Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Tiểu Luận Quyền Nhân Thân Của Cá Nhân Trong Luật Dân Sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (718.88 KB, 24 trang )

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BỘ MƠN PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
----------

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
***

QUYỀN NHÂN THÂN CỦA CÁ NHÂN
TRONG LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

MÃ MƠN HỌC: GELA220405
THỰC HIỆN: NHĨM 06
LỚP: THỨ 7 TIẾT 1-2
GVHD: TS. NGUYỄN MINH THU
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 06 năm 2020

DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN


HỌC KỲ II NĂM HỌC 2019-2020
Nhóm: 06 ( Lớp thứ 7 – Tiết 1-2)
Tên đề tài: Quyền nhân thân của cá nhân trong luật Dân sự Việt Nam

1

TỈ LỆ %
HOÀN THÀNH
100%

2


100%

3
Ghi chú:

100%

STT

HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN MÃ SỐ SINH VIÊN

- Tỷ lệ % = 100%: Mức độ phần trăm của từng sinh viên tham gia.
- Trưởng nhóm: Trần Thái Bảo

SĐT:

Nhận xét của giáo viên
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
Ngày 06 tháng 06 năm 2020


MỤC LỤC

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Với sự ra đời của triết học Mác, vấn đề con người đã được nhìn nhận, đánh giá
và lý giải một cách sâu sắc, khoa học và toàn diện. Đặc biệt, triết học Mác đã có những
phân tích hết sức đúng đắn và khoa học về vị trí, vai trị của con người đối với sự phát

triển xã hội. Có thể thấy nhân tố con người đóng vai trị cực kỳ to lớn trong lịch sử
phát triển của nhân loại. Cùng với tầm quan trọng của con người thì quyền con người
nói chung và quyền cơng dân nói riêng là những vấn đề có lịch sử lâu đời và đó ln là
mối quan tâm của nhân loại ở mọi thời kỳ. Và pháp luật dân sự chính là cơng cụ để
thực hiện quyền dân sự của công dân, các quyền nhân thân được quy định cụ thể trong
pháp luật dân sự và chủ yếu là Bộ luật Dân sự được Nhà nước ban hành. Đây được
xem là sự khẳng định của Nhà nước đối với các giá trị của quyền nhân dân và bảo vệ
các giá trị nhân thân đó. Đồng thời đáp ứng nhu cầu, lợi ích hợp pháp của các chủ thể
trong các giao dịch dân sự làm cho các cá nhân được sống và hành động một cách tự
do, dân chủ và bình đẳng với người khác theo quy định của pháp luật dân sự.
Trong bản tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1975, khai sinh ra nước Việt Nam dân
chủ cộng hịa, chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn một câu nói về quyền nhân dân:
“Mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hóa đã ban cho họ những quyền tất yếu và
bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc”.

3


Điều đó thể hiện Nhà nước ta ln coi trọng nhân quyền hay quyền con người trong đó
có quyền nhân thân là một phần vô cùng quan trọng. Cùng với sự đi lên, tiến bộ của
đất nước, nền tự do dân chủ ngày càng được mở rộng bao nhiêu thì con người ngày
càng được tôn trọng hơn bấy nhiêu do đó quyền nhân thân cũng ngày càng được quan
tâm, chú ý nhiều hơn. Chính vì vai trị to lớn của quyền nhân thân trong xã hội Việt
Nam hiện nay,em đã chọn đề tài : “Quyền nhân thân của cá nhân trong luật Dân sự
Việt Nam”.
2.
Mục tiêu nghiên cứu
Nắm rõ các khái quát cơ bản của quyền nhân thân, từ đó phân loại quyền nhân
thân và phân tích các quy định về quyền nhân thân trong pháp luật dân sự. Sau đó rút
ra các bài học về quyền nhân thân trong thực tiễn.

3.
Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng em sử dụng phương pháp nghiên cứu
chủ yếu là phương pháp lơgic. Bên cạnh đó, chúng em cịn sử dụng các phương pháp
khác như như phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh,
phương pháp điều tra xã hội học.

4.

Bố cục đề tài

Tiểu luận được trình bày với nội dung gồm 3 chương chính:
Chương 1: Khái quát quyền nhân thân.
Chương 2: Quyền nhân thân trong pháp luật dân sự.
Chương 3: Quyền nhân thân trong thực tiễn.

4


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT QUYỀN NHÂN THÂN
1.1

Định nghĩa quyền nhân thân:
Trong đời sống xã hội, mỗi người đều có một số quyền mà trong đó các quyền

nhân thân là bộ phận quyền ngày càng trở nên quan trọng. Với sự phát triển không
ngừng của xã hội cùng với nền tự do dân chủ càng được mở rộng thì con người đóng
vai trị trung tâm và ngày càng được tơn trọng. Do đó các quyền nhân thân càng được
pháp luật quy định đầy đủ, rõ ràng hơn cùng với những biện pháp bảo vệ ngày càng có

