Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Nghiên cứu khả năng áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế mới về công cụ tài chính (IFRS 9) trong kế toán dự phòng rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.65 KB, 11 trang )

Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội
miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020

NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CHUẨN MỰC KẾ TỐN
QUỐC TẾ MỚI VỀ CƠNG CỤ TÀI CHÍNH (IFRS 9) TRONG
KẾ TỐN DỰ PHỊNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
Đào Nam Giang1, Trần Nhật Tân2
1

Khoa Kế toán kiểm toán - Học viện Ngân hàng, 2Ngân hàng Agribank Hà Nam

TÓM TẮT
Các nghiên cứu trước cho thấy IFRS 9 mang lại hiệu quả lớn trong lĩnh vực tài chính ngân hàng như ghi
nhận tổn thất rủi ro tín dụng sớm hơn với mức ghi nhận dự phịng rủi ro tín dụng cao hơn; ước tính tổn thất
tín dụng kịp thời và đầy đủ, ổn định tính chu kỳ, tăng tính nhất quán, minh bạch của chất lượng thơng tin
tài chính,…Bên cạnh đó một loạt các khăn khi các quốc gia áp dụng IFRS 9 về kế toán giảm giá trị các
khoản cho vay và phải thu có thể kể đến như tăng áp lực về khoản DPRRTD, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi
nhuận của NHTM và lợi ích của các cổ đơng hay chi phí để vận hành mơ hình ECL của IFRS 9 cao hơn
do cần đầu tư vào phát triển chất lượng nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và quá trình thu
thập dữ liệu,…Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu trên được đưa ra dựa trên các nghiên cứu, khảo sát của
các tác giả tại nhiều quốc gia đã triển khai áp dụng IFRS 9, phần lớn là các nước phát triển với điều kiện
kinh tế khác biệt lớn so với Việt Nam. Nghiên cứu này kế thừa các nghiên cứu trước, sử dụng phương pháp
điều tra qua bảng hỏi để xác nhận lại khả năng, khó khăn và thuận lợi trong việc áp dụng mơ hình lỗ dự
kiến của IFRS9 trong điều kiện của các NHTM Việt Nam. Các kết quả nghiên cứu chính có thể thấy là
phần lớn các chủ thể tham gia khảo sát cho rằng mặc dù các NHTM Việt Nam đã tuân thủ các quy định
trong của NHNN nhưng vẫn tồn tại hiện tượng giấu lỗ qua dự phịng; do đó việc áp dụng IFRS 9 là cần
thiết nhưng không nên áp dụng trực tiếp chuẩn mực này mà cần có sự điều chỉnh cho phù hợp. Những khó
khăn chính khi áp dụng IFRS là sự lo ngại số liệu nợ xấu tăng cao khi áp dụng IFRS 9 sẽ gây hiệu ứng xấu
lan truyền trong nền kinh tế; chi phí xây dựng chuẩn mực mới theo IFRS 9 cao, thông tin thị trường thiếu
minh bạch, hệ thống xếp hạng tín nhiệm nội bộ chưa hồn thiện, rào cản về ngơn ngữ. Yếu tố con người


và công nghệ không phải là những nhân tốt gây trở ngại lớn.
Từ khóa: dự phịng rủi ro tín dụng (loan loss provision); IFRS9; mơ hình lỗ dự kiến (expected loss model);
ngân hàng thương mại (commercial banks).
1. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
1.1. Mô hình “Lỗ dự kiến -expected loss” trong xác định dự phịng rủi ro tín dung theo IFRS 9 và tác động
của việc áp dụng tại các NHTM
Trước 2018, IAS 39 – Cơng cụ tài chính đo lường và ghi nhận (IAS39) áp dụng mơ hình tổn thất tín
dụng phát sinh trong xác định và ghi nhận giảm giá trị của khoản cho vay và phải thu. Theo đó, các khoản cho
vay và phải thu được đánh giá bị suy giảm và tổn thất suy giảm được ghi nhận chỉ khi tại thời điểm lập bảng
cân đối kế tốn có bằng chứng khách quan về việc suy giảm giá trị do một hoặc nhiều sự kiện xảy ra sau khi
ghi nhận lần đầu(ví dụ: người vay khó khăn về tài chính, giảm giá trị tài sản thế chấp, rủi ro phá sản). Mơ hình
này của IAS 39 bị chỉ trích là ghi nhận các khoản tổn thất tín dụng khơng kịp thời ((IASB, 2014),(Sultanoğlu,
2018)), làm tăng tác động của chu kỳ kinh tế đên các NHTM hoặc cả hai ((Novotny-Farkas, 2015); (Laeven
& Majnoni, 2003) (Beatty & Liao, 2011; Bushman & Williams, 2012; Cohen & Edwards, 2017). Theo tổng
kết của IASB, trong cuộc khủng hoảng tài chính, việc chậm trễ ghi nhận tổn thất tín dụng đối với các khoản
vay (và các cơng cụ tài chính khác) được xác định là một điểm yếu trong các chuẩn mực kế toán hiện hành.
Tại cuộc họp tháng 4/2009, sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, IASB đã cam kết xem xét lại toàn diện
64


Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội
miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020

các quy đinh hiện hành của IAS 39. Trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, đến tháng 7/2014, IASB ban hành
bản chính thức cuối cùng của IFRS 9 – Cơng cụ tài chính (IFRS9) để thay thế cho IAS 39 và toàn bộ các phiên
bản trước đó của IFRS 9. IFRS 9 đưa ra những quy định về việc ghi nhận, đo lường các công cụ tài chính,
đánh giá giảm giá trị và kế tốn dự phòng. IFRS 9 được phép áp dụng sớm song song cùng IAS 39, chính thức
có hiệu lực từ hoặc sau ngày 1/1/2018.
IFRS 9 đưa ra mơ hình mới – mơ hình tổn thất tín dụng dự kiến (ECL – Expected Credit Loss Model)
thay thế cho mơ hình tổn thất phát sinh (Incurred Loss Model) của IAS 39. Mơ hình này được áp dụng cho các

TSTC đo lường theo giá trị phân bổ; TSTC bắt buộc đo lường theo giá trị hợp lý thơng qua Thu nhập tồn diện
khác; các cam kết cho vay khi có nghĩa vụ hiện tại là các gia hạn tín dụng (trừ trường hợp các khoản vay này
được đo lường theo giá trị hợp lý thơng quan lãi.lỗ)
“Tổn thất tín dụng dự kiến” - phản ánh mơ hình chung về sự suy giảm hay sự cải thiện chất lượng tín
dụng của các cơng cụ tài chính. Giá trị được tính tốn bởi ECLs được ghi nhận như một khoản dự phòng tổn
thất hay dự phòng phải trả phụ thuộc vào mức độ suy giảm tín dụng của cơng cụ tài chính kể từ lần ghi nhận
đầu tiên. Khoản tổn thất tín dụng dự kiến được xác định bởi một trong 3 phương pháp: phương pháp chung,
phương pháp đơn giản và phương pháp điều chỉnh rủi ro tín dụng.
Bảng 1. Các phương pháp xác định khoản tổn thất tín dụng dự kiến theo IFRS 9
Phương pháp chung

Phương pháp giản đơn

Đối tượng áp dụng

Tất cả các khoản cho
vay và phải thu không
áp dụng phương pháp
khác

Khoản phải thu thương
mại đủ điều kiện, hợp
đồng tài sản theo IFRS
15 và khoản phải thu về
cho thuê

Thời điểm ghi nhận ban
đầu

Cùng thời điểm khi tài

sản được hình thành

Cùng thời điểm khi tài
sản được hình thành

Phương pháp đo lường
cơ bản dự phịng tổn
thất

Mơ hình tổn thất 12
tháng hoặc mơ hình tổn
thất trọn đời

Mơ hình tổn thất trọn
đời

Phương pháp điều
chỉnh rủi ro tín dụng

Tài sản bị suy giảm giá
trị ngay từ lần ghi nhận
đầu tiên

Thay đổi luỹ kế trong
mơ hình tổn thất trọn
đời kể từ lần ghi nhận
đầu tiên

(Nguồn: pwc.com)
Phương pháp giản đơn và phương pháp điều chỉnh rủi ro tín dụng chỉ áp dụng cho các trường hợp cụ

thể, khơng mang tính tổng quát như phương pháp chung. Nên trong phạm vi bài nghiên cứu, tác giả chỉ xem
xét đến phương pháp chung để có cách nhìn tồn diện nhất. Phương pháp chung trong IFRS 9 đưa ra mơ hình ba
giai đoạn cho tổn thất tín dụng dựa trên những thay đổi về chất lượng tín dụng kể từ lần ghi nhận đầu tiên.
Giai đoạn 1: Các khoản cho vay và phải thu khơng bị suy giảm tín dụng khi ghi nhận lần đầu, khơng có
sự tăng lên đáng kể rủi ro tín dụng sau lần ghi nhận đầu tiên, tổn thất tín dụng vẫn tiếp tục được theo dõi và
phải ước tính tổn thất tín dụng dự kiến 12 tháng (ECL 12 months). Tổn thất tín dụng 12 tháng là phần tổn hại
tín dụng dự kiến xuất phát từ các sự kiện có thể xảy ra trong vịng 12 tháng sau ngày báo cáo đối với TSTC.
Giai đoạn 2: Nếu rủi ro tín dụng tăng lên đáng kể sau lần ghi nhận đầu tiên nhưng chưa được coi là suy
giảm tín dụng thì ECL được đo trên tổn thất tín dụng dự kiến trọn đời.
Giai đoạn 3: Tài sản tài chính bị suy giảm tín dụng, ECL ln được đo trên cơ sở trọn đời.

65


Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội
miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020

