Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

RỐI LOẠN GIẤC NGỦ.PGS.TS.BÙI QUANG HUY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (392.39 KB, 18 trang )

Chủ biên: PGS.TS. BÙI QUANG HUY

RỐI LOẠN GIẤC NGỦ
(Tái bản lần thứ nhất có sửa chữa và bổ sung)

NHÀ XUẤT BẢN Y HỌC
HÀ NỘI-2019


THAM GIA BIÊN SOẠN:
PGS.TS. Bùi Quang Huy (chủ biên)
Chủ nhiệm Khoa Tâm thần, Bệnh viện Quân y 103.
Giảng viên Bộ môn Tâm thần, Học viện Quân y
ThS. Phùng Thanh Hải
Bác sĩ Khoa 6, Bệnh viện Tâm thần Trung ương 1.
Nghiên cứu sinh Bộ môn Tâm thần, Học viện Quân y
ThS. Đinh Việt Hùng
Bác sĩ Khoa Tâm thần, Bệnh viện Quân y 103. Nghiên
cứu sinh Bộ môn Tâm thần, Học viện Quân y

2


LỜI NÓI ĐẦU
Rối loạn giấc ngủ là một chứng rất phổ biến trong cuộc
sống hàng ngày. Trong 1 năm, có tới 30-45% số người lớn bị
rối loạn giấc ngủ. Đây là một con số rất lớn khi tính đến dân
số Việt Nam là gần 90 triệu người.
Rối loạn giấc ngủ có thể chỉ là triệu chứng duy nhất
của bệnh, gặp trong mất ngủ tiên phát; hoặc là một triệu
chứng trong các bệnh tâm thần khác như trầm cảm, lo âu


lan tỏa, tâm thần phân liệt, rối loạn cảm xúc lưỡng cực,
nghiện rượu…
Trong thực tế, rối loạn giấc ngủ được chia làm mất
ngủ tiên phát, ngủ nhiều tiên phát, cận giấc ngủ và các rối
loạn giấc ngủ do một bệnh tâm thần hoặc một bệnh cơ thể
khác gây ra.
Dù do nguyên nhân gì đi chăng nữa thì rối loạn giấc ngủ
(đặc biệt là mất ngủ) sẽ ảnh hưởng trầm trọng tới sức khoẻ,
khả năng lao động và học tập của bệnh nhân. Đó chính là lý
do chủ yếu khiến bệnh nhân phải đi khám bệnh.
Nhìn chung, các rối loạn giấc ngủ dù là tiên phát hay thứ
phát đều tiến triển mạn tính, vì thế phải điều trị kéo dài nhiều
tháng, nhiều năm, thậm chí kéo dài suốt đời. Các thuốc bình
thần, thuốc ngủ hay được bệnh nhân và bác sĩ sử dụng để điều
trị mất ngủ; tuy nhiên, trong đa số các trường hợp, việc dùng
3


các thuốc này để điều trị mất ngủ là không chính xác, dễ gây
nghiện và để lại nhiều hậu quả xấu cho bệnh nhân như chậm
chạp, trí nhớ và chú ý kém.
Với từng căn nguyên, các rối loạn giấc ngủ sẽ có các
biện pháp điều trị thích hợp, hiệu quả tốt và không để lại các
hậu quả xấu.
Do mất ngủ liên quan đến rất nhiều bệnh tâm thần khác
nên tác giả đã cố gắng đề cập đến tất cả các lĩnh vực liên quan
nhằm cung cấp cho bạn đọc các kiến thức đơn giản, dễ hiểu,
có tính cập nhật và áp dụng thực tế cao. Mặc dù đã có nhiều
năm kinh nghiệm trong điều trị mất ngủ, các tác giả vẫn
khơng thể tránh khỏi các sai sót khi viết cuốn sách này, mong

bạn đọc gần xa góp ý để lần tái bản sau sách sẽ được sửa chữa
và hoàn chỉnh hơn.
Sách dành cho đối tượng là các bác sĩ chuyên khoa tâm
thần, bác sĩ tuyến cơ sở, sinh viên y khoa và những ai quan
tâm nghiên cứu về rối loạn giấc ngủ.
Mọi ý kiến đóng góp xin gửi về địa chỉ email:

PGS.TS. Bùi Quang Huy

4


MỤC LỤC
Lời nói đầu
Giấc ngủ bình thường

3
7
ThS. Đinh Việt Hùng

Rối loạn giấc ngủ

14
PGS.TS. Bùi Quang Huy

Rối loạn thời lượng ngủ

20
ThS. Phùng Thanh Hải


Rối loạn cận giấc ngủ

53
PGS.TS. Bùi Quang Huy

Mất ngủ trong bệnh trầm cảm
PGS.TS. Bùi Quang Huy

64

Mất ngủ trong rối loạn cảm xúc lưỡng cực
P
PGS.TS. Bùi Quang Huy
Mất ngủ trong tâm thần phân liệt
ThS. Đinh Việt Hùng

98
133

Mất ngủ trong rối loạn lo âu lan tỏa
PGS.TS. Bùi Quang Huy

169

Mất ngủ trong nghiện rượu

183
ThS. Phùng Thanh Hải

Công thức chung điều trị mất ngủ

PGS.TS. Bùi Quang Huy

197

Tài liệu tham khảo

199
5


6


GIẤC NGỦ BÌNH THƯỜNG
Ngủ là một hành vi có ở tất cả các lồi động vật từ cơn
trùng cho đến động vật có vú. Giấc ngủ là một trong những
hành vi phổ biến nhất của con người vì một người trung bình
bỏ ra 1/3 cuộc đời để ngủ. Mặc dù chức năng chính xác của
giấc ngủ đến nay vẫn chưa được biết rõ, nhưng rõ ràng là giấc
ngủ rất cần thiết cho con người. Những trường hợp mất ngủ
sẽ dẫn đến các bệnh cơ thể nghiêm trọng, rối loạn nhận thức
nặng nề và cuối cùng dẫn đến tử vong. Giấc ngủ đóng vai trị
đặc biệt quan trọng trong lâm sàng tâm thần vì rối loạn giấc
ngủ gặp trong tất cả các bệnh tâm thần và là một trong những
chẩn đoán hay gặp nhất.
1. Sự điều hoà của giấc ngủ
Hầu hết các nhà nghiên cứu cho rằng giấc ngủ được
kiểm soát bởi nhiều trung tâm trong não, các trung tâm này
kiểm soát hoạt động lẫn nhau. Nhiều nghiên cứu đã xác nhận
vai trị của serotonin trong điều hồ giấc ngủ. Các bệnh nhân

mất ngủ tiên phát, trầm cảm và lo âu có nồng độ serotonin
trong não thấp hơn so với người bình thường, do đó họ bị mất
ngủ nặng. Như vậy, rối loạn quá trình tổng hợp serotonin
trong não sẽ dẫn đến mất ngủ. Giấc ngủ bị ảnh hưởng nhiều
bởi L-triptophan, ăn một lượng lớn L-triptophan (1-15g/ngày)
sẽ làm giảm giấc ngủ và tăng thức đêm; ngược lại, nếu thiếu
L-triptophan sẽ làm giảm thời gian ngủ REM.
7