hiệu quả. Có thể nói quyền nhân thân là một trong những nội dung cơ bản của quyền
con người nên đã được pháp luật ghi nhận và bảo vệ.
Quyền nhân thân là thuật ngữ pháp lý để chỉ những quyền gắn liền với bản thân
mỗi con người, gắn liền với đời sống riêng tư của mỗi cá nhân. Các quyền nhân thân
được nhiều ngành luật điều chỉnh. Ví dụ như ngành luật hành chính quy định về trình
tự, thủ tục để xác định các quyền nhân thân về việc phong các danh hiệu cao quý của
Nhà nước; tặng thưởng các loại huân chương, huy chương; cơng nhận các chức
danh… Luật hình sự bảo vệ các giá trị nhân thân bằng cách quy định những giá trị
nhân thân nào được coi là tội phạm (như các tội: vu khống, làm nhục người khác, làm
hàng giả…).
Hơn hết các quyền nhân thân được quy định cụ thể, rõ ràng trong pháp luật dân
sự và chủ yếu là Bộ luật Dân sự. Quyền nhân thân được hiểu là quyền dân sự gắn liền
với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp luật khác có
liên quan quy định khác1. Luật dân sự điều chỉnh các quan hệ nhân thân bằng cách
quy định những giá trị nhân thân nào được coi là quyền nhân thân, trình tự thực hiện,
giới hạn của các quyền nhân thân đó, đồng thời quy định các biện pháp thực hiện, bảo
vệ các quyền nhân thân (Điều 11 – Điều 14 BLDS 2015).

1 Khoản 1, Điều 25, BLDS 2015.

5


1.2

Đặc điểm quyền nhân thân:

Các quan hệ nhân thân xuất phát từ quyền nhân thân do luật dân sự điều chỉnh có thể
chia làm hai nhóm căn cứ:2
- Quan hệ nhân thân gắn với tài sản;

- Quan hệ nhân thân khơng gắn với tài sản.
Từ đó ta thấy rõ quyền nhân thân do luật Dân sự điều chỉnh có những đặc điểm
sau:
- Thứ nhất, quyền nhân thân luôn gắn với một cá nhân xác định, không được
phép chuyển giao cho người khác. Tuy nhiên, trong những trường hợp nhất định có thể
được dịch chuyển. Những trường hợp cá biệt này phải do pháp luật quy định (quyền
công bố tác phẩm của tác giả các tác phẩm, các đối tượng sở hữu cơng nghiệp,…)
Ngồi ra, bản chất khơng dịch chuyển của quyền nhân thân không loại bỏ khả năng khi
việc thực thi và bảo vệ chúng có thể được thực hiện bởi những người thứ ba. Ví dụ:
những người đại diện có thể khởi kiện để bảo vệ danh dự, nhân phẩm của người chưa
thành niên.
- Thứ hai, quyền nhân thân không xác định được bằng tiền – giá trị nhân thân
và tiền tệ không phải là những đại lượng tương đương và không thể trao đổi ngang giá.
Về cơ bản, chủ thể của quyền nhân thân chỉ được hưởng lợi ích tinh thần mà không
được hưởng lợi ích vật chất. Những lợi ích vật chất mà chủ thể được hưởng là do giá
trị tinh thần mang lại. Pháp luật quy định cho mọi chủ thể đều bình đẳng về quyền
nhân thân.
Các quyền nhân thân không gắn với tài sản như danh dự, nhân phẩm, uy tín của
tổ chức; quyền đối với họ, tên; thay đổi họ tên; quyền đối với hình ảnh… (Điều 26 đến
Điều 39 BLDS 2015). Một số quyền nhân thân mới được ghi nhận và bảo hộ trong
BLDS 2015 như: quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình; quyền
nhân thân trong quan hệ hơn nhân và gia đình,…
- Thứ ba, quyền nhân thân được xác lập không phải dựa trên các sự kiện pháp
mà chúng được xác lập trực tiếp trên cơ sở những quy định của pháp luật.

2 Khoản 1, Điều 17, BLDS 2015.

6



- Thứ tư, quyền nhân thân là một loại quyền tuyệt đối. Các chủ thể có nghĩa vụ
tơn trọng giá trị nhân thân được bảo vệ. Điều đó có nghĩa là những quyền nhân thân
được ghi nhận và điều chỉnh trong luật dân sự thuộc về các cá nhân từ khi họ sinh ra
hoặc theo quy định của pháp luật.

1.3

Ý nghĩa quyền nhân thân:
Luật dân sự ghi nhận những giá trị nhân thân được coi là quyền nhân thân và

quy định các biện pháp bảo vệ các giá trị nhân thân đó. Mỗi chủ thể có những giá trị
nhân thân khác nhau nhưng được bảo vệ như nhau khi các giá trị đó bị xâm phạm. Tất
cả những quyền nhân thân liên quan mật thiết đến những nhu cầu cần có của một cá
nhân sống trong xã hội và bất cứ ai cũng không được phép xâm phạm. Khi quyền nhân
thân bị xâm phạm thì chủ thể có quyền tự mình cải chính, u cầu người có hành vi
xâm phạm hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc người vi phạm chấm
dứt hành vi vi phạm như xin lỗi, cải chính cơng khai; tự mình cải chính trên các
phương diện thông tin đại chúng; yêu cầu người vi phạm hoặc tòa án buộc người vi
phạm phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp những tổn thất về tinh thần.
Việc quy định quyền nhân thân chính là cơ sở pháp lý để cá nhân được thực
hiện các quyền nhân thân trong sự bảo hộ của Nhà nước và pháp luật. Từ đó ta thấy rõ
tầm quan trọng của quyền nhân thân có ý nghĩa rất lớn đối với đời sống tinh thần của
cá nhân. Mỗi hành vi xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân đều ảnh hưởng sâu
sắc đến đời sống tinh thần người bị xâm hại. Việc bảo vệ quyền nhân thân có tác dụng
kịp thời ngăn chặn các hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền nhân thân, bảo đảm
trật tự pháp lí xã hội và giáo dục ý thức pháp luật cho công dân.