1.2. Tổng quan nghiên cứu về khả năng áp dụng và tác động dự phòng rủi ro theo IFRS 9 đến các tổ chức
tín dụng
IFRS 9 sẽ có tác động sâu hơn và rộng hơn lên các ngân hàng trên nhiều khía cạnh, từ lợi nhuận đến
quy trình quản lý rủi ro và hệ thống cơng nghệ thơng tin. Khoản mục dự phịng tổn thất tín dụng trên báo cáo
tài chính của các ngân hàng dự kiến sẽ tăng và biến động nhiều hơn khi áp dụng IFRS 9. Theo một khảo sát
của Ngân hàng Trung ương châu Âu, dự phịng tổn thất tín dụng (trong trường hợp ghi nhận toàn bộ vào báo
cáo lãi lỗ) sẽ tăng từ 18-30%. Theo Fitch Ratings, trong một vài năm đầu tiên chuyển đổi sang áp dụng IFRS
9, các chỉ tiêu về vốn và tỷ lệ an toàn vốn của các ngân hàng sẽ giảm, trong khi các chỉ tiêu về lợi nhuận sẽ có
xu hướng biến động nhiều hơn. Tổ chức xếp hạng này cũng cho biết, việc chuyển sang phương pháp ECL đòi
hỏi những thay đổi đáng kể về quy trình, trong đó có việc tăng cường kết hợp giữa quản lý rủi ro tín dụng và
hệ thống kế toán nội bộ. Các ngân hàng cần nhiều hơn các dữ liệu về hiệu quả hoạt động của danh mục tín
dụng trong suốt chu kỳ tín dụng, cũng như sẽ phải xây dựng các mơ hình ước tính phức tạp. Việc chuyển đổi
sang IFRS 9 sẽ bớt khó khăn hơn đối với các ngân hàng có hệ thống ngân hàng lõi mạnh, với nguồn dữ liệu

khả dụng đầy đủ và phong phú. Một số nghiên cứu thực chứng điển hình về tác động của việc áp dụng mơ hình
tổn thất dự kiến của IFRS9 có thể được thấy trong bảng 2
Bảng 2 Tổng kết tác động của IFRS 9 từ một số bài nghiên cứu
Nội dung chính
TT

Tên bài viết

Ý nghĩa của IFRS 9 đối
với các quy tắc giám sát
và ổn định tài chính
1

(The Significance of
IFRS 9 for Financial
Stability and
Supervisory Rules)
(Novotny-Farkas, 2015)

So sánh IAS 39 và IFRS
9: Phân tích thay thế
2

(Comparison of IAS 39
and IFRS 9: The
Analysis of
Replacement)

Khó khăn khi áp dụng IFRS 9


Hiệu quả khi áp dụng IFRS 9

- Ghi nhận ban đầu của ECL 12
tháng có phần hơi độc đoán và thiếu
sự cụ thể về mặt khái niệm
- Việc ghi nhận tổn thất tín dụng có
phụ thuộc bởi quan điểm của lãnh
đạo
- Thời điểm chuyển từ ECL 12
tháng sang ECL trọn đời phụ thuộc
vào thời điểm NH sử dụng thông tin
từ quá khứ, hiện tại và dự đốn
tương lai để cập nhật khoản dự
phịng tổn thất tín dụng

- Ghi nhận tổn thất tín dụng sớm
hơn
- Giảm thiểu tác động khuếch
đại của phương pháp tổn thất
phát sinh đối với tính chu kỳ và
giảm bớt những lo ngại về thiếu
vốn trong một cuộc khủng
hoảng
- Phản ánh tốt hơn chất lượng tín
dụng của các TSTC
- Thơng tin tài chính được công
khai, minh bạch hơn, tăng hiệu
quả hoạt động của các quy luật
thị trường


- Chi phí áp dụng tương đối khó
định lượng
- Chỉ phù hợp cho các tổ chức được
niêm yết trên sàn giao dịch chứng
khốn trong khi có khoảng 700.000
các tổ chức vừa và nhỏ đang áp
dụng chuẩn mực kế tốn quốc gia

- Phát hiện tổn thất tín dụng
đúng mức
- Cải thiện tính nhất quán và
minh bạch BCTC

- Tăng gánh nặng về dự phịng tổn
thất tín dụng cho các ngân hàng, tác
động trực tiếp đến lợi nhuận ngân

- Báo cáo chính xác và minh
bạch hơn về số lãi, lỗ và chất
lượng TSTC giúp các nhà đầu tư

(Gornjak, 2017)

3

Mơ hình tổn thất tín
dụng dự kiến của IFRS
9 và các tác động sớm

66



Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội
miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng cơng nghệ”– DCFB 2020

có thể xảy ra đối với
ngành ngân hàng châu
Âu và Thổ Nhĩ Kỳ
(Expected credit loss
model by IFRS 9 and its
possible early impacts
on European and
Turkish banking sector)
(Sultanoğlu, 2018)

IFRS 9 – chuẩn mực kế
toán mới về ghi nhận rủi
ro tín dụng
4

(IFRS 9 – the new
accounting standard for
credit loss recognition)

hàng, sẽ có tác động đến lợi ích các
cổ đơng và thu hút các nhà đầu tư
- Để áp dụng mơ hình ECL các
ngân hàng phải thay đổi cơ bản
thậm chí đầu tư mới tồn bộ vào
nguồn nhân lực, kỹ thuật, phát triển

hệ thống CNTT
- Sự phức tạp của mô hình mới, việc
sử dụng các ước tính dẫn đến mức
độ phán đốn cao hơn sẽ u cầu
tăng cường tính minh bạch, cơng
khai của BTCT cũng như các thơng
tin tài chính

tin tưởng hơn BCTC
- Ghi nhận ECL 12 tháng trong
giai đoạn 1 sẽ làm giảm lợi
nhuận, giảm cổ tức phân phối ra.
Các ngân hàng sẽ duy trì nguồn
vốn cao hơn cũng như giảm mức
độ TTTD quá mức trong trường
hợp diễn biến nến KT xấu đi, ổn
định tính chu kỳ của nền KT

