Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Bài nghiên cứu nhóm monn luật dân sự 2 cầm cố tài sản đặt cọc biện pháp bảo lảnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.3 KB, 14 trang )

UEH – School of Law

Luật Dân sự 2
Bài nghiên cứu nhóm
KHOA LUẬT – ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM
Học phần

: LUẬT DÂN SỰ 2
Lớp

BÀI NGHIÊN CỨU NHÓM
NHÓM 1: CẦM CỐ TÀI SẢN
NHÓM 2: TRANH CHẤP DÂN SỰ HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC VÀ BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI VỀ TÀI SẢN
NHÓM 3: Biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự- Bảo lãnh
Bồi thường thiệt hại trong trường hợp vượt q phịng vệ chính đáng

Nhóm 1:
Phần nghiên cứu của nhóm:
1. Tóm tắt câu chuyện/vụ việc/vụ án mà nhóm chọn để nghiên cứu
* Vụ việc: Nguyên đơn: anh Nguyễn Ngọc Vinh, trú tại thị trấn Cổ Phúc huyện Trấn Yên – tỉnh Yên Bái. Bị đơn: Anh Lê Minh Hiếu – chủ của hàng điện
thoại Minh Vân – thị trấn Cổ Phúc – huyện Yên Bình – tỉnh Yên Bái. Ngày
13/7/2016, anh Hiếu nhận cầm cố chiệc điện thoại I-phone 3G 8GB Black
(không sạc pin, không bảo hành) do anh Dũng (- một người lạ) với số tiền anh
Dũng yêu cầu là 2.250.000 đ trong thời hạn 10 ngày với lãi xuất 25.000 đ/ngày.
Thấy chiếc điện thoại xịn lại được đem cầm với giá rẻ nên anh Hiếu đồng ý ngay
mặc dù thông thường anh yêu cầu có đầy đủ sạc pin, tai nghe để chứng minh là
tài sản cầm cố là của người cầm cố. Trong biên lai ghi rõ; “Trường hợp anh
Dũng không chuộc lai điện thoại đúng thời hạn thì anh Hiếu có quyền bán chiếc
điện thoại I-phone 3G 8 GB Black cho bất kỳ ai”. Sau đó, anh Dũng khơng quay
lại cửa hàng anh Hiếu nữa, người nhà anh Dũng cho biết anh đã vào Nam lập


nghiệp được hơn 10 ngày. Ngày 25/8/2016, anh Vinh qua chơi cửa hàng anh
Hiếu và phát hiện ra chiếc điện thoại I-phone 3G 8GB Black của mình được
trưng bày trong tủ hàng của anh Hiếu. Anh thừa nhận mình bị mất chiếc điện
thoại trên cách đây hơn 1 tháng rưỡi và anh vẫn còn đầy đủ các giấy tờ liên quan
bao gồm phiếu bảo hành, hóa đơn sửa điện thoại; ngồi ra cịn có sạc pin, tai
nghe và hộp đựng. Mọi thông tin đều chứng minh anh Vinh là chủ sở hữu của
chiếc điện thoại trên. Anh Vinh yêu cầu anh Hiếu trả lại chiếc điện thoại cho
mình nhưng anh Hiếu khơng đồng ý. Tranh chấp nảy sinh. Ngày 30/7/2016, anh
Vinh đề đơn kiện lên Tòa án nhân dân huyện Trấn Yên yêu cầu anh Hiếu trả lại
chiếc điện thoại cho mình.

Page 0


Luật Dân sự 2
Bài nghiên cứu nhóm
UEH – School of Law
2. Những vấn đề pháp lý cần nghiên cứu và thảo luận
Vấn đề nghiên cứu: Nếu đối tượng của cầm cố là tài sản và bên cầm cố buộc
phải là chủ sở hữu của tài sản. Việc xác định bên cầm cố có phải là chủ sở hữu
tài sản cầm cố hay không dựa vào giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu. Nhưng nếu
đối tượng của cầm cố là loại tài sản khơng có đăng ký quyền sở hữu thì việc xác
định chủ sở hữu tài sản cầm cố đó sẽ được tiến hành như thế nào?
3. Căn cứ pháp lý – Tài liệu tham khảo
- Cầm cố tài sản điều 309 (BLDS năm 2015)
- Hiệu lực của cầm cố tài sản điều 310 (BLDS năm 2015)
- Nghĩa vụ của bên cầm cố điều 311 và bên nhận cầm cố theo điều 313
(BLDS năm 2015)
- Quyền của bên cầm cố và bên nhận cầm cố theo điều 312, 314 (BLDS năm
2015

