Trường Đại học Thương Mại
Khoa Marketing
----------
BÀI THẢO LUẬN
Đề tài: Phân tích và chứng minh tính đúng đắn và sáng tạo của Đảng
ta trong đường lối kháng chiến chống mĩ cứu nước trong giai đoạn
(1954-1964)
Giảng viên: Phạm Bá Sanh
Nhóm: 2
(Nhóm trưởng: Trần Đức Hoàng)
Lớp: 2116HCMI0131
Hà Nội, 4/2021
Mục lục
A. Phần I: Tính đúng đắn sáng tạo của đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu
nước giai đoạn 1954-1964............................................................................................4
1.
Hoàn cảnh lịch sử............................................................................................4
2. Tính đúng đắn, sáng tạo trong hoạch định chính sách kháng chiến chống
Mỹ của Đảng ta:.......................................................................................................5
2.1. Đảng đã sớm nhận rõ và đánh giá đúng kẻ thù, có chủ trương, đường
lối phù hợp............................................................................................................5
2.2. Đảng ta đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược là
xây dựng miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam..................................7
2.3. Đảng ta có đường lối, phương hướng quân sự xuất sắc, đập tan chiến
lược của kẻ thù.....................................................................................................9
2.4. Đảng ta luôn giữ vững quan điểm độc lập, tự chủ, thực hiện đường lối
đối ngoại mềm dẻo, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các nước trên thế
giới, phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại..................................11
B.
Bài học kinh nghiệm cho ngày nay...................................................................12
1.
Kinh tế............................................................................................................12
2.
Quốc phòng, an ninh, đối ngoại....................................................................13
3. Dân chủ xã hội chủ nghĩa có tiến bộ, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc được
củng cố.....................................................................................................................16
4. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tăng cường, đạt 1 số kết quả
tích cực....................................................................................................................17
Những bài học kinh nghiệm được rút ra..............................................................18
C.
Kết luận...............................................................................................................18
2
Lời mở đầu
Để có được chiến thắng trong cuộc trường kì kháng chiến chống giặc Mỹ xâm
lược và đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa, Đảng và nhân dân ta đã chiến đấu anh dũng.
Bên cạnh đó chúng ta có những người lãnh đạo tài giỏi, những con người của Đảng đã
đoàn kết toàn dân toàn quân đưa chúng ta đến chiến thắng. Một trong những yếu tố
chính tạo nên thành cơng của cuộc kháng chiến đó chính là đường lối kháng chiến
chống Mỹ cứu nước của Đảng ta. Nếu đất nước là một con người, mỗi cá nhân là một
tế bào, thì Đảng chính là bộ não của con người đó. Những cán bộ lãnh đạo ln phải
đưa ra các chính sách, chiến lược cho các trường hợp, tình huống khác nhau trong các
lĩnh vực khác nhau, nhằm đem đến thành cơng và ít tổn thất nhất có thể. Chính vì vậy,
Đảng Cộng Sản Việt Nam ln đóng vai trị cực kì quan trọng trong tất cả các lĩnh
vực của đất nước. Cuộc kháng chiến chống Mỹ đi qua, chúng ta đã có được những
chiến thắng khiến thế giới phải ngả mũ thán phục. Vậy Đảng ta đã có những chiến
lược và chính sách mang tính đúng đắn và sáng tạo như thế nào trong đường lối kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, hãy cùng nhóm chúng tơi đi vào phân tích và tìm hiểu.
3
A. Phần I: Tính đúng đắn sáng tạo của đường lối kháng chiến chống
Mỹ cứu nước giai đoạn 1954-1964
1. Hoàn cảnh lịch sử
- Tình hình nước ngồi:
+ Phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh
phát triển mạnh mẽ thêm vào đó phong trào hịa bình, dân chủ đang lên cao ở
các nước tư bản chủ nghĩa. Đây là một điều kiện thuận lợi để cổ vũ tinh thần
đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta.
+ Tuy nhiên, trong giai đoạn này cũng có những khó khăn: Thế giới đang
bước vào thời kỳ chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang giữa hai phe xã hội chủ
nghĩa và tư bản chủ nghĩa, sự xuất hiện những mẫu thuẫn, bất đồng trong hệ
thống xã hội chủ nghĩa đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc, thêm vào đó là sự
xuất hiện đế quốc Mỹ hùng mạnh có âm mưu làm bá chủ thế giới, với các chiến
lược toàn cầu phản cách mạng được các đời tổng thống nối tiếp nhau xây dựng
và thực hiện.
- Về tình hình trong nước: Đặc điểm lớn nhất của cách mạng Việt Nam sau Hiệp
định Giơ-ne-vơ là đất nước tạm thời chia cắt, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến hai
miền với hai chế độ chính trị xã hội khác nhau:
+ Miền Bắc hoàn toàn độc lập, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, làm căn cứ địa
vững chắc cho cả nước tuy nhiên do mới được giải phóng nên kinh tế miền Bắc
còn nghèo nàn lạc hậu và xét về tiềm lực qn sự thì nước ta cịn yếu hơn Mỹ
rất nhiều.