7



CHƯƠNG 2: QUYỀN NHÂN THÂN TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ

Hiện nay Bộ luật Dân sự năm 2015 ghi nhận quyền nhân thân của cá nhân như:
Quyền có họ, tên; Quyền thay đổi họ; Quyền thay đổi tên; Quyền xác định, xác định
lại dân tộc; Quyền được khai sinh, khai tử; Quyền đối với quốc tịch; Quyền của cá
nhân đối với hình ảnh; Quyền sống, quyền được bảo đảm an tồn về tính mạng, sức
khỏe, thân thể Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; Quyền hiến, nhận mơ,
bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác; Quyền xác định lại giới tính; Chuyển đổi giới
tính; Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và Quyền nhân thân
trong hơn nhân và gia đình3.
Các quyền nêu trên chính là các quyền nhân thân của cá nhân nhằm xác định tư
cách của chủ thể của cá nhân trong quan hệ dân đồng thời mang tính đặc thù trong
quan hệ dân sự.

2.1. Phân loại quyền nhân thân:
2.1.1. Dựa vào căn cứ phát sinh các quyền nhân thân có thể phân loại
thành:
+ Nhóm các quyền nhân thân gắn với tài sản.
+ Nhóm các quyền nhân thân khơng gắn với tài sản.
2.1.2. Dựa vào đối tượng của quyền mà các quyền nhân thân được phân
thành các nhóm sau đây:
+ Nhóm các quyền cá biệt hố chủ thể (quyền đối với họ tên; quyền thay đổi họ
tên; quyền xác định dân tộc; quyền được khai sinh, khai tử; quyền đối với hình ảnh;
quyền xác định lại giới tính; quyền đối với quốc tịch.)
+ Nhóm các quyền liên quan đến thân thể của cá nhân (quyền được đảm bảo an
toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể; quyền hiến bộ phận cơ thể; quyền nhận bộ phận
cơ thể người.)
+ Nhóm các quyền liên quan đến giá trị tinh thần của chủ thể (quyền được bảo
vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; quyền bí mật đời tư; quyền bất khả xâm phạm về chỗ
3 Điều 26 đến Điều 39 BLDS 2015.


8


ở; quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo; quyền tự do đi lại, tự do cư trú; quyền lao động;
quyền tự do kinh doanh; quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo.)
+ Nhóm các quyền liên quan đến quan hệ hơn nhân và gia đình của cá nhân
(quyền kết hơn, quyền bình đẳng vợ chồng; quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các
thành viên trong gia đình; quyền ly hơn; quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con; quyền
được nuôi con nuôi và quyền được nhận làm con ni.)
+ Nhóm các quyền đối với các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ.

2.1.3.

Dựa vào thời gian bảo hộ các quyền nhân thân được phân loại

thành:
+ Nhóm các quyền nhân thân được bảo hộ vô thời hạn (quyền đối với họ tên;
quyền đối với hình ảnh; quyền được bảo vệ danh dự, uy tín; quyền bí mật đời tư;
quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, được nêu tên thật hoặc bút danh khi
tác phẩm được công bố, sử dụng; quyền bảo vệ sự tồn vẹn của tác phẩm, khơng cho
người khác sửa chữa, cắt xén, xuyên tạc tác phẩm.)
+ Nhóm các quyền nhân thân được bảo hộ có thời hạn: (quyền thay đổi họ tên;
quyền xác định dân tộc; quyền được khai sinh, khai tử; quyền được đảm bảo an tồn
về tính mạng, sức khoẻ, thân thể; quyền được bảo vệ nhân phẩm; quyền hiến bộ phận
cơ thể; quyền nhận bộ phận cơ thể người; quyền xác định lại giới tính; quyền kết hơn,
quyền bình đẳng vợ chồng; quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong
gia đình; quyền ly hôn; quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con; quyền được nuôi con
nuôi và quyền được nhận làm con nuôi; quyền đối với quốc tịch; quyền bất khả xâm
phạm về chỗ ở; quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo; quyền tự do đi lại, tự do cư trú;

quyền lao động, quyền tự do kinh doanh; quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo; quyền đặt
tên cho tác phẩm; quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm.)

2.2. Phân tích các quy định về quyền nhân thân :
- Quyền có họ, tên: Cá nhân có quyền có họ, tên (bao gồm cả chữ đệm, nếu
có). Họ, tên của một người được xác định theo họ, tên khai sinh của người đó. Họ của
cá nhân được xác định là họ của cha đẻ hoặc họ của mẹ đẻ theo thỏa thuận của cha mẹ;
nếu khơng có thỏa thuận thì họ của con được xác định theo tập quán. Ngoài ra luật dân
sự còn quy định các trường hợp quyền có họ, tên như việc chưa xác định được cha đẻ,
trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và được nhận làm con nuôi,...Trong