- Điều 167 BLDS năm 2015
4. Quan điểm giải quyết hoặc bình luận của nhóm nghiên cứu
* Hướng giải quyết của nhóm: Trước hết, nhóm chúng tơi cho rằng: việc
anh Hiếu nhận cầm cố chiếc điện thoại I-phone 3G 8GB Black là chưa đúng với
quy định của pháp luật về cầm cố tài sản: “tài sản cầm cố phải là một tài sản
thuộc quyền sở hữu của bên cầm cố”. Do đó, giao dịch giữa anh Hiếu và anh
Dũng vơ hiệu. Căn cứ Điều 167 BLDS năm 2015 và việc chứng thực chiếc điện
thoại nêu trên là của anh Vinh, nhóm chúng tơi đưa ra hướng giải quyết như sau:
- Đối với anh Hiếu: trao trả lại chiếc điện thoại I-phone 3G 8GB Black
cho anh Vinh.
- Đối với anh Vinh: có thể chi trả cho anh Hiếu một số tiền chi phí dụng
để sửa chữa, bảo quản chiếc điện thoại I-phone 3G 8GB Black (nếu có). Nhóm
chúng tơi cho rằng, cách giải quyết trên là hợp tình, hợp lý đồng thời có bảo vệ
lợi ích của người thứ ba ngay tình nên sẽ được sự chấp thuận của cả anh Hiếu và
anh Vinh.
* Bình luận của nhóm: Tình huống trên là một tình huống rất phổ biến
trong thực tế, tranh chấp rất dễ nảy sinh nhất là với loại tài sản khơng có chứng
nhận quyền sở hữu. Đặc biệt là tình trạng trộm cắp tài sản của người khác rồi
đem đi cầm cố. Trong những trường hợp trên, rất khó bảo đảm quyền lợi của bên
nhận cầm cố. Nếu tài sản không thuộc sở hữu của người cầm cố, dù đó là do
người cầm cố lừa dối thì người nhận cầm cố vẫn là người trước tiên phải gánh
chịu hậu quả. Nếu tài sản được thu hồi để giao về cho chủ sở hữu đích thực của
nó, thì người nhận cầm cố sẽ khơng cịn gì để bảo đảm cho quyền lợi của mình
nữa. Dù trong tình huống trên, bên nhận cầm cố được xem là người thứ ba ngay
tình, song pháp luật vẫn có rất ít điều luật để bảo vệ quyền lợi của họ và thiệt hại
mà họ phải chịu là không thể tránh khỏi. Vậy nên, yêu cầu cần có một hệ thống
pháp luật hồn chỉnh để bảo vệ quyền lợi cho những người xứng đáng là yêu cầu
không bao giờ lỗi thời. Mặt khác, trong những tình huống như trên, lỗi khơng
thuộc về cả người nhận cầm cố và người chủ sở hữu đích thực của tài sản mà cái
chính là do sự bất cẩn của cả hai bên, do đó, trong những tình huống trên, thiết

Page 1


Luật Dân sự 2
Bài nghiên cứu nhóm
UEH – School of Law
nghĩ, hai bên nên có sự thoản thuận để đi đến thống nhất, hạn chế các trường
hợp kiện cáo gây thiệt hại cho cả hai bên.
Nhưng nếu đối tượng của cầm cố là loại tài sản khơng có đăng ký quyền
sở hữu thì việc xác định chủ sở hữu tài sản cầm cố đó sẽ được tiến hành như thế
nào?
Đây cũng là một lỗ hổng của pháp luật về cầm cố tài sản mà theo đó, xảy
ra các tranh chấp về tài sản cầm cố. Một số đề xuất của nhóm xuất phát từ
nguyên nhân nảy sinh các tranh chấp về tài sản cầm cố, nhóm chúng tơi đưa ra
các đề xuất sau đây nhằm hạn chế các tranh chấp liên quan đến vấn đề cầm cố
tài sản:
- Đối với bên cầm cố: cần thể hiện rõ ý chí của mình thơng qua hợp đồng cầm
cố tài sản (hoặc biên lai cầm cố) đồng thời thực hiện đúng với nội dung thỏa
thuận về thời hạn cầm cố.
- Đối với bên nhận cầm cố: cần tuân thủ các quy định của pháp luật về hình
thức cầm cố và xử lý tài sản cầm cố. Bên cạnh đó, bên cầm cố cũng cần xác định
thông tin về tài sản cầm cố như là: chủ sở hữu, chủng loại, số lượng, chất
lượng,... Nếu như có thêm thỏa thuận khác, bên nhận cầm cố cần ghi bổ sung
vào hợp đồng.
- Đối với cơ quan xét xử: Tòa án cần kết hợp hai yếu tố pháp luật và thực tiễn
trong quá trình giải quyết tranh chấp nhằm đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng
của các bên cũng như thể hiện sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật.
- Đối với cơ quan lập pháp: cần bổ sung quy định về cách xác định đối tượng
cầm cố là loại tài sản khơng có chứng nhận quyền sở hữu nhằm hạn chế các
tranh chấp xảy ra và hồn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam.