+ Miền Nam do đế quốc, tay sai kiểm sốt, khơng chịu thực hiện hịa bình
thống nhất đất nước, trở thành thuộc địa kiểu mới của đế quốc Mỹ.
Từ đây, cách mạng Việt Nam đứng trước hai nhiệm vụ phải tiến hành đồng
thời, đó là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiếp tục hoàn thành
4
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, với mục tiêu chung là
củng cố hịa bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên nền tảng độc lập và
dân chủ.
Trong giai đoạn này, có một số những thuận lợi cho cách mạng nước ta đó
là: thế và lực của cách mạng đã lớn mạnh hơn sau 9 năm kháng chiến, tồn
thể dân tộc Việt Nam một lịng, quyết tâm thống nhất đất nước.
- Cùng một lúc phải tiến hành hai chiến lược, hai nhiệm vụ cách mạng là điều
chưa từng có tiền lệ trong lịch sử Việt Nam và thế giới. Để giải quyết nhiệm vụ
to lớn và quan trọng đó, Đảng ta cần đề ra đường lối đúng đắn, phù hợp với
thực tiễn của đất nước và thế giới, đáp ứng nguyện vọng của Nhân dân. Đối với
miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Miền Bắc nhất định phải tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Mà đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một
nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Đối với nhiệm vụ cách mạng miền Nam
và cả nước, Người chỉ rõ: “Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh
thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, hoàn thành cách
mạng dân tộc, dân chủ trong cả nước; ra sức củng cố và đưa miền Bắc tiến lên
chủ nghĩa xã hội; xây dựng một nước Việt Nam hịa bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ và giàu mạnh; tích cực góp phần bảo vệ hịa bình ở Đơng Dương,
Đơng Nam Á và thế giới”.
2. Tính đúng đắn, sáng tạo trong hoạch định chính sách kháng chiến chống
Mỹ của Đảng ta:
2.1. Đảng đã sớm nhận rõ và đánh giá đúng kẻ thù, có chủ trương, đường
lối phù hợp.
Xuất phát từ tương quan lực lượng giữa ta và địch, từ tháng 7-1954, Đảng quyết
định thay đổi phương thức đấu tranh quân sự sang đấu tranh chính trị, lãnh đạo quần
chúng đấu tranh đòi đối phương phải thi hành Hiệp định, tiếp tục thực hiện cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, trong tình hình mới.
5
Nắm vững âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ ở Việt Nam và Đông Dương, nên
ngay trước ngày ký Hiệp định Giơnevơ, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa II) từ ngày 15 đến ngày 17-7-1954, đã chỉ rõ: "Hiện nay đế quốc
Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực
tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc
Mỹ."
Ngày 22-07-1954, Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi đồng baò và cán bộ chiến sĩ cả
nước: “Trung Nam Bắc đều là bờ cõi của ta, nước ta nhất định sẽ thống nhất, đồng
bào cả nước nhất định được giải phóng.”
Tháng 9-1954, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về tình hình mới, nhiệm vụ mới và
chính sách mới của Đảng. Nghị quyết đã chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của tình hình
trong lúc cách mạng Việt Nam bước vào một giai đoạn mới là: từ chiến tranh chuyển
sang hịa bình; nước nhà tạm chia làm hai miền; từ nông thôn chuyển vào thành thị; từ
phân tán chuyển đến tập trung.
Tại hội nghị lần thứ bảy tháng 3-1955 và lần thứ tám tháng 8-1955 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa II) đã nhận định: Mỹ và tay sai đã hất cẳng Pháp ở miền
Nam, công khai lập nhà nước riêng chống phá Hiệp định Giơnevơ, đàn áp phong trào
cách mạng.
Tháng 8-1956, tại Nam Bộ đồng chí Lê Duẩn đã dự thảo Đường lối cách mạng
miền Nam, xác định con đường phát triển của cách mạng miền Nam là bạo lực cách
mạng, “Ngồi con đường cách mạng khơng có một con đường khác”.
Tháng 1-1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ mười lăm.
Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và trong nước, Nghị quyết Hội nghị chỉ rõ:
Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách thống
trị của đế quốc và phong kiến, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam;
Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa
6
giành chính quyền về tay nhân dân. Đó là con đường lấy sức mạnh của quần chúng,
dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp đấu tranh chính trị và
vũ trang để đánh đổ chính quyền thống trị độc tài Ngơ Đình Diệm, tay sai của đế quốc
Mỹ, thành lập một chính quyền liên hiệp dân tộc, dân chủ ở miền Nam. “Tuy vậy, cần
thấy rằng cách mạng ở miền Nam vẫn có khả năng hịa bình, phát triển, tức là khả
năng dần dần cải biến tình thế, dần dần thay đổi cục diện chính trị ở miền Nam có lợi
cho cách mạng: Khả năng đó hiện nay rất ít, song Đảng ta khơng gạt bỏ khả năng đó,
mà cần ra sức tranh thủ khả năng đó.”