9


Bộ luật Dân sự, cha đẻ mẹ đẻ được xác định dựa trên sự kiện sinh đẻ; người nhờ mang
thai hộ với người được sinh ra từ việc mang thai hộ theo quy định của Luật hơn nhân
và gia đình.
- Quyền thay đổi họ: Các cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cơng nhận việc thay đổi họ trong các trường hợp luật định. Đồng thời việc thay
đổi họ cho người từ đủ chín tuổi trở lên phải có sự đồng ý của người đó. Và việc thay
đổi họ không làm chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự được xác lập theo họ cũ.
- Quyền thay đổi tên: Cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cơng nhận việc thay đổi tên trong trường hợp luật định như: theo yêu cầu của
người có tên mà việc sử dụng tên đó gây nhầm lẫn, ảnh hưởng đến tình cảm gia đình,
đến danh dự, quyền, lợi ích hợp pháp của người đó; theo yêu cầu của cha nuôi, mẹ
nuôi về việc thay đổi tên cho con nuôi hoặc khi người con nuôi thôi làm con nuôi và
người này hoặc cha đẻ, mẹ đẻ yêu cầu lấy lại tên mà cha đẻ, mẹ đẻ đã đặt hoặc thay
đổi tên của người đã xác định lại giới tính, người đã chuyển đổi giới tính,...Cũng giống
như quyền thay đổi họ, thì quyền thay đổi tên đối với người từ đủ chín tuổi trở lên phải
có sự đồng ý của người đó và khơng làm chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự được xác

lập theo họ cũ.
- Quyền xác định, xác định lại dân tộc: Cá nhân có quyền xác định, xác định
lại dân tộc của mình. Cá nhân khi sinh ra được xác định dân tộc theo dân tộc của cha
đẻ, mẹ đẻ. Trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau thì dân tộc của con
được xác định theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ theo thỏa thuận của cha đẻ, mẹ đẻ;
trường hợp khơng có thỏa thuận thì dân tộc của con được xác định theo tập quán;
trường hợp tập quán khác nhau thì dân tộc của con được xác định theo tập quán của
dân tộc ít người hơn. Đây được xem là một trong những điểm mới quan trọng của Bộ
luật Dân sự năm 2015 liên quan đến các quy định quyền nhân thân của cá nhân. Và
các trường hợp khác được pháp luật quy định về quyền xác định, xác định lại dân tộc
như trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và được nhận làm
con nuôi, trường hợp chỉ có cha ni hoặc mẹ ni,...
- Quyền được khai sinh, khai tử: Cá nhân từ khi sinh ra có quyền được khai
sinh. Cá nhân chết phải được khai tử. Trẻ em sinh ra mà sống được từ hai mươi bốn
10


giờ trở lên mới chết thì phải được khai sinh và khai tử; nếu sinh ra mà sống dưới hai
mươi bốn giờ thì khơng phải khai sinh và khai tử, trừ trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ có yêu
cầu.
- Quyền đối với quốc tịch: Cá nhân có quyền có quốc tịch. Việc xác định, thay
đổi, nhập, thôi, trở lại quốc tịch Việt Nam do Luật quốc tịch Việt Nam quy định.
Quyền của người không quốc tịch cư trú, sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam được bảo
đảm theo luật.
- Quyền của cá nhân đối với hình ảnh: Cá nhân có quyền đối với hình ảnh
của mình. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý. Bộ luật Dân
sự năm 2015 đã bổ sung một quy định mới so với Bộ luật Dân sự 2005 là quy định:
Việc sử dụng hình ảnh của người khác vì mục đích thương mại thì phải trả thù lao cho
người có hình ảnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Và hình ảnh được sử
dụng từ các hoạt động công cộng, bao gồm hội nghị, hội thảo, hoạt động thi đấu thể

thao, biểu diễn nghệ thuật và hoạt động công cộng khác mà không làm tổn hại đến
danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh.
- Quyền sống, quyền được bảo đảm an tồn về tính mạng, sức khỏe, thân
thể: Mọi cá nhân trong xã hội, khơng phân biệt giới tính, giàu nghèo, địa vị xã hội đều
được bình đẳng trước pháp luật trong việc bảo vệ tính mạng, thân thể, sức khoẻ của
mình. Khơng ai bị tước đoạt tính mạng trái luật. Việc xâm phạm đến những yếu tố này
gây ra thiệt hại cho người bị xâm phạm là cơ sở phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngồi hợp đồng của người có hành vi xâm phạm. Tại điều 19 và điều 20, Hiến
pháp 2013 có quy định về vấn đề này để bảo hộ về quyền sống, an tồn, tính mạng,
sức khỏe,...Ví dụ, theo điều 590 và 591 Bộ luật Dân sự 2015, khi một người gây thiệt
hại trái pháp luật đến sức khoẻ, tính mạng của người khác thì có trách nhiệm phải bồi
thường thiệt hại. Trong trường hợp hành vi gây thiệt hại có tính chất nguy hiểm cho xã
hội, đã đủ các yếu tố cấu thành tội phạm thì người gây thiệt hại cịn phải chịu trách
nhiệm hình sự đối với hành vi của mình.
- Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín: Danh dự, nhân phẩm, uy
tín là những yếu tố nhân thân phi tài sản gắn liền với mỗi cá nhân và là quyền bất khả
xâm phạm, được pháp luật bảo vệ. Cá nhân có quyền u cầu Tịa án bác bỏ thơng tin
11


làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình. Tuy nhiên trường hợp
khơng xác định được người đã đưa tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín
của mình thì người bị đưa tin có quyền u cầu Tịa án tun bố thơng tin đó là khơng
đúng, trái với sự thật để bảo vệ quyền nhân thân của mình. Đây là một trong những
điểm mới tiến bộ của Bộ luật Dân sự năm 2015 so với Bộ luật Dân sự năm 2005 nhằm
bảo đảm cho các cá nhân tự mình bảo vệ quyền của bản thân khi danh dự, nhân phẩm,
uy tín bị xâm phạm.
- Quyền hiến, nhận mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác: Cá nhân có
quyền tự quyết đối với cơ thể mình khi cịn sống hoặc hiến mơ, bộ phận cơ thể, hiến
xác của mình sau khi chết vì mục đích chữa bệnh cho người khác hoặc nghiên cứu y