- tăng áp lực về tăng khoản dự
phòng cho tổn thất tín dụng dự kiến,
giảm khả năng sinh lời, dẫn đến có
thể huỷ bỏ hoặc giảm cung tín dụng
-chi phí vận hành cho mơ hình ECL
cao hơn do cần đầu tư nhiều về
CNTT và thu thập dữ liệu

- Yêu cầu ghi nhận tổn thất tín
dụng sớm hơn, khuyến khích
các ngân hàng dự trữ thêm bộ
đệm vốn với mục đích chuẩn bị

khoản dự phịng trong trường
hợp nền kinh tế vĩ mơ xấu đi
- Khuyến khích ngân hàng áp
dụng chiến lược cho vay thận
trọng, ít chu kỳ và tăng cường
giám sát rủi ro
- Tăng tính minh bạch về chất
lượng tài sản, tăng niềm tin của
nhà đầu tư vào các BCTC ngân
hàng

(Frykström & Jieying,
2018)

- Ước tính tổn thất tín dụng kịp
thời và đầy đủ hơn
- Tăng tính chủ động cho kế
tốn dự phịng RRTD
- Cải thiện hệ thống kiểm sốt
chất lượng tín dụng

Hé lộ mơ hình tồn thất
tín dụng dự kiến trong
IFRS9
5

(Unveiling the expected
loss model in IFRS 9)
(Sanchidrián & García,
2018)

Mơ hình hố dự phòng
theo IFRS 9

6

- Nhận ra khoản tổn thất về rủi
ro tín dụng sớm hơn, mức ghi
nhận dự phịng tổn thất cao hơn
so với khi áp dụng IAS 39

(Modelling of provision
under new International
Financial and Reporting
Standard (IFRS 9))
(Csaba, 2017)

(Nguồn: Tác giả tổng hợp)
67


Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội
miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng cơng nghệ”– DCFB 2020

Có thể thấy các tác giả đều nhất trí rằng IFRS 9 mang lại hiệu quả lớn trong lĩnh vực tài chính ngân
hàng. Đó là:
- Ghi nhận tổn thất rủi ro tín dụng sớm hơn với mức ghi nhận dự phịng rủi ro tín dụng cao hơn
- Ước tính tổn thất tín dụng kịp thời và đầy đủ, ổn định tính chu kỳ
- Tăng tính nhất qn, minh bạch của chất lượng thơng tin tài chính
- Tăng niềm tin của các nhà đầu tư đối với BCTC
Bên cạnh những hiệu quả mà IFRS 9 mang lại, các bài nghiên cứu cũng chỉ ra một loạt các khăn khi các

quốc gia áp dụng IFRS 9 về kế toán giảm giá trị các khoản cho vay và phải thu. Đó là:
- Tăng áp lực về khoản DPRRTD, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của NHTM và lợi ích của các cổ
đông.
- Chi phí để vận hành mô hình ECL của IFRS 9 cao hơn do cần đầu tư vào phát triển chất lượng nguồn
nhân lực, cơ sở hạ tầng cơng nghệ thơng tin và q trình thu thập dữ liệu.
- Mơ hình mới tương đối phức tạp do địi hỏi nhiều phán xét mang tính chủ quan và ước tinh cho tương
lai
Các kết quả nghiên cứu trên được đưa ra dựa trên các nghiên cứu, khảo sát của các tác giả tại nhiều quốc
gia đã triển khai áp dụng IFRS 9. Các nghiên cứu liệt kê trong bảng trên và một số nghiên cứu khác ví dụ
(Gaston & Song, 2014) đều cho rằng việc triển khai IFRS 9 trên phạm vi toàn cầu là một hướng đi đúng, một
mơ hình kế tốn dựa trên tổn thất tín dụng dự kiến của IFRS 9 là một sự cải thiện đáng kể từ IAS 39. Tuy nhiên
các nghiên cứu được xem xét phía trên chỉ đề cập đến quá trình áp dụng IFRS 9 và tác động của nó đến ngành
ngân hàng tại các nước có nền kinh tế phát triển ở châu Âu, chưa có nghiên cứu nào xem xét q trình áp dụng
chuẩn mực kế tốn này tại Việt Nam hoặc các nền kinh tế có đặc điểm tương đồng Việt Nam. Bên cạnh những
kết quả nghiên cứu được nhiều tác giả đồng thuận về lợi ích mà IFRS 9 mang lại, thì những khó khăn trong
q trình áp dụng IFRS 9 gặp phải đó là chi phí vận hành lớn, hạn chế về trình độ nguồn nhân lực hoặc hạn
chế về hệ thống công nghệ thông tin chỉ được một vài tác giả đưa ra bình luận. Đây có thể coi là khoảng trống
nghiên cứu để tác giả đi vào tìm hiểu thêm khi khảo sát khả năng áp dụng IFRS 9 tại Việt Nam.
2. Phương pháp nghiên cứu
Kế thừa từ các nghiên cứu trước về khả năng áp dụng của một hoặc một số chuẩn mực kế tốn quốc tế
(ví dụ(Klefvenberg & Nordlander, 2015), (Phan, Mascitelli, & Barut, 2014) hay (Nguyen, 2014)), nghiên cứu
này sử dụng phương pháp nghiên cứu điều tra bằng bảng hỏi để tìm hiểu quan điểm của các chun gia kế
tốn - kiểm toán, những người làm việc trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng về triển vọng áp dụng IFRS 9
trong kế tốn dự phịng rủi ro tín dụng tại các NHTM Việt Nam, cũng như đánh giá những thách thức mà các
cơ quan nhà nước và hệ thống NHTM Việt nam phải đối mặt. Bảng hỏi gồm các câu hỏi được chia thành 3
nhóm chính bao gồm:
Phần 1: bao gồm 04 câu hỏi nhằm đánh giá quy định về việc trích lập DPRR và sử dụng dự phịng để
xử lý rủi ro theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tại TT 02/2013/TT-NHNN
Phần 2: bao gồm 05 câu hỏi về sự cần thiết và khả năng áp dụng IFRS 9 vào kế tốn sự phịng rủi ro
tín dụng tại các NHTM Việt Nam.