Các tế bào thần kinh chứa norepinephrin nằm ở nhân đỏ
đóng vai trị quan trọng trong kiểm sốt giấc ngủ bình thường.
Các thuốc kích thích lên tế bào thuộc hệ thống noradrenergic
làm giảm giấc ngủ REM và gây thức giấc. Các vùng não chứa
acetylcholin gây tăng giấc ngủ, đặc biệt là giấc ngủ REM.
Rối loạn hoạt động ở trung tâm hệ cholinergic làm thay
đổi giấc ngủ, gặp trong bệnh trầm cảm. So sánh người khoẻ
mạnh và bệnh nhân trầm cảm, người ta nhận thấy bệnh nhân
trầm cảm có rối loạn giấc ngủ REM, giấc ngủ REM xuất hiện
sớm hơn (dưới 60 phút sau khi ngủ). Các thuốc chống trầm
cảm gây giảm giấc ngủ REM. Trong lâm sàng, khoảng một
nửa số bệnh nhân trầm cảm các triệu chứng sẽ được cải thiện
tạm thời nếu bị cấm ngủ; ngược lại, reserpin và một số thuốc
khác gây tăng giấc ngủ REM sẽ gây ra trầm cảm.
Bệnh nhân mất trí Alzheimer có đặc điểm là giảm giấc
ngủ REM và giấc ngủ sóng chậm. Nhiều bằng chứng rõ ràng
cho thấy, dopamin ảnh hưởng rõ rệt đến giấc ngủ. Các thuốc
gây tăng nồng độ dopamin sẽ gây mất ngủ; ngược lại, các
thuốc ức chế dopamin như các thuốc an thần, gây tăng thời
gian ngủ.

2. Điện não đồ của giấc ngủ
Điện não đồ là công cụ hữu hiệu để nghiên cứu giấc
ngủ. Người ta có thể ghi điện não đồ trong và ngoài giấc
ngủ. Trên điện não đồ ghi trong giấc ngủ, giấc ngủ được chia
làm 2 giai đoạn:
8


- Ngủ khơng có vận động nhãn cầu nhanh (NREM) và
- Ngủ có vận động nhãn cầu nhanh (REM).
Trong giấc ngủ NREM, người ta lại chia chúng làm 4
giai đoạn (từ giai đoạn I đến giai đoạn IV). Hầu hết các chức
năng sinh lý của con người trong giai đoạn ngủ NREM là
thấp hơn so với lúc thức. Ở người bình thường, giấc ngủ
NREM là trạng thái yên tĩnh, nhịp tim thường giảm 5-10 nhịp
mỗi phút so với lúc thức và rất đều, nhịp thở cũng bị ảnh
hưởng tương tự, huyết áp có xu hướng giảm. Trong các giai
đoạn của ngủ NREM có các vận động khơng chủ ý.
Trong nghiên cứu và trong thực tế lâm sàng, ngoài điện
não đồ, người ta còn sử dụng điện cơ và điện nhãn cầu để
nghiên cứu giấc ngủ. Điện não có thể ghi nhận được các vận
động của nhãn cầu trong các giai đoạn ngủ. Trong giai đoạn
ngủ NREM, khơng có hoặc chỉ ghi được vài vận động nhãn
cầu, một số sóng cơ do người ngủ nghiến răng. Điện cơ cho
thấy trương lực cơ giảm so với lúc thức.
Đôi khi trong giai đoạn 3 và 4 của giấc ngủ NREM (3060 phút sau khi ngủ), người ngủ có thể thức giấc. Lúc này họ bị
rối loạn định hướng, ý nghĩ rất lộn xộn, sau đó thì họ qn mất
mọi sự việc xảy ra lúc bấy giờ. Các rối loạn xảy ra trong giai
đoạn 3 và 4 có thể là kết quả của các vấn đề đặc biệt, bao gồm
đái dầm, miên hành, ác mộng và hoảng hốt trong giấc ngủ.