học, dược học và các nghiên cứu khoa học khác. Cá nhân có quyền nhận mơ, bộ phận
cơ thể của người khác để chữa bệnh cho mình. Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, pháp
nhân có thẩm quyền về nghiên cứu khoa học có quyền nhận bộ phận cơ thể người, lấy
xác để chữa bệnh, thử nghiệm y học, dược học và các nghiên cứu khoa học khác. Nhận
mô, bộ phận cơ thể của người khác là quyền nhân thân thể hiện việc cá nhân được
quyền chữa bệnh và quyền được sống. Đây còn là quyền nhân thân của cơ sở khám,
chữa bệnh, pháp nhân có thẩm quyền về nghiên cứu khoa học. Các tổ chức này nhận
bộ phận cơ thể người, lấy xác để thực hiện các hoạt động với mục đích: chữa bệnh, thử
nghiệm y học, dược học và các nghiên cứu khoa học khác
- Quyền xác định lại giới tính: Cá nhân có quyền xác định lại giới tính. Việc
xác định lại giới tính của một người được thực hiện trong trường hợp giới tính của
người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình chính xác mà cần có sự can thiệp
của y học nhằm xác định rõ giới tính. Việc xác định lại giới tính được thực hiện theo
quy định của pháp luật và nhằm bảo đảm mỗi người đều được sống đúng với giới tính
thật của mình tuy nhiên phải được thực hiện trên nguyên tắc tự nguyện, khách quan,
trung thực, khoa học và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc xác định lại giới
tính.
Có thể nói Bộ luật Dân sự 2015 đã tạo điều kiện cho việc ổn định và hoà nhập
cuộc sống của những người xác định lại giới tính thơng qua việc quy định họ có
quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch, có quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã

12


được xác định lại Ví dụ, cá nhân sau khi xác định lại giới tính thì giới tính thật là nam
hoặc nữ có quyền thay đổi tên hiện có là nam giới hoặc nữ giới để phù hợp với cuộc
sống, sinh hoạt, có quyền kết hơn với người nam hoặc người nữ khác theo quy định
của pháp luật về hôn nhân và gia đình.
- Chuyển đổi giới tính: Một trong những điểm nổi bật về quyền nhân thân của
cá nhân trong Bộ luật Dân sự năm 2015 chính là việc chuyển đổi giới tính. Quy định

này nhằm tạo cơ chế pháp lý chống phân biệt đối xử đối với người chuyển đổi giới
tính, qua đó góp phần bảo đảm cho họ có địa vị pháp lý bình đẳng như những cá nhân
khác, đồng thời, bảo đảm sự minh bạch trong việc thực hiện các quyền nhân thân, tài
sản của chủ thể này trong các quan hệ dân sự. Mặc dù pháp luật đã có hướng mở cho
việc chuyển đổi giới tính, tuy nhiên thì đây khơng phải là một quyền dân sự vô hạn
như quyền về danh dự, nhân phẩm, uy tín, tính mạng, sức khoẻ, thân thể, hình ảnh và
các quyền nhân thân khác. Khi công dân thực hiện chuyển đổi giới tính đều phải tuân
thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật. Các văn bản liên quan phải xác định cụ thể
những đối tượng nào được chuyển đổi giới tính, những cơ sở y tế nào được thực hiện
chuyển đổi giới tính, cách thức chuyển đổi giới tính như thế nào, tình trạng hơn nhân
của cơng dân ra sao, quy trình thay đổi hộ tịch của cơng dân sau khi chuyển đổi giới
tính được thực hiện như thế nào. Đây là một trong những quy định tiến bộ, góp phần
đưa Việt Nam trở thành một trong các quốc gia có quy định pháp lý cụ thể để bảo vệ
quyền của người chuyển đổi giới tính nói riêng và quyền của nhóm người đồng tính,
song giới, chuyển giới nói chung, phù hợp với Nghị quyết của Hội đồng nhân quyền
của Liên hợp quốc được thông qua vào tháng 9/2014 về nhân quyền, xu hướng tình
dục và giới tính.
- Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình: Đời sống
riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo
vệ. Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng
tư, bí mật cá nhân phải được người đó đồng ý, việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công
khai thơng tin liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên gia đình đồng ý,
trừ trường hợp luật có quy định khác.

13


- Quyền nhân thân trong hơn nhân và gia đình: Cá nhân có quyền kết hơn, ly
hơn, quyền bình đẳng của vợ chồng, quyền xác định cha, mẹ, con, quyền được nhận
làm con nuôi, quyền nuôi con nuôi và các quyền nhân thân khác trong quan hệ hôn

nhân, quan hệ cha mẹ và con và quan hệ giữa các thành viên gia đình. Con sinh ra
khơng phụ thuộc vào tình trạng hơn nhân của cha, mẹ đều có quyền và nghĩa vụ như
nhau đối với cha, mẹ của mình.

