ĐẠI HỌC
TRỪƠNG ĐẠI HỌC SU PHẠM
…………………………
BÀI TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: VỆ SINH VÀ PHÒNG BỆNH TRẺ EM
Đề tài: BIỆN PHÁP PHÒNG CÁC BỆNH ĐƯỜNG HÔ HẤP
CHO TRẺ Ở TRƯỜNG MẦM NON A
Giảng viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện:
Table of Contents
Table of Contents...................................................................................................................2
Table of Contents...................................................................................................................3
6. Phương pháp nghiên cứu..................................................................................................4
( giới thiệu 1 chút về trường , số trẻ , gv nhân viên).......................................................20
2.2. Thực trạng phòng các bệnh đường hô hấp cho trẻ ở trường mầm non A – Thành
Phố Huế...........................................................................................................................20
2.2.1. Nhận thức của giáo viên về tầm quan trọng của việc phịng bệnh hơ hấp ở trẻ
mầm non......................................................................................................................20
2.2.2. Nhận thức của giáo viên về các bệnh đường hô hấp ở trẻ mầm non.............21
2.3.1. Nâng cao nhận thức cho giáo viên...................................................................33
2.3.2. Nâng cao cơ sở vật chất và môi trường sống cho trẻ ở trường mầm non......33
2.3.3. Vệ sinh cơ quan hô hấp hàng ngày cho trẻ......................................................34
2.3.4. Nâng cao sức đề kháng cho trẻ........................................................................35
2.3.5. Phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường...............................................35
DANH MỤC BẢNG
Table of Contents
Table of Contents...................................................................................................................2
Table of Contents...................................................................................................................3
6. Phương pháp nghiên cứu..................................................................................................4
( giới thiệu 1 chút về trường , số trẻ , gv nhân viên).......................................................20
2.2. Thực trạng phòng các bệnh đường hô hấp cho trẻ ở trường mầm non A – Thành
Phố Huế...........................................................................................................................20
2.2.1. Nhận thức của giáo viên về tầm quan trọng của việc phịng bệnh hơ hấp ở trẻ
mầm non......................................................................................................................20
2.2.2. Nhận thức của giáo viên về các bệnh đường hô hấp ở trẻ mầm non.............21
2.3.1. Nâng cao nhận thức cho giáo viên...................................................................33
2.3.2. Nâng cao cơ sở vật chất và môi trường sống cho trẻ ở trường mầm non......33
2.3.3. Vệ sinh cơ quan hô hấp hàng ngày cho trẻ......................................................34
2.3.4. Nâng cao sức đề kháng cho trẻ........................................................................35
2.3.5. Phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường...............................................35
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục mầm non góp phần cùng với sự phát triển của giáo dục Việt
Nam đào tạo ra những con người có năng lực, phát triển tồn diện khơng
những cả về phẩm chất trí tuệ, phẩm chất đạo đức mà cịn đầy đủ về sức khỏe.
Những năm đầu đời sự phát triển của trẻ diễn ra rất nhanh, đặc biệt là
sự phát triển về thể chất. Tuy nhiên, quá trình phát triển này diễn ra không
đồng đều và thường chịu nhiều yếu tố tác động, làm ảnh hưởng đến sự phát
triển thể chất của trẻ. Các yếu tố thường ảnh hưởng đến trẻ như: yếu tố mơi
trường, khí hậu, khơng khí bị ơ nhiễm, hay yếu tố nhiệt độ, độ ẩm thay đổi đột
ngột, giao mùa… gây ra những bệnh tật cho trẻ em. Ngồi ra, ở trẻ hệ hơ hấp
cịn non yếu, chưa có khả năng miễn dịch tốt nên trẻ dễ mắc các bệnh về
đường hô hấp. Khi trẻ mắc bệnh, làm cho thể chất của trẻ phát triển kém, cơ
thể gầy gị, ốm yếu, làm ảnh hưởng đến q trình phát triển toàn diện của trẻ,
làm cho sự phát triển của trẻ diễn ra không đồng đều.