Nhóm 2: TRANH CHẤP DÂN SỰ HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC VÀ BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI VỀ TÀI SẢN
o

Phần nghiên cứu của nhóm:
5. Tóm tắt câu chuyện/vụ việc/vụ án mà nhóm chọn để nghiên cứu
Khoảng 10 giờ 30 phút tại đám tang ông Trương Tiến L ở thôn B, xã Q, huyện L,
bà Nguyễn Thị Q có hành vi chửi tục, đuổi bà Nguyễn Thị L ra khỏi đám tang. Tuy
nhiên bà Nguyễn Thị Q cho rằng bà Nguyễn Thị L là người chửi bà Nguyễn Thị Q
trước, bà Nguyễn Thị L cho rằng bà Nguyễn Thị Q là người chửi bà Nguyễn Thị L
trước. Theo lời khai của người làm chứng có mặt tại đám tang, anh Hà Trọng G
khai: Có việc bà Nguyễn Thị Q chửi tục, đuổi bà Nguyễn Thị L ra khỏi đám tang
nhưng không biết ai là người chửi trước; ơng Nguyễn Văn T là người có mặt tại
đám tang khai: Khi bà Nguyễn Thị L vào làm lễ ông Trương Tiến L xong và đi lui
ra ngoài cửa bước xuống bậc đeo dép thì ơng thấy bà Nguyễn Thị Q đi từ bếp đến
chỗ bà Nguyễn Thị L. Khi đó bà L đứng dậy quay lại, tay bà Nguyễn Thị L có va
vào bà Nguyễn Thị Q thì bà Nguyễn Thị Q chửi tục, đuổi bà Nguyễn Thị L ra khỏi
đám tang.

Page 2


UEH – School of Law

Luật Dân sự 2

Bài nghiên cứu nhóm

₊ Bản án số 04/2018/DS-ST ngày 17-5-2018 của tịa án nhân dân huyện Lập Thạch,

tỉnh Vĩnh Phúc.
₊ Link bản án: />
* Sau khi vụ việc xảy ra thì chủ tịch UBND xã Q đã có Quyết định số 21/QĐ-






*


CTUBND ngày 03/05/2017 xử phạt hành chính đối với bà Nguyễn Thị Q hình thức
cảnh cáo. Nhưng bà Nguyễn Thị L khơng nhất trí và vẫn đề nghị Tịa án giải quyết
buộc bà Nguyễn Thị Q phải bồi thường thiệt hại cho bà như sau:
Bồi thường danh dự, nhân phẩm, uy tín, uy hiếp bạo lực về tinh thần, đe dọa xâm
hại thể xác là 12.100.000 đồng.
Buộc bà Nguyễn Thị Q phải bồi thường tồn bộ chi phí để hạn chế khắc phục thiệt
hại, cụ thể: Bà Nguyễn Thị L đi xin chữ ký người làm chứng xác định việc bà
Nguyễn Thị Q hại bà là sự thật 02 ngày tiền công lao động tự do hiện tại địa
phương bà đang làm là 250.000đồng/ngày công, bằng 500.000 đồng; xăng xe đi lại
trong việc xác minh chứng cứ trong việc bà quyết xâm hại bà 50.000 đồng. Tổng
số tiền đề nghị bà Nguyễn Thị Q bồi thường cho bà là 12.650.000 đồng.
Buộc bà Nguyễn Thị Q công khai xin lỗi bà trước địa phương nơi bà đang cư trú.
Quyết định của tòa: Căn cứ vào các Điều 34, khoản 1 Điều 584, 585, 586, 592 Bộ
luật dân sự 2015 chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị L.
Buộc bà Nguyễn Thị Q phải công khai xin lỗi bà Nguyễn Thị L tại trụ sở Ủy ban
nhân dân xã Q, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc.