14


CHƯƠNG 3: QUYỀN NHÂN THÂN TRONG THỰC TIỄN

Như đã nêu ở phần trên, giá trị nhân thân là những giá trị gắn liền với cá nhân
mỗi con người. Trong nhiều năm gần đây dưới tác động của nhiều yếu tố như chính trị,
văn hóa, xã hội, kinh tế,...thì các giá trị nhân thân và việc bảo vệ các giá trị này có ý
nghĩa hết sức quan trọng. Chính vì quan trọng nên pháp luật Việt Nam đã quy định rất
cụ thể trong pháp luật dân sự và chủ yếu là Bộ luật Dân sự.
Hiện nay, có rất nhiều sự việc liên quan đến các giá trị nhân thân của cá nhân,
cụ thể như sự việc xảy ra vào ngày 19/11/2018, khi nghe một học sinh báo cáo bạn
H.L.N nói tục, cô giáo chủ nhiệm Phạm Thị Phương Thủy - giáo viên Trường THCS
Duy Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình bắt mỗi em học sinh trong lớp 6/2
phải tát vào má N 10 cái. Ngoài 23 học sinh tát tổng cộng 230 cái, cơ giáo Phương
Thủy cịn "chốt" hình phạt bằng cái tát thứ 231 (bà Thủy còn quy định nếu bạn nào tát
nhẹ thì phải tát lại). Em N nhập viện sau đó vì má sưng. Khi sự việc ồn ào trên báo chí,
ngành giáo dục đã đình chỉ công tác bà Thủy, công an địa phương đã khởi tố vụ án.
Trong quá trình tìm hiểu, nhiều nhà báo đã đến bệnh viện gặp N và người thân, rồi gặp
bạn học cùng lớp với N tuy nhiên các nhà báo đã sử dụng hình ảnh N nằm trên giường
bệnh hoặc khi phỏng vấn bạn cùng lớp với N, hơn hết là khơng làm mờ hoặc xóa mặt
các đối tượng. Cách sử dụng hình ảnh như thế có thể xem là một biểu hiện vi phạm
quyền nhân thân về hình ảnh trên truyền thông đại chúng.
Theo điều 32 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Cá nhân có quyền đối với hình
ảnh của mình. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý”. Với
hoạt động báo chí truyền thơng, luật cũng có quy định cho phép sử dụng hình ảnh cá

nhân “vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích cơng cộng” đồng thời luật cũng cho phép sử
dụng hình ảnh “từ các hoạt động công cộng bao gồm hội ngzhị, hội thảo, hoạt động thi
đấu thể thao, biểu diễn nghệ thuật và hoạt động công cộng khác mà không làm tổn hại
đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh”. Nhưng trên thực tế, ở nhiều
trường hợp, ranh giới giữa mục đích phục vụ lợi ích quốc gia dân tộc và quyền nhân
thân về hình ảnh rất mong manh. Rất nhiều người làm báo hiện nay chưa có thói quen
15


xin phép người liên quan (người có ảnh hoặc người giám hộ) để sử dụng hình ảnh của
họ trong một số trường hợp, nhất là khi những hình ảnh cơng bố trên báo chí có thể
dẫn tới những suy diễn, tin đồn, thậm chí có thể xúc phạm danh dự, uy tín của cá nhân.
Với những trường hợp như vậy pháp luật cũng cho phép người có hình ảnh bị vi phạm
“có quyền u cầu Tịa án ra quyết định buộc người vi phạm, cơ quan, tổ chức, cá
nhân có liên quan phải thu hồi, tiêu hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh, bồi thường
thiệt hại và áp dụng các biện pháp xử lý khác theo quy định của pháp luật”4.
Trường hợp tương tự trong việc sử dụng hình ảnh là đầu năm 2004, gia đình bé
Minh Khơi kiện cơng ty Biti’s, địi bồi thường thiệt hại 154 triệu đồng vì Biti’s xài trái
phép hình ảnh của bé Minh Khơi in trên bìa lịch, tập quảng cáo. Tháng 9/2004, Tịa án
nhân dân quận 6, thành phố Hồ Chí Minh buộc Biti’s phải cơng khai xin lỗi gia đình
bé Khơi, chấm dứt vô điều kiện việc sử dụng trái phép hình ảnh của bé av2 bồi thường
gần 3 triệu đồng.
Một trong những vấn đề liên quan đến giá trị nhân thân được quy định trong
pháp luật dân sự là quyền hiến, nhận mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác. So với
Bộ luật Dân sự 2005 thì Bộ luật Dân sự 2015 có những thay đổi quan trọng, đánh dấu
sự tiến bộ trong điểm làm luật của các nhà lập pháp theo chiều hướng cập nhật những
tiến bộ, đáp ứng nhu cầu phát triển của Việt Nam trong giai đoạn mới. Do đó những
thay đổi trong chế định cá nhân đặc biệt là quyền hiến bộ phận cơ thể là một bước tiến
vượt bậc của luật pháp. Việc hiến bộ phận cơ thể phải được tuân thủ trên nguyên tắc tự
nguyện bởi đây là một trong các nguyên tắc quan trọng nhất trong luật dân sự, chỉ có

sự tự nguyện mới bảo đảm được sự tự định đoạt của chủ thể. Vì vậy, pháp luật quy
định những người hiến tặng phải là người có năng lực hành vi dân sự. Quyền hiến mô,
bộ phận cơ thể là một quyền nhân thân quan trọng, tuy nhiên không phải cá nhân nào
muốn thực hiện cũng được mà phải đạt được những điều kiện cần thiết, phải có khả
năng nhận thức và điều khiển được hành vi của mình. Ngồi ngun tắc tự nguyện,
quyền hiến xác phải tuân thủ vì mục đích nhân đạo, chữa bệnh, giảng dạy hay nghiên
cứu khoa học. Đây là mục đích có ý nghĩa to lớn nhất trong quyền hiến xác, hiến bộ
phận cơ thể. Một trong số các biện pháp bảo đảm quyền sống cho con người chính là
tạo điều kiện cả về mặt kỹ thuật, cả về mặt pháp lý để y học có thể cứu sống được
4 Khoản 3, Điều 32 BLDS 2015.