Trái với giấc ngủ NREM, giấc ngủ REM là loại giấc ngủ
khác biệt, có đặc điểm là các hoạt động của não và các chức
năng sinh lý giống như là lúc thức. Khoảng 90 phút sau khi
9


bắt đầu ngủ, ở người bình thường sẽ có giai đoạn ngủ REM
đầu tiên trong đêm. Thời gian này sẽ ngắn hơn ở những bệnh
nhân trầm cảm. Trong giai đoạn ngủ REM, trương lực cơ toàn
thân giảm hơn so với lúc thức, ở đàn ơng thường có biểu hiện
cường dương vật; dòng máu qua các cơ quan, bao gồm cả não
đều giảm nhẹ.
Khi theo dõi điện não đồ của giấc ngủ REM, người ta
nhận thấy có sự khơng ổn định, có lúc rất giống như lúc con
người đang thức. Nếu ghi lại trương lực cơ trong giấc ngủ
REM, người ta nhận thấy điện cơ lúc này giống hệt điện cơ
trong lúc thức. Nếu đo mạch, hơi thở và huyết áp của người
đang ngủ REM thì các chỉ số này cao hơn rõ rệt so với lúc
ngủ NREM và thường cao hơn cả lúc thức; tuy nhiên, các chỉ
số này cũng thay đổi từng phút. Não sử dụng oxy tăng hơn
trong giấc ngủ REM. Do thơng khí tăng nên nồng độ CO2
giảm đi, nhưng cũng giao động chứ không ổn định. Thân
nhiệt của con người là ổn định lúc thức và lúc ngủ NREM,
nhưng giao động trong giấc ngủ REM. Thay đổi thân nhiệt
trong giấc ngủ REM là do rối loạn các quá trình cân bằng
nhiệt như rùng mình và ra mồ hơi...
Có một điều thú vị là trong giai đoạn ngủ REM, hầu hết
đàn ơng đều có hiện tượng cương cứng dương vật một phần
hay toàn bộ. Dấu hiệu cương cứng dương vật trong giấc ngủ
REM là rất quan trọng trong đánh giá tình trạng bất lực ở đàn

ơng. Dấu hiệu khác là liệt gần hoàn toàn các cơ vân, vì thế
các vận động của cơ thể hầu như bị ức chế hoàn toàn trong
giấc ngủ REM.
10


Dấu hiệu đặc trưng nhất của giấc ngủ REM là giấc mơ.
Khoảng 60-90% số người được đánh thức dậy trong giấc ngủ
REM cho biết mình đang mơ. Giấc mơ trong giấc ngủ REM
là mơ hồ và không gắn với thực tế. Giấc mơ có thể xảy ra
trong giấc ngủ NREM nhưng hình ảnh rõ ràng và gắn với
thực tế.
Chu kỳ của giấc ngủ là đều đặn, giấc ngủ REM xảy ra
sau khi ngủ khoảng 90-100 phút. Giai đoạn ngủ REM đầu tiên
ngắn nhất, thường kéo dài khoảng 10 phút. Các giai đoạn sau
kéo dài 15 đến 40 phút. Hầu hết các giai đoạn ngủ REM xảy
ra trong 1/3 cuối của đêm, trong khi hầu hết giai đoạn 4 của
giấc ngủ NREM xảy ra trong 1/3 đầu của đêm.
Các giai đoạn của giấc ngủ thay đổi trong đời người. Ở
trẻ mới sinh, giấc ngủ REM chiếm tới 50% tổng thời gian.
Trên điện não đồ, giấc ngủ REM xuất hiện trực tiếp mà không
theo thứ tự từ giai đoạn 1 đến giai đoạn 4. Trẻ sơ sinh ngủ đến
16 giờ mỗi ngày với những lần thức giấc ngắn. Trẻ 4 tháng
đến 1 tuổi, tổng số giấc ngủ REM chỉ còn chiếm 40% thời
gian ngủ và xảy ra sau giai đoạn ngủ NREM. Ở thanh niên,
giấc ngủ được chia làm các giai đoạn ngủ NREM và REM.
- Giấc ngủ NREM: chiếm 75%, chia làm 4 giai đoạn
+ Giai đoạn 1: 5%.
+ Giai đoạn 2: 45%.
+ Giai đoạn 3: 12%.