₊ Buộc bà Nguyễn Thị Q phải bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho

bà Nguyễn Thị L là 1.300.000 đồng.
Không chấp nhận u cầu bồi thường tồn bộ chi phí để hạn chế, khắc phục thiệt
hại.

6. Những vấn đề pháp lý cần nghiên cứu và thảo luận
-

Quan hệ pháp luật trong vụ án là quan hệ pháp luật nào?
Bà Nguyễn Thị Q đã xâm phạm đến quyền nào của bà Nguyễn Thị L mà được pháp
luật bảo vệ?
Những quyết định của Toà án là đúng hay sai và dựa theo các căn cứ pháp lý nào?

7. Căn cứ pháp lý – Tài liệu tham khảo
-

Điều 34 BLDS 2015: Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín

1. Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật
bảo vệ.
2. Cá nhân có quyền u cầu Tịa án bác bỏ thơng tin làm ảnh hưởng xấu đến danh
dự, nhân phẩm, uy tín của mình.
Việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín có thể được thực hiện sau khi cá nhân chết
theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc con thành niên; trường hợp không có những
người này thì theo u cầu của cha, mẹ của người đã chết, trừ trường hợp luật liên
quan có quy định khác.
3. Thông tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được đăng
tải trên phương tiện thơng tin đại chúng nào thì phải được gỡ bỏ, cải chính bằng
chính phương tiện thơng tin đại chúng đó. Nếu thơng tin này được cơ quan, tổ
chức, cá nhân cất giữ thì phải được hủy bỏ.


Page 3


UEH – School of Law

Luật Dân sự 2

Bài nghiên cứu nhóm

4. Trường hợp khơng xác định được người đã đưa tin ảnh hưởng xấu đến danh dự,
nhân phẩm, uy tín của mình thì người bị đưa tin có quyền u cầu Tịa án tun bố
thơng tin đó là khơng đúng.
5. Cá nhân bị thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín thì ngồi
quyền u cầu bác bỏ thơng tin đó cịn có quyền u cầu người đưa ra thơng tin
xin lỗi, cải chính cơng khai và bồi thường thiệt hại
1.

Khoản 1 Điều 584 BLDS 2015: Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích
hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác
có liên quan quy định khác.

-

Khoản 1 Điều 585 BLDS 2015: Nguyên tắc bồi thường thiệt hại

1. Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thoả
thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực
hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác.

-

Khoản 1 Điều 586 BLDS 2015: Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân

1. Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường.
-

Điều 592 BLDS 2015: Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm

1. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;
b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút;
c) Thiệt hại khác do luật quy định.
2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín
của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1
Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh
chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu
khơng thoả thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy
tín bị xâm phạm khơng q mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.

8. Quan điểm giải quyết hoặc bình luận của nhóm nghiên cứu
-

u cầu bồi thường thiệt hại về danh dự, uy tín, nhân phẩm bị xâm hại của nguyên
đơn là bà Nguyễn Thị L đối với bị đơn là bà Nguyễn Thị Q. Vì vậy, quan hệ pháp
luật trong vụ án là tranh chấp bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng

-

Như vậy có việc bà Nguyễn Thị Q là người chửi tục, đuổi bà Nguyễn Thị L ra khỏi

đám tang ông Trương Tiến L ở thôn B, xã Q trước. Bà Nguyễn Thị Q cho rằng việc
chửi bà Nguyễn Thị L như vậy là chưa đến mức xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy
tín của người khác. Hội đồng xét xử thấy việc bà Nguyễn Thị Q chửi tục, đuổi bà
Nguyễn Thị L tại đám tang là nơi đông người và bà Nguyễn Thị L là một đảng
viên, trạm trưởng trạm y tế xã là đã xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của
bà Nguyễn Thị L và gây mất trật tự tại nơi công cộng. Theo quy định tại Điều 34
Bộ luật dân sự về quyền được bảo về danh dự, nhân phẩm, uy tín thì danh dự, nhân
phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ. Vì vậy

Page 4


UEH – School of Law

Luật Dân sự 2

Bài nghiên cứu nhóm

cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà L, buộc bà Q phải công khai xin lỗi L tại
địa phương.
-

Đối với yêu cầu của bà L về việc yêu cầu bồi thường chi phí để hạn chế khắc phục
thiệt hại, nhóm xét thấy là đó là một yêu cầu bất hợp lý của bà Nguyễn Thị L. Theo
xác minh tại địa phương thì khoảng cách từ nhà bà L đến nhà ông Nguyễn Văn T
chỉ khoảng 1,5km. Như vậy chi phí và cơng sức trong việc này là khơng đáng kể
nên không cần thiết buộc bà Nguyễn Thị Q phải bồi thường khoản chi phí này.