16


ngày càng nhiều bệnh nhân hiểm nghèo. Vì vậy, mục đích chữa bệnh của việc hiến bộ
phận cơ thể người cần được đặt lên hàng đầu. Và cũng không được vì mục đích
thương mại, giữ bí mật về các thơng tin có liên quan đến người hiến, người được ghép,
trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hay pháp luật có quy định khác. Đây là một
trong những biện pháp nhằm đảm bảo trật tự các quan hệ xã hội, ngăn chặn các hiện
tượng thương mại hóa xác và các bộ phận cơ thể người đồng thời bảo vệ người hiến,
nhận về mặt riêng tư cá nhân. Hiện nay, các hoạt động môi giới mua bán bộ phận cơ
thể người vẫn đang ngấm ngầm diễn ra. Bởi lẽ, nhu cầu cấy ghép bộ phận cơ thể là vô
cùng lớn và các bộ phận cơ thể người hiến tặng thì vơ cùng ít. Điều này dẫn tới việc
nâng giá trị của các bộ phận đó lên rất nhiều, đến mức có tiền cũng chưa chắc mua
được. Có nhiều người do hoàn cảnh nên đã sẵn sàng bán đi một trong những bộ phận
cơ thể của mình để trang trải cho cuộc sống. Có trường hợp là người thân nằm viện
khơng có đủ tiền thuốc thang, lại có trường hợp là sinh viên bỏ nhà không được trợ cấp
từ bố mẹ, và hơn thế nữa có những kẻ sẵn sàng giết người rồi moi bộ phận họ đem đi
bán. Đây là một thực trạng đau lòng trong xã hội hiện nay!
Một vấn đề nữa là chợ đen trong mua bán nội tạng đang diễn ra một cách tinh

vi và chuyên nghiệp thông qua khá nhiều bệnh viện. Chỉ cần để ý một chút chúng ta có
thể thấy được những người gọi là “cị” lảng vảng trước cổng viện tìm người có nhu
cầu mua. Hơn nữa không chỉ mua bán trong nước mà phạm vi của bọn chúng cịn mở
rộng ra tồn cầu đặc biệt là ở các điểm nóng như Trung Quốc. Vì thế mới có tình trạng
những bọn bn người bắt cóc và bán người sang Trung Quốc. Nhiều gia đình có
người đi xuất khẩu lao động nhưng một đi không trở lại. Việc mua bán nội tạng con
người bị lên án vì vấn đề đạo đức. Các nguyên tắc bình đẳng, cơng bằng, và nhân
phẩm con người bị cho là không được tôn trọng khi người nghèo khổ phải hy sinh sức
khỏe và đôi khi là cả mạng sống của mình. Tuy nhiên, việc kiểm sốt hoạt động này
khơng hề dễ dàng do bên mua bán có những thỏa thuận ngầm.
Đối với vấn đề hiến xác, bộ phận cơ thể thì một trong số vấn đề cần được quan
tâm là việc tử tù tự nguyện hiến xác. Xoay quanh vấn đề tử tù tự nguyện hiến xác sau
khi thi hành án, đến nay đã có nhiều tử tù có nguyện vọng hiến xác nhưng các quy
định về thi hành án tử hình lại khơng đề cập đến vấn đề này. Cũng có nhiều ý kiến thể

17


hiện các quan điểm công nhận sự tự nguyện hiến xác của các tử tù nhưng cũng có một
số lo ngại về mặt tâm lý, phong tục tập quán cũng như truyền thống. Đó là sự quan
ngại những người bị tử hình là người nguy hiểm cho xã hội, việc tước đi quyền được
sống của họ là loại bỏ đi con người không đáng được sống này nên không cần sử dụng
các bộ phận cơ thể của họ nữa. Hay sự lo sợ khi những người được cấy ghép các bộ
phận cơ thể biết được rằng đây là bộ phận của người tử tù. Xét về mặt y học một cơ
thể chết đi thì xác chết đó là một thực thể vơ tri vơ giác. Nếu nhìn nhận như thế thì cái
xác này khơng có tội mà cịn có rất nhiều lợi ích cho y học và khoa học. Nó có thể cứu
sống được rất nhiều người khi được sử dụng đúng cách và đúng pháp luật.Vướng mắc
duy nhất là sự thừa nhận của pháp luật thi hành án tử hình đối với việc các tử tù được
tự nguyện hiến xác cho khoa học và xã hội.
Ngoài những vấn đề đã đề cập trên, hành vi nói xấu người khác trên mạng xã

hội nhằm bôi nhọ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác xảy ra rất phổ biến.
Mạng xã hội trở nên phổ biến trong thời đại hiện nay và có tác động khơng nhỏ đến đời
sống xã hội. Mỗi người có thể tự mình đăng tải nội dung thể hiện trạng thái cảm xúc, suy
nghĩ trên tài khoản cá nhân của mình. Hiến pháp có quy định: "Mọi người có quyền bất
khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm;
không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm
phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm" 5. Điều này cũng được thể chế
hóa tại Bộ luật Dân sự theo khoản 1 điều 34 quy định: "Danh dự, nhân phẩm, uy tín của
cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ". Theo đó, người nào xâm phạm
danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác đều bị xử lý. Tùy theo tính chất, mức độ và
hậu quả xảy ra, hành vi đó có thể bị xử phạt hành chính, bồi thường thiệt hại hoặc bị truy
cứu trách nhiệm hình sự. Các hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người
khác phải bị xử lý là hết sức cần thiết. Tuy nhiên xử lý như thế nào để vừa bảo vệ được
quyền nhân thân vừa để đảm bảo quyền tự do ngôn luận của công dân là vấn đề không
đơn giản.
Việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân là một trong cơ chế đảm bảo thực hiện
quyền nhân thân của cá nhân. Quyền nhân thân của cá nhân cũng ngày càng được chú
5 Khoản 1, Điều 20 Hiến pháp 2013.