Phần 3: bao gồm 05 câu hỏi đánh giá mức độ phù hợp của các giải pháp đưa ra để Việt Nam có thể áp
dụng IFRS 9 trong kế tốn dự phịng rủi ro tín dụng.
Bảng hỏi dưới dạng gửi phiếu điều tra trực tiếp trên docs.google.com và phiếu điều tra trực tiếp qua email
tới 05 nhóm với kết quả cụ thể như trong bảng sau:

68


Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội
miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng cơng nghệ”– DCFB 2020

Bảng 3: Kích thước mẫu và tỷ lệ trả lời
Số lượng
Nhóm

Gửi diều
tra

Phản hồi

Tỷ lệ

Phản hồi

Phản hồi

có thể sử

khơng thể sử


dụng

dụng

Phản hồi
Phản hồi

có thể sử
dụng

Quản lý chính sách

40

6

5

1

15%

13%

Nghiên cứu - Giảng dạy

40

9


9

0

23%

23%

Tài chính - Ngân hàng

40

33

25

8

83%

63%

Kế tốn - Kiểm toán

40

14

11


3

35%

28%

Sinh viên

40

4

2

2

10%

5%

Tổng cộng

200

66

52

14


33%

26%

(Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả)
Theo kết quả khảo sát thông tin cá nhân, số năm kinh nghiệm của những người tham gia khảo sát chủ
yếu rơi là từ 1 năm đến dưới 3 năm (17,9%), từ 3 năm đến dưới 5 năm (31,3%), từ 5 năm đến dưới 10 năm
(17,9%). Vì vậy, kết quả của cuộc khảo sát này chủ yếu là của những người trẻ, có cơ hội được học hỏi và tiếp
cận với CM KTQT sớm. Tổng hợp phiếu trả lời phỏng vấn từ những người tham gia khảo sát, điểm số “Người trả
lời đồng ý” đã được tính tốn trên cơ sở hạng 4 (Đồng ý) và hạng 5 (Rất đồng ý) theo thang đo 5 điểm Likert. Tương
tự, điểm số “Người trả lời khơng đồng ý” được tính từ hạng 1 (Rất không đồng ý) và hạng 2 (Không đồng ý).
3. Kết quả nghiên cứu, thảo luận và hàm ý chính sách
3.1. Kết quả khảo sát về thực trạng trích lập dự phịng rủi ro tín dụng theo TT 02/2013/TT-NHNN tại các
tổ chức tín dụng Việt Nam
Khi được hỏi về việc các NHTM tại Việt Nam có tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của TT 02/2013/TTNHNN về trích lập DPRR TD hay khơng, có 65 câu trả lời có thể sử dụng được. Trong đó, có 38 phản hồi
đồng ý (chiếm 58,46%) và 02 phản hồi không đồng ý (chiếm 3%). Kết quả này cũng cho thấy nhận định của
phần lớn người tham gia trả lời là các NHTM đang thực hiện trích lập DPRR TD theo đúng quy định của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam. Với câu hỏi trích lập DPRRTD theo TT 02 đánh giá đúng mức độ rủi ro trong hoạt
động của NHTM, có 37 phản hồi đồng ý (chiếm 56.92%) và 5 phản hồi khơng đồng ý (chiếm 7.7%). Có thể
thấy, ở một góc độ nào đó, TT 02/2013/TT-NHNN được nhận định là phù hợp để đánh giá RRTD trong điều
kiện kinh tế xã hội Việt Nam.

69


Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội
miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020

Bảng 4. Kết quả khảo sát thực trạng trích lập DPRR TD theo TT 02/2013/TT-NHNN
tại các TCTD Việt Nam

Phản hồi
đồng ý (lựa
chọn mức 4
và 5)

%

Phản hồi
không đồng ý
(lựa chọn mức
1 và 2)

%

Không đưa ra
ý kiến (lựa
chọn mức 3)

Các NHTM tuân thủ nghiêm
ngặt các quy định của TT 02
trong trích lập DPRR tín dụng

38

58.46%

2

3.08%


25

Trích lập DPRRTD theo TT02
đánh giá đúng mức độ rủi ro
trong hoạt động tín dụng của các
NHTM

37

56.92%

5

7.69%

23

Trong hoạt động của NHTM, có
tồn tại tình trạng che giấu rủi ro
để thổi phồng lợi nhuận, làm đẹp
BCTC