-


Xét về yêu cầu bồi thường của nguyên đơn về việc yêu cầu đòi bồi thường danh
dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại 12.100.000 đồng, nhóm xét thấy đây cũng là một
yêu cầu bất hợp lý của bà Nguyễn Thị L. Theo khoản 2 Điều 592 Bộ luật dân sự
quy định: “Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân
phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định
tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà
người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả
thuận; nếu khơng thoả thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự, nhân
phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy
định”. Việc bà Q chửi tục, đuổi bà L tại đám tang là nơi đơng người có thể dẫn đến
sự hiểu lầm của bà con hàng xóm nên cần buộc bà Q phải bồi thường một khoản
tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
cho bà L tương ứng với 01 tháng lương cơ sở do Nhà nước quy định là 1.300.000
đồng.

* Kết luận của nhóm:
Với những phân tích trên, Nhóm 8 xét thấy những phán quyết của Tịa án là hồn
tồn hợp lý và nhóm đồng ý với quyết định của Tòa án là:
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị L đối với bà Nguyễn
Thị Q. Buộc bà Nguyễn Thị Q phải công khai xin lỗi bà Nguyễn Thị L tại trụ sở Ủy
ban nhân dân xã Q, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc. Nội dung xin lỗi là: “Ngày
17/4/2017, tại đám tang ông Trương Tiến L tôi Nguyễn Thị Q đã có những lời nói,
hành vi xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của bà Nguyễn Thị L, nay tôi
Nguyễn Thị Q xin lỗi bà Nguyễn Thị L”.
- Buộc bà Nguyễn Thị Q phải bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho
bà Nguyễn Thị L là 1.300.000 đồng.
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị L về việc yêu cầu bà
Nguyễn Thị Q bồi thường chi phí để hạn chế khắc phục thiệt hại là 550.000đ.
Tóm lại: Danh dự, nhân phẩm và uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được
pháp luật bảo vệ. Mọi hành vi xâm phạm đến quyền được bảo vệ về danh dự, nhân

phẩm và uy tín phải ln được xử lý theo đúng pháp luật.

NHÓM 3: Biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự- Bảo lãnh
Phần nghiên cứu của nhóm:
Đây là phần u cầu nhóm làm việc tìm hiểu về thực tiễn hoạt động thực hiện
pháp luật dân sự của các chủ thể pháp luật tương ứng với chủ đề lý thuyết của
buổi học. Những nội dung trình bày gồm:

Page 5


Luật Dân sự 2
Bài nghiên cứu nhóm
UEH – School of Law
9. Tóm tắt câu chuyện/vụ việc/vụ án mà nhóm chọn để nghiên cứu:
Ngày 5/6/2011, CTCP Trường Phú ( bên A ) kí kết hợp đồng với CTyCP Tập Đồn CN
Thiên Phú ( bên B ) về mua bán tài sản và Cty Thiên Phú được Ngân hàng TMCP
Quân Đội MB ( bên C ) đứng ra bảo lãnh. Sau khi hoàn tất giao hàng theo hợp đồng
bên A yêu cầu bên B thực hiện nghĩa vụ thanh toán nhưng bên B khơng thực hiện dù
đã xác nhận nợ. Trước đó, ngày 9/4/2012 bên C đã phát hành 2 bảo lãnh cho 2 hợp
đồng tổng giá trị tương đương 26 tỷ đồng. Do bên B đã vi phạm HĐ nên bên A yêu
cầu bên C thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong thời hạn hiệu lực của bảo lãnh nhưng bên
C đã nhiều lần tìm cách trì hỗn và khơng thực hiện nghĩa vụ. Do đó, bên A đã khởi
kiện yêu cầu tịa án buộc bên C thanh tốn khoản tiền 24,4 tỷ đồng tiền gốc, 4,8 tỷ tiền
lãi và 4,6 tỷ bồi thường thiệt hại. Bên C khai đã nhiều lần yêu cầu bên Acung cấp bổ
sung các chứng từ tại biên bản giao hàng để bên C xem xét thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh nhưng bên A không cung cấp.