Nghị quyết Hội nghị lần thứ mười lăm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khố
II) có ý nghĩa lịch sử to lớn, chẳng những đã đáp ứng đúng nhu cầu của lịch sử, mở
đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, mà còn thể hiện rõ bản lĩnh cách mạng độc
lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trong những năm tháng khó khăn của cách mạng.
2.2.
Đảng ta đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược là
xây dựng miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam.
Tại hội nghị lần thứ bảy (3-1955) và lần thứ tám (8-1955) Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa II) đã chỉ ra rằng: Muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hịa
bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ, điều cốt lõi là phải ra sức
củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân
miền Nam.
Tháng 12-1957, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 13, đường lối tiến hành đồng
thời hai chiến lược cách mạng, được xác định: “Mục tiêu và nhiệm vụ cách mạng của
toàn Đảng, toàn dân ta hiện nay là: Củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ
nghĩa xã hội. Tiếp tục đấu tranh để thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập
và dân chủ bằng phương pháp hịa bình”.
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn cách mạng Việt Nam,
Đảng ta nhận định: Trong thời đại ngày nay, khi độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
7
không thể tách rời nhau, và ở nước ta, khi giai cấp cơng nhân giữ vai trị lãnh đạo
cách mạng thì thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng là sự bắt đầu
của cách mạng xã hội chủ nghĩa, sự bắt đầu của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã
hội, sự bắt đầu của thời kỳ thực hiện nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vơ sản. Từ
đó, Đảng ta đề ra và giải quyết vị trí, vai trị nhiệm vụ của cách mạng từng miền cũng
như mối quan hệ giữa hai chiến lược cách mạng ở hai miền.
Để củng cố miền Bắc, Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ rõ, trước hết cần
hoàn thành cải cách ruộng đất, chia ruộng đất cho nông dân, xóa bỏ chế độ sở hữu
ruộng đất của giai cấp địa chủ; đưa miền Bắc tiến dần từng bước lên chủ nghĩa xã hội;
kiện toàn lãnh đạo các cấp và củng cố Mặt trận Dân tộc thống nhất.
Nhiệm vụ của Đảng ở miền Nam trong giai đoạn mới là: “Lãnh đạo nhân dân
miền Nam đấu tranh thực hiện Hiệp định đình chiến, củng cố hịa bình, thực hiện tự
do dân chủ, cải thiện dân sinh, thực hiện thống nhất và tranh thủ độc lập. Đồng thời
phải lãnh đạo nhân đấu tranh chống những hành động khủng bố, đàn áp, phá cơ sở
của ta, bắt bớ cán bộ ta và quần chúng cách mạng, chống những hành động tiến công
của địch, ngụy, giữ lấy quyền lợi quần chúng đã giành được trong thời kỳ kháng
chiến, nhất là ở những vùng căn cứ địa và vùng du kích cũ của ta.”
Quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng ở hai miền cũng là q trình Đảng ta cụ
thể hố đường lối Đại hội III của Đảng. Trong khi đề ra nhiệm vụ cải tạo và xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Đảng khơng chỉ căn cứ vào tình hình miền Bắc, mà cịn
căn cứ vào tình hình miền Nam, đề ra những chủ trương không chỉ đáp ứng nguyện
vọng của nhân dân miền Bắc, nhân dân miền Nam, mà cịn tranh thủ được sự đồng
tình ủng hộ của tầng lớp trên ở miền Nam có tinh thần dân tộc, yêu nước, mở rộng
mặt trận dân tộc giải phóng và tinh thần quốc tế. Bằng công cuộc xây dựng kinh tế xã hội ở miền Bắc trên đà “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc” lên CNXH, vừa
bảo đảm đời sống cho nhân dân miền Bắc, vừa tăng cường lực lượng làm hậu thuẫn
và chi viện cho cách mạng miền Nam. Sự gắn bó chặt chẽ giữa cách mạng XHXN ở
8
miền Bắc và cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam làm cho thế và lực của cách
mạng cả nước cũng như của miền Nam không ngừng tăng lên. Nhờ vậy, cách mạng
miền Nam đã sử dụng được sức mạnh tổng hợp của cả nước để tiến công địch, đánh
bại mọi chiến lược, chiến thuật của đế quốc Mỹ và tay sai.