27

41.54%

14

21.54%


24

TT 02 phù hợp với chuẩn mực kế
toán quốc tế, không cần phải thay
đổi

11

16.92%

31

47.69%

23

Lựa chọn

(Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả)
Tuy nhiên, khi được hỏi đến tình trạng che giấu rủi ro để thổi phồng lợi nhuận của các NHTM có tồn
tại hay khơng, phản hồi nhận được đó là 27 người đồng ý (chiếm 41.54%) có tồn tại tình trạng che giấu rủi ro
trong khi số người khơng đồng ý với nhận định này chỉ là 14 người (chiếm 21.54%).
Với nhận định TT 02 là phù hợp với chuẩn mực kế tốn quốc tế, khơng cần phải thay đổi, chỉ có 11
người (16,92%) ủng hộ nhận định này, trong khi con số không đồng ý là 31 phản hồi (chiếm 47,69%). Các kết
quả khảo sát này là cơ sở để tác giả tiến hành điều tra thêm về khả năng áp dụng của chuẩn mực kế toán quốc
tế mới về giảm giá trị khoản cho vay và phải thu tại các TCTD tại Việt Nam.
3.2. Kết quả khảo sát về những cản trở trong quá trình áp dụng IFRS 9
Mơ hình lỗ dự kiến hay tổn thất dự kiến của IFRS9 khác biệt so với những quy định của Việt Nam tại
TT 02/2013/TT-NHNN cũng như cách tiếp cận truyền thơng khi dự phịng chỉ được ghi nhận khi rủi ro được
coi là đã phát sinh. Do đó, khi hỏi những người tham gia khảo sát liệu có biết đến những quy định mới tại IFRS

9 về DPRRTD hay khơng thì chỉ có 34 người (chiếm 52.3%) đồng ý, số cịn lại là khơng bình luận và khơng
biết đến những quy định này. Đây là con số khá khiêm tốn vì IFRS 9 đã có hiệu lực từ 1/1/2018 trên toàn thế
giới và được áp dụng rộng rãi tại nhiều quốc gia.
Đối với 34 phản hồi có hiểu biết về những quy định IFRS 9, thì 82% (28 phiếu) đồng ý rằng kế toán
giảm giá trị khoản cho vay và phải thu theo IFRS 9 đánh giá đúng mức độ RRTD trong hoạt động ngân hàng,
số cịn lại khơng đưa ra bình luận.
Khi được hỏi nguyên nhân vì sao chuẩn mực kế toán quốc tế về DPRR TD đã được ban hành từ năm
1991, sau này là IAS 39 và hiện nay là IFRS 9 có hiệu lực từ 01/01/2018 và được áp dụng tại nhiều quốc gia

70


Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội
miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020

trên thế giới nhưng Việt Nam đến nay vẫn chưa có chuẩn mực tương ứng, cũng chưa bắt buộc áp dụng IFR 9.
Với 52 câu trả lời có thể sử dụng kết quả, đa số những người tham gia khảo sát đồng ý với các nguyên nhân:
- Hạn chế về ngoại ngữ (71,2% phản hồi đồng ý)
- Nhà nước lo ngại số liệu nợ xấu tăng cao khi áp dụng IFRS 9 sẽ gây hiệu ứng xấu lan truyền trong nền
kinh tế (lãi suất tăng, đóng băng tín dụng do các doanh nghiệp bị hạ bậc tín nhiệm…) với 78,8% phản hồi đồng
ý
- Chi phí xây dựng chuẩn mực mới theo IFRS 9 cao với 76,9% phản hồi đồng ý
- Thông tin thị trường thiếu minh bạch, không đủ tin cậy để đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng
(với 76,9% phản hồi đồng ý)
- Hệ thống xếp hạng tín nhiệm nội bộ chưa hồn thiện, hoạt động chưa hiệu quả (với kết quả là 76,9%
phản hồi đồng ý)
- Lãi suất trên thị trường biến động mạnh, gây khó khăn cho việc ước tính dịng tiền chiết khấu (59,6%
phản hồi đồng ý)
Kết quả khảo sát về nguyên nhân chưa áp dụng được chuẩn mực KTQT IFRS 9 về DPRRTD tại Việt
Nam hiện nay cũng là những khó khăn mà chúng ta phải đối mặt trong quá trình triển khai áp dụng chuẩn mực

này. Sau đây là bảng tổng kết kết quả khảo sát về những cản trở trong quá trình áp dụng IFRS 9 tại Việt Nam:
Bảng 5. Kết quả khảo sát những cản trở trong quá trình áp dụng IFRS 9 tại Việt Nam

Lựa chọn

Phản hồi
đồng ý
(lựa chọn
mức 4 và
5)

%

Phản hồi
không
đồng ý
(lựa chọn
mức 1 và
2)

%

Khơng
đưa ra ý
kiến
(lựa
chọn
mức 3)

28.8%


6

11.5%

31

VN đã có những quy định riêng về trích lập
DPRRTD, phù hợp với điều kiện KTXH

15

Hạn chế về ngoại ngữ

37

71.2%

6

11.5%

9

Trình độ nguồn nhân lực chưa đáp ứng được
yêu cầu

21

40.4%


4

7.7%

27

Thông tin thị trường thiếu minh bạch, không
đủ tin cậy để đánh giá khả năng trả nợ của
KH

40

76.9%

8

15.4%

4

Tâm lý thận trọng, ngại rủi ro

20

38.5%

5

9.6%


27

Lãi suất thị trường nhiều biến động, gây khó
khăn cho việc ước tính dịng tiền chiết khấu