10.Những vấn đề pháp lý cần nghiên cứu và thảo luận:
Trong t/h trên đã có những quan hệ nào phát sinh ?

Nghĩa vụ phát sinh
Quyền
3. Căn cứ pháp lý – Tài liệu tham khảo:
Điều 335, 336, 339, 340, 342 Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 ngày 24.11.2015
11.Quan điểm giải quyết hoặc bình luận của nhóm nghiên cứu
Khi A và B thiết lập HĐ mua bán thì hình thành quan hệ giao dịch dân sự
Khi C đứng ra bảo lãnh cho B thì giữa A và C tồn tại quan hệ bảo lãnh trong đó
A là bên nhận bảo lãnh, B là bên được bảo lãnh và C là bên bảo lãnh. Vì khi B
khơng thực hiện được NV thanh tốn cho A thì C phải có nghĩa vụ đứng ra chịu
bảo lãnh, thay B thực hiện NV cho A. Và khi bên C đã thực hiện xong NV bảo
lãnh của mình thì C có quyền u cầu B thực hiện nghĩa vụ đv mình trong phạm
vi mà C đã bảo lãnh.
Trong câu chuyện này có 1 tình tiết mà C đưa ra là: C yêu cầu A bổ sung các
giấy tờ chứng từ... thì theo Điều 340 ( quyền yêu cầu của bên bảo lãnh ), C
khơng có quyền đối với A mà chỉ có nghĩa vụ vì vậy việc A không nộp bổ sung
các giấy tờ mà bên C yêu cầu không làm loại bỏ đi quyền lợi của A
Ta thấy trong việc buộc tội C bên A yêu cầu tòa buộc C phải bồi thường 24,4 tỷ
đồng tiền gốc, tiền lãi và tiền bồi thường vậy theo k2.Điều 336 phạm vi bảo lãnh
là hồn tịan hợp lý.
-----------------------------

NHĨM 3:

Page 6


UEH – School of Law

Luật Dân sự 2


Bài nghiên cứu nhóm

Bồi thường thiệt hại trong trường hợp vượt q
phịng vệ chính đáng
Phần nghiên cứu của nhóm:
1.Tóm tắt vấn đề nghiên cứu – Bản án
- Bản án số 417/2017 HS-PT ngày 08/08/2017: Nguyễn Văn B phạm tội “ Giết người
do vượt q giới hạn phịng vệ chính đáng”
- Tóm tắt vụ án: Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 18/4/2016, Nguyễn Văn B, làm nghề
chạy xe ôm, chở Võ Văn V đến khu vực ấp 2A, xã BH, huyện BC. Trên đường quay về
khu vực ngã tư Nguyễn VL - Quốc lộ 50, giữa B và V xảy ra mâu thuẫn, V đã giật nón
bảo hiểm mà B đang đội đánh liên tiếp vào đầu khiến B té ngã. V tiếp tục nhặt 01 tấm
gạch bể ven đường dài khoảng 25cm đánh 01 cái trúng vào thái dương của B. B ngồi
dậy bỏ chạy thì bị V cầm tấm gạch và nón bảo hiểm đuổi theo đánh B, chạy được
khoảng 06 mét thì V đuổi kịp, V tiếp tục dùng nón bảo hiểm đánh trúng 01 cái phía sau
đầu B. Lúc này để chống trả và cũng do lo sợ bị cướp xe máy nên B đã dùng dụng cụ
khui bia (gắn cùng chùm chìa khóa xe, mà B đang cầm trên tay) có mũi dao nhọn dài
khoảng 04cm đâm 01 nhát vào vùng ngực trái của V khiến cho V tử vong.
- Phán quyết của Tòa án:
+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn B 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội“Giết người do
vượt q giới hạn phịng vệ chính đáng”
Trách nhiệm dân sự: căn cứ Điều 610 của Bộ luật Dân sự năm 2005:
+ Buộc bị cáo Nguyễn Văn B có trách nhiệm bồi thường cho gia đình của người bị hại
do chị Nguyễn Thị X là người đại diện số tiền là 349.600.000 đồng (ba trăm bốn mươi
chín triệu sáu trăm ngàn đồng) bao gồm: 52.000.000 đồng chi phí mai táng và tiền tổn
thất tinh thần cho chị X, các con chị X và Bà Lê Thị M là mẹ bị hại Võ Văn V là
297.000.000 đồng
+ Tiền cấp dưỡng cho các cháu Võ Thị Cẩm T sinh năm 2000 và Võ Thị Tú N sinh
năm 2008 mỗi cháu 1.000.000 đồng/tháng cho đến khi các cháu lần lượt đủ 18 tuổi.
2.Những vấn đề pháp lý cần nghiên cứu và thảo luận

- Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
- Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
- Xác định thiệt hại.
- Nguyên tắc bồi thường thiệt hại.
Trường hợp cụ thể phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: Bồi
thường thiệt hại trong trường hợp vượt quá giới hạn phịng vệ chính đáng.
3.Căn cứ pháp lý – Tài liệu tham khảo
Khái niệm: Điều 275 BLDS 2015 quy định: thì một trong những căn cứ làm
phát sinh nghĩa vụ dân sự là sự kiện “ gây ra thiệt hại do hành vi trái pháp luật”. Sự
kiện gây ra thiệt hại do hành vi trái pháp luật là căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng: (Điều 584
BLDS 2015)
+Có thiệt hại thực tế xảy ra: Thiệt hại là điều kiện bắt buộc phải có trong trách nhiệm
BTTH ngồi hợp đồng. Trách nhiệm BTTH chỉ phát sinh khi có sự thiệt hại về tài sản

Page 7


UEH – School of Law

Luật Dân sự 2

Bài nghiên cứu nhóm

hoặc sự thiệt hại về tinh thần. Sự thiệt hại về tài sản là sự mất mát hoặc giảm sút về
một lợi ích vật chất được pháp luật bảo vệ; thiệt hại về tài sản có thể tính tốn được
thành một số tiền nhất định. Thiệt hại về tinh thần được hiểu là do tính mạng, sức
khỏe, nhân phẩm, danh dự, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại phải chịu đau
thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, giảm sút hoặc mất uy tín, tín nhiệm, lịng

tin… và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà họ phải chịu.
+ Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật: Hành vi trái pháp luật trong trách
nhiệm dân sự là những xử sự cụ thể của chủ thể được thể hiện thông qua hành động
hoặc không hành động xâm phạm đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của người khác, bao gồm: Làm những việc mà pháp luật cấm, không làm những việc
mà pháp luật buộc phải làm, thực hiện vượt quá giới hạn pháp luật cho phép hoặc thực
hiện không đầy đủ nghĩa vụ mà pháp luật quy định.
+ Lỗi của người gây ra thiệt hại: trong trách nhiệm dân sự do gây thiệt hại, vấn đề hình
thức lỗi, mức độ lỗi ảnh hưởng rất ít đến việc xác định trách nhiệm. Thậm chí, người
gây ra thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp khơng có lỗi ( khoản 3 Điều 601,
Điều 602 BLDS 2015)
+ Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật: Thiệt hại xảy ra
phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và ngược lại hành vi trái pháp luật là
nguyên nhân gây ra thiệt hại. Hành vi trái pháp luật sẽ là nguyên nhân của thiệt hại nếu
giữa hành vi đó và thiệt hại có mối quan hệ tất yếu có tính quy luật chứ không phải
ngẫu nhiên. Thiệt hại sẽ là kết quả tất yếu của hành vi nếu trong bản thân hành vi cùng
với những điều kiện cụ thể khi xảy ra chứa đựng một khả năng thực tế làm phát sinh
thiệt hại.
Các thiệt hại phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng:
+ Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm ( Điều 589 BLDS 2015)
+ Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm ( Điều 590 BLDS 2015)
+ Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm ( Điều 591 BLDS 2015)
+ Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tính bị xâm phậm ( Điều 592 BLDS 2015)
+ Thời hạn hưởng bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm ( Điều
593 BLDS 2015)
Nguyên tắc bồi thường thiệt hại ( Điều 585 BLDS 2015)
+ Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa
thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực
hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác.

+ Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu
khơng có lỗi hoặc có lỗi vơ ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.
+ Khi mức bồi thường khơng cịn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây
thiệt hại có quyền u cầu Tịa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi
mức bồi thường.
+ Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì khơng được bồi thường phần
thiệt hại do lỗi của mình gây ra.
+ Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do
không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho
chính mình.
Trường hợp cụ thể: Bồi thường thiệt hại trong trường hợp vượt q giới hạn
phịng vệ chính đáng (Điều 594 BLDS 2015): “ Người gây thiệt hại trong trường hợp
phòng vệ chính đáng khơng phải bồi thường cho người bị thiệt hại.