Ở nước ta điều kiện khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, thời tiết thay đổi theo
mùa nên tạo điều kiện thuận lợi gây nên các bệnh về đường hô hấp ở trẻ.
Cùng với môi trường sống đang bị ơ nhiễm, khói bụi,.., cũng đe dọa đến hệ hô
hấp non yếu của trẻ. Các bệnh hô hấp thường phổ biến ở thành thị hơn là
nông thôn, tỉ lệ mắc bệnh ở nước ta tăng lên vào khoảng tháng 4, tháng 5 và
tháng 9, tháng 10. Bên cạnh đó, khó khăn cho các trường mầm non trong q
trình bảo vệ cho trẻ khỏi các bệnh hơ hấp đó là số giáo viên ít, trong khi số trẻ
trong một lớp vượt ra khỏi số lượng cho phép từ 5–10 trẻ. Chính vì vậy mà
các cơ giáo khơng đủ điều kiện để quan tâm đủ cho từng trẻ. Khiến bệnh về
đường hơ hấp ngày càng khó kiếm sốt và lan rộng hơn.
Hệ miễn dịch của trẻ vốn chưa hồn thiện nên cịn rất non yếu và dễ
dàng bị tác động, ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố bên ngoài. Điều này lý giải
nguyên nhân vì sao trẻ thường mắc các bệnh liên quan đến đường hô hấp, đặc
biệt trong hồn cảnh thời tiết chuyển mùa. Bệnh về đường hơ hấp là một căn
bệnh có khả năng lây lan và hay bị tái phát, chính vì vậy, các bậc phụ huynh
1
và giáo viên mầm non nên lưu ý để có thể nhận biết và điều trị kịp thời, dứt
điểm cho bé tránh tình trạng biến chứng nguy hiểm.
Bệnh về đường hô hấp xảy ra phần lớn là do virut và vi khuẩn, các loại
virut thường gặp là virut hợp bào hô hấp, virut cúm, virut sởi…, các loại vi
khuẩn thường gặp là liên cầu, tụ cầu, phế cầu… khi người lớn khơng biết cách
chăm sóc cho trẻ, khơng có phương pháp tốt để phịng tránh cho trẻ thì vi
khuẩn và virut sẽ lợi dụng điều kiện không thuận lợi từ môi trường để gây
bệnh cho trẻ. Khi trẻ mắc bệnh sẽ gây ảnh hưởng cho gia đình và xã hội về
chi phí khám bệnh, thuốc men, chăm sóc, viện phí…. ảnh hưởng đến tinh thần
và thể chất của cả trẻ và cả cha mẹ trẻ.
Trên thực tế, phòng bệnh đường hô hấp cho trẻ mặc dù đã được quan
tâm nhưng nhận thức về bệnh còn chưa đầy đủ và rõ ràng, chính vì vậy mà
dẫn đến những hậu quả xấu cho trẻ. Từ những lí do trên tơi chọn đề tài: “Biện
pháp phịng các bệnh hơ hấp cho trẻ ở trường Mầm Non A –Thành Phố Huế”
để điều tra và nghiên cứu.
2. Lịch sử của vấn đề nghiên cứu
Về vấn đề nhận thức về bệnh và các biện pháp phòng bệnh đường hô
hấp cho trẻ ở lứa tuổi mầm non đã được rất nhiều các nhà nghiên cứu quan
tâm và tìm hiểu.