Thực hiện Nghị quyết 15 của Đảng và sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
miền Bắc đã mở đường chi viện cách mạng miền Nam. Đường vận tải trên bộ mang
tên đường 559, trên biển mang tên đường 759. Đường vận tải Hồ Chí Minh trên bộ
hình thành từ ngày 19-5-1959, đường Hồ Chí Minh trên biển từ ngày 23-10-1961 và
kéo dài hàng ngàn km từ Đắc vảo Nam cả trên bộ và trên biển. Các tỉnh miền Bắc đã
chủ động kết nghĩa với các tỉnh miễn Nam để phối hợp đầu tranh cách mạng vì mục
tiêu giải phóng miễn Nam, thống nhất Tổ quốc.
Đây là sự sáng tạo của Đảng ta trong quá trình nhận thức và giải quyết mối quan
hệ giữa hồ bình và cách mạng khi đã trở thành vấn đề lý luận và thực tiễn nóng hổi.
Đường lối trên thể hiện tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta. Lý luận đó đã
được thực tiễn chứng minh, đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng
khác nhau ở hai miền là đúng đắn, sáng tạo. Hai chiến lược cách mạng chẳng những
khơng mâu thuẫn mà cịn hỗ trợ, thúc đẩy nhau cùng phát triển, đồng thời góp phần
làm phong phú lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin về đường lối tiến hành đồng thời hai
chiến lược cách mạng trên phạm vi một nước bị chia cắt và đường lối này chưa có
tiền lệ trong lịch sử, chỉ duy nhất được thực hiện ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.3.
Đảng ta có đường lối, phương hướng quân sự xuất sắc, đập tan chiến
lược của kẻ thù
Tháng 1-1961 và tháng 2-1962, các cuộc Hội nghị của Bộ Chính trị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng đã phân tích, đánh giá tình hình giữa ta và địch ở miền Nam
kể từ sau ngày Đồng khởi. Từ sự phân tích, đánh giá đúng tình hình, Bộ Chính trị đã
9
ra chỉ thị về “Phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt của cách mạng miền
Nam”. Tinh thần của chỉ thị là giữ vững thế chiến lược tiến công của cách mạng miền
Nam đã giành được từ sau phong trào Đồng khởi, đưa đấu tranh vũ trang phát triển
lên song song với đấu tranh chính trị, tiến cơng địch trên cả ba vùng chiến lược: đô
thị, nông thôn đồng bằng và nông thôn rừng núi, bằng ba mũi giáp cơng: qn sự,
chính trị và binh vận. Trên thực tế, đây là quyết định chuyển cuộc đấu tranh của nhân
dân miễn Nam từ khởi nghĩa từng phần sang chiến tranh cách mạng và chỉ rõ những
nhiệm vụ cụ thể cho cách mạng miễn Nam là phải tiêu hao, tiêu diệt lực lượng quân
đội Sài Gòn và làm phá sản quốc sách “Ấp chiến lược” của địch.
Bộ Chính trị nhấn mạnh, do đặc điểm phát triển không đều của cách mạng miền
Nam, tương quan lực lượng ở mỗi vùng khác nhau, địa hình hoạt động và tác chiến
khác nhau, nên phương châm đấu tranh của ta phải linh hoạt, thích hợp với từng nơi,
từng lúc cụ thể:
+ Vùng rừng núi: Lấy đấu tranh vũ trang là chủ yếu.
+ Vùng nông thôn đồng bằng: Kết hợp hai hình thức đấu tranh vũ trang và chính trị.
+ Vùng đơ thị: Lấy đấu tranh chính trị là chủ yếu.
Để tăng cường sự chỉ đạo của Trung ương Đảng đối với cách mạng miền Nam,
tháng 10-1961, Trung ương Cục miền Nam được thành lập, do Nguyễn Vặn Linh làm
Bí thư. Đảng bộ miền Nam được kiện toàn với hệ thống tổ chức thống nhất, tập trung
từ Trung ương Cục đến các chi bộ. Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam
cịn làm chức năng của chính quyền cách mạng. Ngày 15-2-1961, các lực lượng vũ
trang ở miền Nam được thống nhất với tên gọi Quân giải phóng miền Nam Việt Nam.
Vượt qua khó khăn, cách mạng miền Nam tiếp tục có bước phát triển mới, tiêu
biểu là chiến thắng vang dội ở Ấp Bắc (Mỹ Tho). Chiến thắng Ấp Bắc (2-1-1963) đã
thể hiện sức mạnh và hiệu quả của đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị
và binh vận, chống địch càn quét và nổi đậy giành quyền làm chủ.
10
Từ đầu năm 1963, sau chiến thắng Ấp Bắc, phong trào đấu tranh phá “ấp chiến
lược” phát triển mạnh mẽ, với phương châm “bám đất, bám làng”, “một tấc không đi,
một ly không rời”. Phong trào đấu tranh quân sự và phong trào phá “Ấp chiến lược”
phát triển đã thúc đẩy phong trào đấu tranh chính trị ở các đơ thị lên cao, lôi cuốn
đông đảo các tầng lớp nhân dân lao động, trí thức, học sinh, sinh viên và các giáo phái
tham gia, đặc biệt là phong trào đấu tranh của đồng bào Phật giáo năm 1963.