31

59.6%

9

17.3%

12

Hệ thống xếp hạng tín nhiệm nội bộ chưa
hồn thiện, hoạt động chưa hiệu quả

40

76.9%

6

11.5%

6

Nhà nước lo ngại hiệu ứng xấu lan truyền

trong nền kinh tế

41

78.8%

6

11.5%

5

71


Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội
miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020

Cơ sở hạ tầng, công nghệ thơng tin chưa đáp
ứng

15

28.8%

24

46.2%

13


Chi phí xây dựng chuẩn mực mới theo IFRS
9 lớn

40

76.9%

7

13.5%

5

(Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả)
Cũng theo kết quả khảo sát trên, chỉ có 28,8% phản hồi đồng ý với việc cơ sở hạ tầng, công nghệ thông
tin chưa đáp ứng được yêu cầu là trở ngại khiến IFRS 9 chưa thể áp dụng ở Việt Nam và có đến 46,2% khơng
đồng tình với quan điểm này. Kết quả này phản ánh đúng thực tế hiện nay bởi nhiều NHTM đã chủ động trong
việc cập nhật và triển khai các phần mềm quản lý tập trung hiện đại theo tiêu chuẩn quốc tế cũng như sẵn sàng
đầu tư cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin để nâng cao chất lượng phục vụ và hoạt động hiệu quả. Bên cạnh
đó, những lo ngại về trình độ nguồn nhân lực cũng như tâm lý thận trọng, ngại rủi ro của người Việt Nam cũng
được nhận định không phải là khó khăn lớn trong việc triển khai áp dụng IFRS 9. Bởi vì chỉ cần có hướng dẫn
đầy đủ, thơng tin rõ ràng, với bản tính chịu khó học hỏi, chăm chỉ lao động, nguồn nhân lực của Việt Nam
hồn tồn có thể tiếp cận và thực hiện được các quy định theo IFRS 9.
3.3. Kết quả khảo sát về sự cần thiết và hiệu quả khi áp dụng IFRS 9 tại Việt Nam
Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại nhưng hầu hết phản hồi từ cuộc khảo sát đều nhất trí rằng việc
áp dụng IFRS 9 trong trích lập DPRR TD tại các NHTM Việt Nam là cần thiết và đánh giá khả năng áp dụng
là hồn tồn có thể nhưng cần thời gian và lộ trình phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội Việt Nam. Có đến
42/52 phản hồi (chiếm 80,7%) cho rằng cần thiết áp dụng IFRS 9 trong kế toán giảm giá trị khoản cho vay và
phải thu tại các NHTM Việt Nam vì các hiệu quả mà IFRS 9 mang lại. Đó là:

- IFRS 9 giúp đánh giá đúng mức độ RRTD trong hoạt động của các TCTD ở Việt Nam
- IFRS 9 tăng tính minh bạch, tin cậy của thơng tin tài chính
- IFRS 9 tăng khả năng so sánh BCTC của NHTM Việt Nam và quốc tế, tăng khả năng thu hút đầu tư
nước ngoài
Bảng 6. Kết quả khảo sát hiệu quả khi áp dụng IFRS 9 tại các TCTD Việt Nam
Lựa chọn

Phản hồi đồng ý

%

IFRS 9 giúp đánh giá đúng mức độ RRTD trong hoạt động NHTM ở Việt Nam

33

63.5%

IFRS 9 giúp thơng tin tài chính của các NHTM minh bạch, đáng tin cậy hơn

27

51.9%

IFRS 9 làm tăng khả năng so sánh của BCTC của NHTM Việt Nam và quốc tế,

21

40.4%

tăng khả năng thu hút đầu tư nước ngoài

(Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả)
Với 10/52 phiếu trả lời cho quan điểm không cần thiết phải áp dụng IFRS 9 trong trích lập DPRRTD tại
các NHTM Việt Nam, các lý do được đưa ra đó là:

72


Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội
miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020

Bảng 7. Kết quả khảo sát lý do không cần thiết áp dụng IFRS 9 tại Việt Nam
Phản hồi đồng ý

%

Việt Nam có quy định riêng về DPRR TD phù hợp với điều kiện KTXH

7

13.5%

Phương pháp xác định giảm giá trị khoản cho vay và phải thu theo IFRS 9
quá phức tạp

7

13.5%

Chi phí để áp dung IFRS 9 tại Việt Nam lớn hơn lợi ích mà nó mang lại


6

11.5%

Tính xét đốn trong IFRS 9 mang tính chủ quan dẫn đến thông tin đánh giá
không đồng nhất giữa các NHTM

8

15.4%

Lựa chọn

(Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả)
Trong nội dung câu hỏi về việc cần thiết áp dụng IFRS 9, tác giả có đưa ra một số phương án áp dụng
IFRS 9 và nhận được nhiều quan điểm từ những người tham gia khảo sát. Hầu hết các ý kiến đều cho rằng
không nên áp dụng trực tiếp toàn bộ IFRS 9 mà phải xây dựng chuẩn mực riêng về cơng cụ tài chính (bao gồm
nội dung DPRR TD) phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam.
Bảng 8. Kết quả khảo sát phương án áp dụng IFRS 9 tại Việt Nam
Phản hồi đồng ý