Page 8


UEH – School of Law

Luật Dân sự 2

Bài nghiên cứu nhóm

Người gây thiệt hại do vượt q giới hạn phịng vệ chính đáng phải bồi thường cho
người bị thiệt hại.”
- Hành vi vượt q giới hạn phịng vệ chính đáng ở đây được hiểu là khi bị người khác
gây thiệt hại, người phịng vệ chính đáng đã có hành vi gây thiệt hại ngược trở lại
nhưng có sự sai lầm trong việc đánh giá mức độ tấn công, điều kiện hồn cảnh của
hành vi tấn cơng, do đó vượt q giới hạn cần thiết nên đã gây ra thiệt hại cho người
có hành vi gây thiệt hại ban đầu. Do vậy người thực hiện hành vi vượt quá giới hạn

phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm bồi thường tồn bộ thiệt hại do hành vi đó
gây ra.
- Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp Bồi thường thiệt
hại trong trường hợp vượt quá giới hạn phịng vệ chính đáng:
+ Thiệt hại xảy ra: là những thiệt hại về sức khỏe như, thậm chí là tính mạng trong
trường hợp người gây thiệt hại do vượt q giới hạn phịng vệ chính đáng làm chết
người (Giết người do vượt q giới hạn phịng vệ chính đáng)
+ Hành vi trái pháp luật: Khoản 2 điều 22 Bộ luật hình sự 2015 quy định: “Vượt q
giới hạn phịng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng q mức cần thiết, khơng
phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
Người có hành vi vượt q giới hạn phịng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình
sự theo quy định của Bộ luật này.”
Do tính trái pháp luật nên hành vi vượt q phịng vệ chính đáng phát sinh trách
nhiệm hình sự, đồng thời phát sinh trách nhiệm hình sự đi kèm đối với những thiệt hại
phát sinh qua hành vi này.
+ Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và hậu quả: chính hành vi phòng
vệ quá mức cần thiết là nguyên nhân dẫn đến những thiệt hại cho người bị hại như tổn
thương về thân thể, sức khỏe, tính mạng, tinh thần. Chỉ những thiệt hại do hành vi
vượt q phịng vệ chính đáng gây ra mới phải bồi thường và việc bồi thường phải
chính xác, đầy đủ trên nguyên tắc xác định thiệt hại và ngun tác bồi thường.
4.Bình luận của nhóm nghiên cứu về bản án
Căn cứ phát sinh trách trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng:
+ Thiệt hại thực tế xảy ra: Xâm phạm đến tính mạng, cụ thể là V đã tử vong, đồng thời
có thiệt hại về tinh thần đối với những người thân của anh V.
+ Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật: căn cứ khoản 1 điều 96 Bộ luật hình
sự 2005, Hành vi của B là hành vi phạm Tội giết người do vựơt q giới hạn phịng vệ
chính đáng
+ Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật: Cái chết của V là
kết quả của hành vi trái pháp luật của B, Tại bản kết luận giám định pháp y tử thi số
536/TT.16 ngày 16/5/2016 của Trung tâm pháp y, Sở y tế Thành phố Hồ Chí Minh kết

luận nguyên nhân chết của Võ Văn V: “chèn ép tim cấp do vết thương thấu ngực gây
thủng tim”.
- Những khoản bồi thường của B hợp lí và phù hợp với những quy định về xác định
thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm (điều 610 BLDS 2005) bao gồm:
+ Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi
chết;
+ Chi phí hợp lý cho việc mai táng;
+ Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng.
- Hành vi của B là hành vi vi phạm pháp luật, những hậu quả của B gây ra làm B phải
chịu trách nhiệm hình sự là hình phạt tù. Nhận thấy hành vi giết người là hành vi nguy

Page 9


UEH – School of Law

Luật Dân sự 2

Bài nghiên cứu nhóm

hiểm cho xã hội, và những tổn thất về sau với gia đình của chị Nguyễn Thị X là khơng
thể bù đắp được. Các khoản bồi thường là hợp lí nhằm khắc phục và nguôi ngoai
những mất mát đối với một gia đình mất đi người trụ cột.
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một chế định luật quan trọng trong hệ thống pháp
luật Việt Nam, là căn cứ phát sinh nghĩa vụ quan trọng.

Page
10



UEH – School of Law

Luật Dân sự 2

Bài nghiên cứu nhóm

Page
11


UEH – School of Law

Luật Dân sự 2

Bài nghiên cứu nhóm

Page
12


UEH – School of Law

Luật Dân sự 2

Bài nghiên cứu nhóm

Page
13




×