+ Giai đoạn 4: 13%.
11


- Giấc ngủ REM: chiếm 25%.
Các tỷ lệ này là không thay đổi theo lứa tuổi; tuy nhiên,
ở người già thời gian ngủ giảm cả với giấc ngủ REM và ngủ
NREM.
3. Chức năng của giấc ngủ
Bằng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, người
ta đã kết luận rằng các chức năng của cơ thể đều giảm đi
trong giấc ngủ sâu. Nhờ giấc ngủ NREM mà cơ thể sau khi
tập thể dục nặng sẽ có điều kiện điều hồ lại q trình
chuyển hố.
4. Cản trở giấc ngủ
Nếu con người khơng được ngủ trong một thời gian dài
có thể dẫn đến rối loạn định hướng, ảo giác và hoang tưởng.
Nếu một người bị ngăn không cho ngủ REM bằng cách đánh
thức anh ta dậy khi bắt đầu ngủ REM sẽ gây tăng số giai đoạn
ngủ REM và thời gian ngủ REM của họ sẽ kéo dài khi người
này được ngủ thoải mái mà không bị đánh thức nữa.
5. Nhu cầu ngủ
Nhu cầu ngủ của con người không giống nhau. Một số
người chỉ cần ngủ ít hơn 6 giờ mỗi đêm, trong khi một số
người khác lại cần ngủ nhiều hơn 9 giờ mỗi đêm. Những
người ngủ nhiều thường có nhiều giai đoạn ngủ REM và
thời gian ngủ mỗi giai đoạn ngủ REM dài hơn so với người
ngủ ngắn.
12



Giấc ngủ tăng lên khi người ta lao động thể lực, tập thể
dục, bị ốm, có thai, bị căng thẳng tâm lý và hoạt động tâm
thần nhiều. Giai đoạn ngủ REM tăng khi có các kích thích
tâm lý như các khó khăn trong học tập, các căng thẳng tâm lý,
sử dụng các thuốc gây giảm tiết các chất dẫn truyền thần kinh
trong não.
6. Nhịp thức-ngủ
Nếu khơng có kích thích từ bên ngồi, hoạt động của cơ
thể con người có chu kỳ 25 giờ. Do ảnh hưởng của các yếu tố
khác nhau như chu kỳ ngày-đêm, hoạt động hàng ngày và các
yếu tố khác khiến chu kỳ hoạt động thực tế của con người là
24 giờ. Giấc ngủ cũng có chu kỳ 24 giờ. Trong 24 giờ, người
lớn cần ngủ 1 lần, đôi khi là 2 lần (ngủ tối và ngủ trưa). Chu
kỳ thức-ngủ chưa có ngay ở trẻ sơ sinh, nhưng sẽ dần dần
hình thành trong 2 năm đầu cuộc đời. Một số phụ nữ có sự
thay đổi chu kỳ thức-ngủ khi có kinh nguyệt.
Các giấc ngủ chợp mắt (giấc ngủ ngắn như ngủ trưa) có
thể gây thay đổi tỷ lệ giấc ngủ REM và NREM. Nếu một
người được ngủ chợp mắt buổi sáng và buổi trưa sẽ gây tăng
giấc ngủ REM buổi tối, nhưng nếu họ có giấc ngủ chợp mắt
vào buổi chiều hoặc đầu giờ buổi tối lại gây giảm giấc ngủ
REM. Một số yếu tố khác như đi làm ca đêm, đi máy bay
phản lực từ Đông sang Tây cũng ảnh hưởng đến chu kỳ thứcngủ, phần lớn những người này sẽ thích nghi sau vài ngày,
nhưng một số người thì cần nhiều thời gian hơn để thích nghi.
13


