắc phải những sai lầm
trầm trọng dẫn đến thất bại nặng nề như sự sụp đổ của Liên bang Xơ viết trong những
năm 1990. Hình thức cơng nghiệp hố q độ dẫn đến tình trạng nông nghiệp ngày
15
càng bị thu hẹp và mất ưu thế, tuy nhiên Việt Nam vẫn duy trì sản xuất nơng nghiệp,
áp dụng nhiều phương pháp nổi trội để vượt mặt nước bạn và chiếm vị trí cao trong
xuất khẩu gạo trên thế giới những năm qua. Đây đều là những thành tựu đáng ngưỡng
mộ và tự hào trong thời kì cơng nghiệp hố-hiện đại hố nhờ có sự đồng lịng chung
sức tồn dân, bản tính kiên trì, sự chăm chỉ của mỗi cá nhân và đáng nói hơn là sự lãnh
đạo tài tình của Đảng cộng sản Việt Nam. Đảng và nhà nước ta nếu không vận dụng
kịp thời triệt để nhân tài thì có thể sẽ đối mặt với nguy cơ không theo kịp tiến độ phát
triển của sự nghiệp công nghiệp hố hiện đại hố vì đa phần thời kì hiện đại cần máy
móc tiên tiến, các trang thiết bị hiện đại nhưng máy móc ở Việt Nam đa phần là nhập
khẩu từ nước bạn nên còn phụ thuộc vào nền kinh tế nước ngồi .
Do đó Đảng ta cũng không khỏi mắc phải những sai lầm nghiêm trọng trong sự
nghiệp đổi mới đất nước hiện nay. Đường lối chiến lược cịn q nhiều rủi ro phía
trước, các doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài ngày một nhiều, đa số chủ các công ty,
nhà máy lớn ở Việt Nam là người nước ngồi nên nguồn GDP của đất nước cịn phụ
thuộc khá nhiều vào nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra vẫn còn nhiều sạn trước mắt
trong đường lối đổi mới của Đảng, chính vì vậy lực lượng đi đầu cần quán triệt, nắm
sát tình hình phát triển kinh tế đất nước theo lối vận dụng linh hoạt chủ nghĩa Mác –Lê
Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc nghiên cứu, tìm tịi để phát huy năng lực mỗi
người một cách triệt để, khơng để lãng phí hiền tài của đất nước. Địi hỏi cái nhìn sâu
sắc vào mọi tình huống trong cơng việc, linh hoạt, chính trực trong chủ nghĩa hiện
thực để gặt hái nên nhiều thành tựu cho đất nước6.
6 Nguồn Bộ Ngoại Giao
16
PHẦN KẾT LUẬN
Trong quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay, việc vận dụng mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức đóng vai trị quan trọng. Đây là nút thắt trọng yếu trên con đường xây
dựng nền kinh tế mới, là chìa khóa thành cơng trong chiến lược phát triển kinh tế, xã
hội, đưa Việt Nam tiến xa trên con đường đi lên Chủ nghĩa Xã hội.
Triết học Mác – Lê nin đã vạch rõ bộ mặt phản động của chủ nghĩa duy tâm, bộ
mặt nguỵ biện nhằm che đậy thực chất của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa duy vật của
Mác đã đưa ra những bằng chứng khoa học về sự liên hệ mật thiết giữa vật chất và ý
thức: Mối quan hệ biện chứng. Chính điều này đã giúp con người nhận thức rõ về thế
giới, và cải tạo thế giới vật chất nhằm phục vụ những lợi ích của con người.
Cụ thể, từ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, từ những kinh nghiệm thành
cơng và thất bại trong q trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút
ra bài học quan trọng đó là “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ
thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”. Đảng đã nắm vững và vận dụng sáng tạo để
đề ra đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn trong từng giai đoạn, phù hợp
với tình hình thực tế, từ đó gặt hái được nhiều thắng lợi vẻ vang.
Điều này một lần nữa khẳng định tính đúng đắn của sự phát triển biện chứng
khách quan và hiệu quả ứng dụng cao trong việc xây dựng, hình thành đường lối cách
mạng đúng đắn. Chỉ khi vận dụng hợp lí và triệt để mối quan hệ kinh tế - chính trị theo
mơ hình vật chất – ý thức, thì khi đó cơng cuộc xây dựng đất nước mới ngày càng giàu
mạnh.
Với khoảng thời gian có hạn, nhóm chúng tôi dù đã cố gắng làm việc với tất cả
niềm đam mê, với tối đa năng lực, tranh thủ mọi lúc, mọi nơi để tìm hiểu, nghiên cứu
nhằm hồn thiện báo cáo song đề tài chắc hẳn không tránh khỏi những thiếu sót.
Nhóm nghiên cứu chúng tơi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của q thầy cơ để
đề tài tiếp tục hoàn thiện hơn trong thời gian tới, góp phần cơng sức nhỏ bé trong cơng
cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!
17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thuý Minh (2021), “Đối ngoại Việt Nam năm 2020: Tự tin vững bước trên con
đường phát triển”, />2. Báo điện tử đài tiếng nói Việt Nam (2020), “Thành tựu của ngành Ngoại giao là
“điểm sáng” trong thành tựu chung của đất nước”,
/>3. Thái Bình (2020), “Phịng chống dịch COVID-19: Các biện pháp của Việt Nam rất
nhanh và hiệu quả”, />4. TS. Cao Đức Thái (2011), “Vì sao Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động?”,
/>5. Cổng thơng tin điện thử Chính Phủ (2020), “Một vài nét về kinh tế xã hội Việt
Nam”, />6. Giáo trình triết học Mác – Lênin, NXB: Chính trị quốc gia, 2013.
7. Các hình thức cơ bản của phép biện chứng, C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập.
8. Slide bài giảng chương I-II, GV: TS. Đỗ Văn Thắng (Đại học Tôn Đức Thắng).
18