Tháng 12-1963, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 9, xác định những vấn
đề quan trọng về đường lối cách mạng miền Nam và đường lối đoàn kết quốc tế của
Đảng. Nghị quyết Trung ương lần thứ 9 đã xác định “đấu tranh vũ trang đóng vai trị
quyết định trực tiếp” thắng lợi trên chiến trường.
Với tính thần chủ động, sáng tạo, lực lượng cách mạng ở miền Nam đã làm phá
sản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ ở miền Nam. Ba trụ cột của
chiến lược này là xây dựng chính quyền Sài Gịn từ trung ương đến cơ sở mạnh, xây
dựng quân đội mạnh và bình định nơng thơn miền Nam đều khơng thực hiện được.
Chính quyền Ngơ Đình Diệm bị lật đỗ (1-11-1963) đã gây nên tình hình rồi loạn kéo
dài trên chính trường miền Nam thời gian sau đó.
2.4.
Đảng ta ln giữ vững quan điểm độc lập, tự chủ, thực hiện đường lối
đối ngoại mềm dẻo, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các nước trên
thế giới, phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta diễn ra trong bối cảnh quốc tế
phức tạp, với cả thuận lợi và khơng ít khó khăn. Kẻ thù của ta lại là một đế quốc có
sức mạnh kinh tế, kỹ thuật, quân sự hàng đầu thế giới, âm mưu của chúng là chiếm
miền Nam, tiến tới xâm chiếm cả nước ta; thực hiện chia rẽ Bắc - Nam và chia rẽ các
nước xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết tại Hội nghị Trung ương lần thứ 15 của Ban Chấp hành Trung ương cũng
nêu rõ cần tăng cường công tác Mặt trận để mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân; củng
11
cố, xây dựng Đảng bộ miền Nam thật vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức để
đủ sức lãnh đạo trực tiếp cách mạng miền Nam.
Đường lối này đã phản ánh đúng nguyện vọng và ý chí quyết tâm của nhân dân ta,
dân tộc ta, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước, con người Việt Nam và xu thế
tiến bộ của nhân loại, tạo sự đoàn kết nhất trí, phát huy sức mạnh tồn dân tộc, đồng
thời tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em và sự ủng hộ của
nhân dân u chuộng hịa bình trên thế giới, tạo sức mạnh tổng hợp để đánh Mỹ và
thắng Mỹ. Để thực hiện đường lối này, một mặt, chúng ta tập trung phát triển tiềm lực
của mình; mặt khác, thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn, mềm dẻo, tranh thủ sự
đồng tình ủng hộ của các nước trên thế giới, đặc biệt là sự đồng tình ủng hộ và đồn
kết hiệp đồng chiến đấu của hai nước Lào, Cam-pu-chia, sự giúp đỡ quý báu của các
nước xã hội chủ nghĩa, nhất là Liên Xô, Trung Quốc, Cu-ba. Về vấn đề này, Chủ tịch
Hồ Chí Minh là người có tầm nhìn chiến lược sâu rộng, sắc sảo, sáng tạo lớn. Từ năm
1956, Người đã viết trên báo Sự thật của Liên Xô: "Trong tình hình quốc tế hiện nay,
những đặc điểm dân tộc và những điều kiện riêng biệt ở từng nước ngày càng trở
thành nhân tố quan trọng trong việc vạch ra chính sách của mỗi Đảng cộng sản và
những vấn đề được đề ra cho đảng này hoặc đảng khác tuyệt nhiên không phải là việc
riêng của mỗi đảng mà có quan hệ thiết thân đến tồn bộ giai cấp vơ sản quốc tế". Với
tầm nhìn chiến lược ấy, Người giải thích với bạn bè quốc tế rằng: "Việc dân tộc Việt
Nam phải vạch ra những phương pháp và biện pháp riêng của mình để chống âm mưu
của đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai hịng vĩnh viễn chia cắt đất nước cũng như để
quá độ dần dần lên CNXH là điều thật rõ ràng, nhưng lúc này thì sự đoàn kết thực sự
của phe XHCN và của các dân tộc u chuộng hịa bình trên thế giới đối với chúng tơi
cũng cần thiết khơng kém gì hồi kháng chiến chống Pháp.