RỐI LOẠN GIẤC NGỦ
Ngày nay, người ta chia rối loạn giấc ngủ thành rối loạn

giấc ngủ tiên phát, thứ phát và rối loạn cận giấc ngủ.
- Rối loạn giấc ngủ tiên phát: là rối loạn thời gian ngủ,
bao gồm mất ngủ và ngủ nhiều.
+ Mất ngủ: là rối loạn về số lượng và chất lượng giấc
ngủ. Mất ngủ bao gồm mất ngủ tiên phát và rối loạn nhịp
thức-ngủ.
+ Ngủ nhiều: là ngủ quá nhiều so với bình thường.
- Rối loạn giấc ngủ thứ phát: là mất ngủ hoặc ngủ nhiều
do hậu quả của một bệnh tâm thần hay một bệnh thực tổn.
- Rối loạn cận giấc ngủ: là các hành vi bất thường xảy ra
trong lúc ngủ hoặc lúc chuyển từ trạng thái ngủ sang trạng
thái thức.
1. Các thuật ngữ sử dụng trong rối loạn giấc ngủ
- Chờ ngủ: là thời gian từ lúc đi ngủ cho đến giai đoạn II
của giấc ngủ.
- Thức dậy buổi sáng sớm: thời gian tỉnh táo sau khi kết
thúc giấc ngủ (khoảng 6 giờ sáng).
- Giấc ngủ hiệu quả: tổng số thời gian ngủ.
14


- Chỉ số ngừng thở: số lần ngừng thở dài hơn 10 giây
trong một giờ ngủ.
- Chỉ số giật cơ ban đêm: số lần giật chân trong một giờ.
- Thời gian chờ vận động nhãn cầu nhanh (REM): thời
gian từ lúc bắt đầu ngủ cho đến khi có giai đoạn vận động
nhãn cầu nhanh đầu tiên trong đêm.
- Giấc ngủ bắt đầu ngay với giai đoạn ngủ REM: giấc
ngủ REM xuất hiện trong vòng 10 phút sau khi ngủ.
2. Mất ngủ

- Theo DSM-5 (năm 2013) của Hội Tâm thần học Mỹ:
mất ngủ là ngủ ít hơn so với bình thường trên 2 giờ. Ví dụ
một người 35 tuổi, trước đây mỗi ngày ngủ 8 giờ, nhưng 2
tháng gần đây người này chỉ còn ngủ được khoảng 4 giờ mỗi
ngày. Như vậy, người này đã đủ tiêu chuẩn để chẩn đoán là
mất ngủ.
- Mất ngủ là khó vào giấc ngủ hoặc khó giữ giấc ngủ.
Đây là một than phiền nhiều nhất về giấc ngủ, chúng có thể
thống qua hoặc bền vững. Trong 1 năm, có khoảng 30-45%
người lớn có mất ngủ.
- Một giai đoạn mất ngủ ngắn thường là do lo âu, hoặc
là hậu quả của lo âu (kiểm tra, phỏng vấn xin việc). Với một
số người, bất kỳ một sự thay đổi nào trong cuộc sống đều
gây ra mất ngủ ngắn. Các nguyên nhân gây ra mất ngủ ngắn
15


thường không nghiêm trọng, nhưng đôi khi chúng là sự bắt
đầu của trầm cảm nặng hoặc cơn hưng cảm. Nhìn chung,
không cần thiết phải điều trị cho mất ngủ ngắn. Nếu cần sử
dụng thuốc ngủ, cả bác sĩ và bệnh nhân cần phải biết rõ rằng
không được dùng thuốc ngủ kéo dài và mất ngủ có thể tái
phát khi ngừng thuốc.
- Với mất ngủ bền vững, bệnh nhân khó đi vào giấc ngủ
hơn là khó duy trì giấc ngủ. Mặc dù bệnh nhân có loại mất
ngủ này thường có các triệu chứng lo âu, triệu chứng của
bệnh cơ thể… nhưng họ thường chỉ than phiền về mất ngủ
mà thôi. Họ có thể khơng có triệu chứng lo âu, nhưng ln
trầm tư làm sao vào được giấc ngủ; đôi khi, họ đổ lỗi cho
các stress tại nơi làm việc, ở nhà hoặc do kỳ nghỉ gây ra khó