%

Áp dụng trực tiếp IFRS 9 về kế toán giảm giá trị khoản cho vay và phải thu

4

8%

Xây dựng những quy định riêng về kế toán giảm giá trị khoản cho vay và phải

thu trên cơ sở IFRS 9, phù hợp với điều kiện KTXH tại Việt Nam

37

71%

Lựa chọn

(Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả)
Các biện pháp được đưa ra để thúc đẩy quá trình áp dụng IFRS 9 tại Việt Nam tập trung vào việc cải
thiện chất lượng nguồn nhân lực, hoàn thiện hệ thống czung cấp thông tin, thu thập dữ liệu về khách hàng và
xây dựng khn khổ kế tốn cho DPRR TD.
Như vậy, quá trình khảo sát ý kiến về thực trạng trích lập DPRR TD tại các TCTD tại Việt Nam và khả
năng áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế IFRS 9 về kế toán giảm giá trị khoản cho vay và phải thu tại các
TCTD tại Việt Nam đã đưa ra một số kết luận sau:
- Thứ nhất, hiện nay các TCTD đều đang tuân thủ quy định của NHNN Việt Nam về trích lập DPRRTD
theo TT 02/1013/TT-NHNN. Tuy nhiên con số trích lập DPRRTD trên BCTC được đánh giá chưa phản ánh
chính xác mức độ rủi ro tín dụng đối với các NHTM, vẫn tồn tại tình trạng che giấu rủi ro, làm đẹp BCTC của
các NHTM Việt Nam.
- Thứ hai, áp dụng kế toán giảm giá trị các khoản cho vay và phải thu theo IFRS 9 được cho là cần thiết
trong quá trình hội nhập quốc tế của các NHTM Việt Nam. Bời IFRS 9 giúp phản ánh chính xác chất lượng
tín dụng, có xét đến thơng tin q khứ, tình hình hiện tại và dự báo tương lai của từng đối tượng khách hàng.
Tuy nhiên chúng ta cần có sự chọn lọc và lộ trình áp dụng để phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của Việt
Nam.
- Thứ ba, quá trình áp dụng IFRS 9 tại các TCTD ở Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn mà chủ yếu liên
quan đến chất lượng nguồn nhân lực và thông tin thị trường. Các giải pháp được đưa ra để thúc đẩy quá trình
áp dụng IFRS 9 cần được tiến hành đồng bộ và có sự tham gia của nhiều bên liên quan như chính phủ, ngân
hàng nhà nước, các TCTD.

73



Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội
miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Beatty, A., & Liao, S. (2011). Do delays in expected loss recognition affect banks' willingness to lend?
Journal of Accounting and Economics, 52(1), 1-20. doi: />[2] Bushman, R. M., & Williams, C. D. (2012). Accounting discretion, loan loss provisioning, and discipline
of banks’ risk-taking. Journal of Accounting and Economics, 54(1), 1-18.
[3] Cohen, B. H., & Edwards, G. (2017). The new era of expected credit loss provisioning. BIS Quarterly
Review, March.
[4] Csaba, K. (2017). Modelling of provision under new International Financial and Reporting Standard
(IFRS 9). Paper presented at the ZZ. Paprika et al., 31st European Conference on Modelling and
Simulation, ECMS, Hungary.
[5] Ernst & Young (2018), Applying IFRS: Impairment of financial instruments under IFRS 9, available
@ />[6] Frykström, N., & Jieying, L. (2018). IFRS 9–the new accounting standard for credit loss recognition.
Economic Commentaries(3).
[7] Gaston, E., & Song, M. I. (2014). Supervisory roles in loan loss provisioning in countries implementing
IFRS: International Monetary Fund.
[8] Gornjak, M. (2017). Comparison of IAS 39 and IFRS 9: The Analysis of Replacement. International
Journal of Management, Knowledge and Learning(1), 115-130.
[9] IASB. (2014). Project Summary - IFRS 9 Financial Instruments (pp. 32): IASB Foundation.
[10] IASB, IAS 39 – Financial instruments – Recognition and measurement,
[11] IASB, IFRS 9 – Financial Instruments
[12] Klefvenberg, L., & Nordlander, V. (2015). IFRS 9 replacing IAS 39: A study about how the
implementation of the Expected Credit Loss Model in IFRS 9 i beleived to impact comparability in
accounting.
[13] Laeven, L., & Majnoni, G. (2003). Loan loss provisioning and economic slowdowns: too much, too late?
Journal of Financial Intermediation, 12(2), 178-197. doi: />[14] Nguyen, N. T. T. (2014). Perceptions of accounting professionals towards the prospect of implementing
fair value under IASB in Vietnamese accounting system: A quantitative study of accounting professionals

in Vietnam.
[15] Novotny-Farkas, Z. (2015). The significance of IFRS 9 for financial stability and supervisory rules.
European Parliament, Directorate General for Internal Policies Policy Department A: Economic and
Scientific Policy, Brussels, European Union.
[16] Phan, D., Mascitelli, B., & Barut, M. (2014). Perceptions towards international financial reporting
standards (IFRS): The case of Vietnam. Global Review of Accounting and Finance Journal, 5(1), 132152.
[17] PwC (2017), IFRS 9-Financial Instruments: Understanding the basics, available at
/>[18] Sanchidrián, J. P., & García, C. J. R. (2018). Unveiling the expected loss model in IFRS 9 and Circular
4/2017. FINANCIAL STABILITY REVIEW(36), 143-160.
[19] Sultanoğlu, B. (2018). Expected credit loss model by IFRS 9 and its possible early impacts on European
and Turkish banking sector. Muhasebe Bilim Dünyası Dergisi, 20(3), 476-506.

74



×