B. Bài học kinh nghiệm cho ngày nay
1. Kinh tế
12
- Phịng chống tham nhũng: Bác Hồ kính u từng viết trong tác phẩm nổi tiếng
“Sửa đổi lối làm việc”: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, muôn việc thành công
hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém". Chống tham nhũng không phải đến hôm
nay mới xuất hiện trong các văn kiện của Ðảng. Nhìn lại các kỳ Ðại hội từ giai đoạn
Ðổi mới, Ðảng ta đã thường xuyên cảnh báo, nêu quyết tâm về việc phịng, chống
nguy cơ suy thối, tham nhũng, tiêu cực. Ngay từ giữa nhiệm kỳ của Ðại hội VII, lúc
xã hội mới nảy sinh các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng trong q trình chuyển đổi
cơ chế, Ðảng đã chính thức xác định bốn nguy cơ trước mắt là: tụt hậu xa hơn về kinh
tế; chệch hướng XHCN; tham nhũng và các tệ nạn xã hội; âm mưu và hành động
"diễn biến hịa bình" của các thế lực thù địch. Đến Ban Chấp hành Trung ương khóa
VIII, nhiệm vụ chống tham nhũng được ghi dấu bằng nghị quyết của Hội nghị Trung
ương 6 (lần 2). Nhiệm kỳ các Ðại hội khóa IX, khóa X đều có sơ kết, tổng kết nhưng
hành động còn thiếu kiên quyết, tạo cơ hội cho tiêu cực, tham nhũng phát triển và lây
lan. Nhiệm kỳ Ðại hội khóa XI, tại Hội nghị Trung ương 4, cơng tác phòng, chống
tham nhũng được khơi dậy với quyết tâm lớn nhưng kết quả lại chưa đạt yêu cầu.
Niềm tin vào sự lãnh đạo của Ðảng trong các tầng lớp nhân dân bị thách thức nghiêm
trọng khi kết thúc Hội nghị Trung ương 6 (khóa XI).
- Trong xây dựng tiềm lực kinh tế cần quan tâm các giải pháp gắn kết chặt chẽ
giữa tăng trưởng kinh tế với bảo đảm tiến bộ, cơng bằng xã hội, phát triển văn hóa,
giáo dục; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh theo ngành, vùng và lãnh
thổ, trong xây dựng khu vực phòng thủ cấp tỉnh, cấp huyện.
2. Quốc phòng, an ninh, đối ngoại
Quốc phòng, an ninh
- Tổng kết thực tiễn xây dựng nền quốc phịng tồn dân, nền an ninh nhân dân
trong hơn ba thập kỷ đổi mới; tiếp tục bổ sung, phát triển lý luận về xây dựng nền
quốc phịng tồn dân, nền an ninh nhân nhân vững mạnh toàn diện; hướng tới việc
13
phát triển học thuyết quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trong
thời kỳ mới
- Tập trung nghiên cứu các giải pháp xây dựng tiềm lực, lực lượng và thế trận
quốc phịng tồn dân gắn với xây dựng tiềm lực, lực lượng và thế trận an ninh nhân
dân vững chắc trên các vùng chiến lược, trên từng địa bàn tỉnh, thành phố.
- Về xây dựng tiềm lực quốc phòng và an ninh, cần tiếp tục nghiên cứu phát triển
lý luận về xây dựng tiềm lực toàn diện, từ chính trị, tư tưởng đến tổ chức; từ nhân lực,
vật lực đến tài lực; từ lực lượng vật chất đến lực lượng phi vật chất, song cần tập
trung vào những khía cạnh chủ yếu là tiềm lực chính trị - tinh thần, tiềm lực kinh tế,
tiềm lực khoa học - công nghệ và tiềm lực quân sự.
- Tập trung nghiên cứu cung cấp luận chứng khoa học cho việc xây dựng Quân đội
nhân dân và Công an nhân dân vững mạnh về chính trị, làm cơ sở để nâng cao chất
lượng tổng hợp và sức chiến đấu, thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu
trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
- Về xây dựng thế trận quốc phòng, an ninh, cần nghiên cứu đề xuất những giải
pháp toàn diện, cả thế trận bên trong và bên ngoài, thế trận thời bình và thời chiến.
Trong đó, xây dựng thế trận bên trong cần nghiên cứu đề xuất những giải pháp khai
thác các yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, xây dựng “thế trận lòng dân”, “thế trận
làng, xã” là quan trọng nhất; giải pháp xây dựng thế trận khu vực phòng thủ cấp tỉnh,
cấp huyện và thế trận phòng thủ qn khu kết hợp với các tình huống quốc phịng,
qn sự, an ninh cả trong thời bình và thời chiến; xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã
hội với xây dựng các cơng trình phịng thủ qn sự và dân sự; xây dựng thế trận quốc
phịng tồn dân với thế trận an ninh nhân dân trong cả nước.