vào giấc ngủ.
3. Ngủ nhiều
- Ngủ nhiều là số lượng ngủ quá nhiều, ngủ suốt ngày.
Thuật ngữ ngủ quá nhiều để chỉ các bệnh nhân than phiền ngủ
suốt ngày, đôi khi họ đột ngột ngủ trong khi đi. Mặc dù đã cố
gắng, nhưng họ không làm sao thức được. Thuật ngữ này
không được dùng cho người ngủ do quá mệt mỏi. Tuy nhiên,
sự phân biệt này không được rõ ràng. Ngủ nhiều là bệnh ít
gặp hơn (chiếm 5% người lớn) so với mất ngủ, nhưng không
phải là hiếm trong lâm sàng.
16


- Theo Hội Tâm thần học Mỹ (năm 2013), nếu một
người lớn ngủ nhiều hơn 10 giờ mỗi ngày thì được coi là
ngủ nhiều.
- Nguyên nhân hàng đầu gây ngủ nhiều là ngủ lịm,
tiếp theo là tình trạng nghiện ma tuý, cai ma tuý, nghiện
thuốc hoặc cai thuốc. Bệnh cơ thể phổ biến nhất gây ra
ngủ nhiều là ngủ ngáy. Tình trạng ngủ nhiều thường chỉ
thống qua. Chúng được bệnh nhân nhận biết rõ ràng bởi
dấu hiệu khó giữ được tình trạng thức giấc. Bệnh nhân
thường nằm trên giường lâu hơn bình thường hoặc sau khi
thức dậy thì lại lên giường để ngủ tiếp suốt ngày hơm đó.
Thật ra, ngủ nhiều ít gây đảo lộn cuộc sống, ít gây khó
chịu cho bệnh nhân hơn so với mất ngủ. Bệnh nhân
thường mơ tả rằng mình đột nhiên rơi vào trạng thái buồn
ngủ mà không thể cưỡng lại được. Đôi khi, bệnh nhân rơi
vào giấc ngủ do cảm thấy mệt mỏi và rất khó thức dậy vào
buổi sáng hơm sau.

4. Cận giấc ngủ
Cận giấc ngủ là một hiện tượng khơng bình thường, xuất
hiện đột ngột trong khi ngủ hoặc khi dở thức, dở ngủ. Cận
giấc ngủ thường xuất hiện ở giai đoạn III và IV của giấc ngủ
NREM, do đó người bệnh thường khó nhớ lại chính xác nội
dung của nó.
17


5. Rối loạn nhịp thức-ngủ
Nhịp thức-ngủ là sự thay thế lẫn nhau giữa trạng thái
thức và giấc ngủ hàng ngày. Rối loạn nhịp thức-ngủ là bệnh
nhân không thể ngủ được khi họ muốn ngủ, ngược lại họ
không thể thức khi họ muốn thức. Tuy nhiên, thời lượng ngủ
trong ngày của họ vẫn bình thường, vì thế, rối loạn này khơng
phải là mất ngủ hoặc ngủ nhiều, mặc dù ban đầu bệnh nhân có
thể than phiền là mất ngủ hoặc ngủ nhiều. Để xác định là rối
loạn nhịp thức-ngủ cần phải hỏi kỹ bệnh nhân.
6. Phân loại
Theo phân loại của DSM-5 (2013), rối loạn giấc ngủ
được chia làm 3 loại chính:
- Rối loạn giấc ngủ tiên phát.
- Rối loạn giấc ngủ có liên quan đến một bệnh tâm thần
khác.
- Rối loạn giấc ngủ khác (do bệnh cơ thể, do lạm dụng
thuốc, ma tuý).
Bảng phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 (ICD-10) coi hầu
hết các rối loạn giấc ngủ là một triệu chứng của một bệnh tâm
thần khác. Chẩn đoán rối loạn giấc ngủ chỉ đặt ra khi khơng
tìm thấy một nguyên nhân nào gây ra mất ngủ. Rối loạn giấc

ngủ được ICD-10 chia thành:
18



×