18


trọng, mở rộng và bảo đảm thực hiện có hiệu quả trên thực tế ở nhiều lĩnh vực khác
nhau. Những giá trị nhân thân gắn liền với mỗi cá nhân như hình ảnh, thơng tin thuộc
về bí mật đời tư, danh dự, nhân phẩm, uy tín…được khai thác và sử dụng phải tuân thủ
quy định của Bộ luật Dân sự và pháp luật liên quan.

19



C. KẾT LUẬN

Trong số nhiều ngành luật khác nhau, pháp luật dân sự có vai trị đặc biệt quan
trọng trong việc ghi nhận và bảo vệ các giá trị nhân thân. Pháp luật dân sự được xây
dựng trên cơ sở bình đẳng giữa các chủ thể, khơng cho phép bất cứ sự can thiệp tuỳ
tiện nào công việc cá nhân, sự cần thiết thực thi các quyền dân sự một cách không gây
cản trở, bảo đảm khôi phục những quyền bị xâm phạm và bảo vệ các quyền này thông
qua Tồ án. Thơng qua việc quy định những giá trị nhân thân để nhằm ghi nhận và tôn
trọng quyền nhân thân của cá nhân, nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ quyền nhân
thân, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

20


PHỤ LỤC HÌNH ẢNH
Nguồn: Báo Lao Động

Hình 1: Sau khi bị cô giáo chủ nhiệm và cả lớp tát vào mặt, em N nhập viện điều trị
Nguồn: Báo Lao Động

Hình 2: Trường THCS Duy Ninh, huyện Quảng Ninh (Quảng Bình) - nơi xảy ra sự
việc cô giáo bắt cả lớp tát một học sinh đến mức nhập viện.
21


Nguồn: Đời sống và pháp luật

\
Hình 3: Hình ảnh Trương Thế Vinh khi tham gia chương trình truyền hình bị phía

thương hiệu sử dụng để quảng cáo khi chưa có sự đồng ý.
Nguồn: Kinh tế đơ thị

Hình 4: Phiên tịa xét xử vụ xâm hại trẻ em tại tỉnh Vũng Tàu.

22


PHỤ LỤC
KẾ HOẠCH PHÂN CƠNG VIẾT TIỂU LUẬN
Nội dung hồn thành

Sinh viên hoàn thành

Mức
độ
hoàn thành

PHẦN 1. PHẦN MỞ ĐẦU
Nội dung 1: Lý do chọn đề tài, mục tiêu,
Hồ Minh Tỷ
phương pháp nghiên cứu.

Tốt

PHẦN 2. NỘI DUNG
Nội dung 2: Định nghĩa quyền nhân thân.
Nội dung 3: Đặc điểm quyền nhân thân.

Huỳnh Đăng Quang

Huỳnh Đăng Quang

Tốt
Tốt

Nội dung 4: Ý nghĩa quyền nhân thân.

Huỳnh Đăng Quang

Tốt

Nội dung 5: Phân loại quyền nhân thân.

Trần Thái Bảo

Tốt

Nội dung 6: Phân tích các quy định về
Trần Thái Bảo
quyền nhân thân.

Tốt

Nội dung 7: Thực tiễn quyền nhân thân
Trần Thái Bảo
ngày nay.
PHẦN 3. KIẾN THỨC VẬN DỤNG

Tốt


Nội dung 10: Bộ luật liên quan đến quyền
Hồ Minh Tỷ
nhân thân.

Tốt

Nội dung 11: Một số sự việc liên quan đến
Hồ Minh Tỷ
các giá trị nhân thân của cá nhân.

Tốt

PHẦN 4. KẾT LUẬN
Nội dung 10: Biên tập lời kết luận.

Huỳnh Đăn Quang

TỔNG HỢP NỘI DUNG BÀI TIỂU
Trần Thái Bảo
LUẬN, CHỈNH SỬA HOÀN THIỆN

Tốt
Tốt

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Ths.Đặng Thị Lưu, 2019, Quyền nhân thân của cá nhân trong pháp luật dân sự.

23



Link: />ItemID=2436&fbclid=IwAR1J161MDlaZf_ZDlRljC3GQ_bv5zpyAM_Af4aKb1NFQ
DNZ1Rsq-243elAU
2.Ths Phùng Bích Ngọc, 2012, Luận bàn về quyền nhân thân đối với hình ảnh của cá
nhân theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005 .
Link: />3.Đặng Tài-Dân Trí, 24/11/2018, Cơ giáo bắt cả lớp tát bạn học 231 cái vào má đến
mức nhập viện
Link: />4.Pháp luật TP HCM, 13/02/2018, Quyền nhân thân với hình ảnh của cá nhân: bao
nhiêu là vừa.
Link: />%e1%bb%9ai-hnh-%e1%ba%a2nh-c%e1%bb%a6a-c-nhn-bao-nhiu-l-v%e1%bb%aaa/

24



×