Đối ngoại
14
- Trong giai đoạn 1945 - 1975, Đảng và Nhà nước ta đã chủ động triển khai các
hoạt động văn hóa, tun truyền đối ngoại, nhằm nêu cao chính nghĩa của cuộc kháng
chiến của dân tộc Việt Nam, tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của các lực lượng cách
mạng và nhân dân tiến bộ trên thế giới, góp phần quan trọng vào việc từng bước phá
vỡ vòng vây của chủ nghĩa đế quốc, phục vụ công cuộc đấu tranh giành độc lập dân
tộc, thống nhất đất nước. Sau khi đất nước thống nhất và gần ba mươi năm thực hiện
chính sách đổi mới, đặc biệt là giai đoạn từ 1998 đến nay, hoạt động văn hóa đối
ngoại đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, thể hiện sự lớn mạnh về cả số lượng và
chất lượng. Cùng với việc mở rộng quan hệ đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa,
hàng loạt hoạt động văn hóa đối ngoại với quy mô khác nhau đã được tổ chức ở khắp
các châu lục. Nhiều Ngày/Tuần/Tháng văn hóa Việt Nam, lễ hội Văn hóa - Du lịch,
các hoạt động biểu diễn nghệ thuật, tuần phim, triển lãm giới thiệu hình ảnh đất nước,
con người, hội thảo, xúc tiến, quảng bá du lịch... đã được tổ chức ở nhiều khu vực,
nhiều nước trên thế giới. Hoạt động văn hóa đối ngoại được Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương, các tổ chức đối ngoại nhân
dân, các Đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài tổ chức gây được tiếng vang, để lại
những dấu ấn tích cực trong lịng bè bạn quốc tế.
- Theo báo cáo Chính trị tại Đại hội XIII của Đảng, quan hệ đối ngoại của Việt
Nam sau Đại hội XIII sẽ dựa trên chính sách: vừa hợp tác, vừa đấu tranh; Đẩy mạnh
đối ngoại song phương và nâng tầm đối ngoại đa phương; Chủ động tham gia và phát
huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN, Liên hợp
quốc (LHQ), APEC, hợp tác tiểu vùng Mê Công và các khuôn khổ hợp tác khu vực và
quốc tế, trong những vấn đề và các cơ chế quan trọng có tầm chiến lược, phù hợp với
yêu cầu, khả năng và điều kiện cụ thể; Coi trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị,
truyền thống với các nước láng giềng; Chủ động tham gia và phát huy vai trò của Việt
Nam tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN, Liên hợp quốc (LHQ), APEC, hợp
tác tiểu vùng Mê Công và các khuôn khổ hợp tác khu vực và quốc tế, trong những vấn
đề và các cơ chế quan trọng có tầm chiến lược, phù hợp với yêu cầu, khả năng và điều
15
kiện cụ thể; Coi trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống với các nước
láng giềng; Chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước ASEAN xây dựng
Cộng đồng đoàn kết, vững mạnh, giữ vững vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu
trúc an ninh khu vực; Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương với
các đối tác, đặc biệt là các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối tác quan
trọng khác, tạo thế đan xen lợi ích và tăng độ tin cậy; Chủ động, tích cực tham gia các
cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh theo tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc; Kiên
quyết, kiên trì đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp của các thế
lực thù địch vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị đất nước; Tiếp tục thúc đẩy giải quyết
các vấn đề an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên biển trên cơ sở luật pháp quốc
tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982; Chủ động tham gia,
tích cực đóng góp, nâng cao vai trị của Việt Nam trong xây dựng, định hình các thể
chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc
tế và các hiệp định thương mại đã ký kết.
3. Dân chủ xã hội chủ nghĩa có tiến bộ, sức mạnh đại đồn kết dân tộc
được củng cố
- Văn kiện và Nghị quyết Đại hội XII của Đảng xác định: “Đại đoàn kết toàn
dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to
lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc
trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức
do Đảng lãnh đạo. Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của
nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam
hịa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh".
- Để huy động được sức mạnh và trí tuệ của tồn dân đóng góp cho sự nghiệp
đổi mới đất nước, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, trước hết phải quán
16
triệt và thực hiện cho được quan điểm “Dân là gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Nước lấy dân làm gốc; Gốc có vững cây mới bền; Xây lầu thắng lợi trên nền nhân
dân”. Các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận cần chăm lo, phát huy và bảo đảm
quyền làm chủ của nhân dân.
- Quan điểm “Dân là gốc” phải được coi là nền tảng của công cuộc đổi mới và
phát triển đất nước. Sự nghiệp đổi mới đất nước là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân,
nên mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều
phải xuất phát từ dân, dựa vào dân để thực hiện.
- Ðề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp,
đoàn kết mọi người vào Mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội. Ðộng viên và
phát huy khối đại đoàn kết dân tộc luôn gắn liền với yêu cầu mở rộng dân chủ và giữ
vững kỷ cương trong đời sống xã hội.
- Tổ chức thực hiện các chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, đặc biệt là
thực hiện tốt chỉ tiêu giảm nghèo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thực hiện có
hiệu quả nhiều chính sách để ổn định và từng bước nâng cao đời sống nhân dân, thu
nhập của người dân không ngừng được cải thiện.
4. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tăng cường, đạt 1 số kết
quả tích cực.
- Theo đồng chí Phạm Minh Chính, nhiệm kỳ qua, cơng tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng được Trung ương và cấp ủy các cấp đặc biệt coi trọng, triển khai thực hiện
toàn diện, đồng bộ với quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt và đạt
được nhiều kết quả rõ rệt, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội
XII của Đảng.
- Công tác xây dựng Đảng về tư tưởng tiếp tục được tăng cường, đã góp phần
nâng cao nhận thức, củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và đồng thuận trong
xã hội.
17
- Công tác xây dựng Đảng về đạo đức được Trung ương và các cấp ủy, tổ chức
đảng đề cao, nhận thức và hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đảng viên
giữ vị trí lãnh đạo, quản lý có chuyển biến tích cực.
- Cơng tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được tăng cường, có nhiều đổi mới,
đạt kết quả quan trọng; chất lượng, hiệu lực, hiệu quả được nâng lên.
- Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng được lãnh đạo, chỉ đạo và thực
hiện quyết liệt, toàn diện, đi vào chiều sâu, với quyết tâm chính trị rất cao, khơng có
vùng cấm, khơng có ngoại lệ và đạt nhiều kết quả rất quan trọng, rõ rệt, được cán bộ,
đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao và quốc tế ghi nhận.
Những bài học kinh nghiệm được rút ra
1. Phải kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện nghiêm các nguyên tắc của Đảng; kịp thời tổng
kết thực tiễn, phát triển lý luận để đổi mới sáng tạo, chống bảo thủ, trì trệ; đấu
tranh kiên quyết với những biểu hiện cơ hội chính trị.
2. phải đặc biệt coi trọng sự đồn kết, thống nhất ý chí và hành động trong Đảng,
trước hết trong Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, lãnh đạo
chủ chốt và cấp ủy các cấp.
3. phải thấm nhuần sâu sắc quan điểm công tác cán bộ là nhiệm vụ “then chốt”
của cơng tác xây dựng Đảng, có liên quan đến sự sống còn của Đảng và vận
mệnh của chế độ; cán bộ là cái gốc của mọi công việc, là nhân tố quyết định sự
thành bại của cách mạng.
4. xây dựng Đảng phải gắn kết chặt chẽ với lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội,
bảo đảm quốc phòng, an ninh và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.
5. trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện phải có quyết tâm chính trị cao, nỗ
lực lớn, hành động quyết liệt, cách làm bài bản, dân chủ, chắc chắn và có bước
18
đi phù hợp; kiên trì, cầu thị, lắng nghe; khơng cầu tồn, khơng chủ quan nóng
vội, mất cảnh giác và khơng tự mãn với thành tích đạt được.
C. Kết luận
Đường lối chính trị, quân sự của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước là kết quả của cả một q trình tìm tịi, tổng kết thực tiễn phong trào đấu tranh
cách mạng sôi nổi, rộng khắp, liên tục, mạnh mẽ trên mọi miền đất nước trong những
tháng năm toàn dân tộc đồng lòng đánh Mỹ dưới ngọn cờ của Đảng. Đường lối đó
đáp ứng địi hỏi bức xúc của cách mạng Việt Nam, của dân tộc Việt Nam trước thử
thách ngặt nghèo của lịch sử; đáp ứng khát vọng của mọi người Việt Nam u nước.
Đó chính là nhân tố cốt lõi tạo nên sức mạnh vô địch của chiến tranh nhân dân Việt
Nam thời đại Hồ Chí Minh; là nhân tố mang ý nghĩa quyết định nhất trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN ngày nay.
Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành
quả vĩ đại nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh
lãnh đạo. Thắng lợi đó đã kết thúc vẻ vang 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc,
bảo vệ Tổ quốc, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị kéo dài hơn một thế kỷ của chủ
nghĩa thực dân, đế quốc trên đất nước ta, hoàn thành về cơ bản cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân trên cả nước, bảo vệ và phát triển những thành tựu của cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, hoàn thành thống nhất đất nước. Thắng lợi đó đã
mở ra một thời kỳ mới cho dân tộc Việt Nam: đất nước độc lập, thống nhất và tiến lên
chủ nghĩa xã hội, chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng đất nước giàu mạnh, xã
hội công bằng, văn minh và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, góp phần
làm tăng thêm sức mạnh và thế tiến công cách mạng trên thế giới, động viên, cổ vũ
hàng trăm triệu người đang đấu tranh vì hồ bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Là sinh viên những chủ nhân tương lai của đất nước khơng những có trách
nhiệm với gia đình mà cịn phải có trách nhiệm đối với tồn xã hội. Thực hiện đúng
19
các chủ trương chính sách mà đảng đề ra, kiên quyết bài trừ những nguồn tin xấu
nhằm phá hoại Đảng.
20