Tác giả Lê Thị Hoa Mai – Trần Văn Dần đã nghiên cứu để biên soạn ra
Giáo trình phịng bệnh và đảm bảo an toàn cho trẻ mầm non. Nội dung tài liệu
đề cập đến các bệnh thường gặp ở trẻ, các bệnh chuyên khoa, các bệnh truyền
nhiễm, đảm bảo an tồn và phịng tránh một số tai nạn thường gặp, giáo dục
phịng bệnh cho trẻ. Giáo trình này nhằm cung cấp cho sinh viên có tài liệu
học tập, nắm được những kiến thức cơ bản và kĩ năng cần thiết về cơng tác đề
phịng một số bệnh thường gặp ở tuổi mầm non. [3]
Giáo trình Nhi khoa tập 1, là giáo trình được các tác giả Phan Hùng
Việt, Nguyễn Thị Kiều Nhi, Bùi Bỉnh Bảo Sơn, Nguyễn Thị Cự, Hoàng Thị
Thủy Yên chủ biên và cùng với 17 tác giả khác tham gia biên soạn, đây là tài
liệu được thu thập và biên soạn lại thành sách. Nội dung nghiên cứu của giáo
2
trình này là nghiên cứu các đặc điểm sinh lý của trẻ và những bệnh xảy ra ở
trẻ em. Với mục đích dùng để làm tài liệu cho sinh viên học tập, nhận biết về
bệnh và cách điều trị bệnh khi trẻ mắc phải, trong đó có các bệnh về đường hô
hấp. [4]
Tác giả Bùi Thúy Ái đã cùng với hai cộng sự là Nguyễn Ngọc Châu và
Bùi Thị Thoa đã tiến hành nghiên cứu và đưa ra một giáo trình Giải phẩu sinh
lý – vệ sinh phịng bệnh trẻ em. Họ cho rằng muốn trẻ được giáo dục tốt thì
trước tiên giáo viên phải được giáo dục, phải có sự hiểu biết đầy đủ về trẻ.
Chính vì vậy mà đây là một tài liệu cần thiết để sinh viên và các giáo viên có
thể tham khảo và học tập, để biết được đặc điểm giải phẩu sinh lý, cấu tạo của
trẻ. Biết được những bệnh hay gặp ở trẻ, cách chăm sóc sức khỏe ban đầu và
học được các kỹ năng cấp cứu thông thường cho trẻ ở trường mầm non.
Ngồi ra cịn có một số luận văn đã nghiên cứu một số đề tài có liên
quan đến các bệnh đường hô hấp ở trẻ.
Trong đề tài “thực trạng giáo dục phịng bệnh nhiễm khuẩn hơ hấp cấp
tính cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi thơng qua trị chơi đóng vai theo chủ đề ở
trường mầm non Đống Đa – Hà Nội”, tác giả Phan Thị Hoa nghiên cứu về
đặc điểm tâm lí của trẻ, hoạt động chủ đạo của trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo; nghiên
cứu thực trạng hình thức, nội dung, phương pháp lồng ghép nội dung cần giáo
dục cho trẻ, từ đó đề xuất một số biện pháp giáo dục phòng bệnh cho trẻ. [9]
Trong đề tài “Thực trạng và một số yếu tố nguy cơ về nhiễm khuẩn hơ
hấp cấp tính của trẻ dưới 5 tuổi tại một số xã miền núi tỉnh Bắc Cạn”, tác giả
Mai Anh Tuấn đã nghiên cứu về đặc điểm sinh lý có liên quan đến bệnh
nhiễm khuẩn hơ hấp cấp tính ở trẻ, cơ sở lí luận về bệnh, thực trạng và các
yếu tố nguy cơ về nhiễm khuẩn hơ hấp cấp tính của trẻ dưới 5, sau đó đưa ra
một số khuyến nghị cho phụ huynh để việc trẻ bị mắc bệnh nhiễm khuẩn hơ
hấp cấp tính được giảm thiểu hơn. [10]
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu về thực tiễn cách phịng các bệnh hơ hấp cho trẻ ở trường
mầm non để xác định được các nội dung, phương pháp thực hiện của công tác
3
phịng bênh. Từ đó, đưa ra những u cầu, biện pháp thích hợp để giúp các
giáo viên nâng cao hiệu quả trong việc phịng bệnh hơ hấp cho trẻ cách hiệu
quả và thiết thực nhất.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn về cách phịng các bệnh hô hấp
cho trẻ ở trường mầm non A.
Đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả thực hiện biện pháp
phịng các bệnh hơ hấp cho trẻ ở trường mầm non.
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
- Qúa trình phịng các bệnh đường hô hấp cho trẻ ở trường mầm non.
- Khách thể nghiên cứu: Giáo viên trường mầm non A.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Trẻ lứa tuổi mầm non trường mần non A.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Sưu tầm, phân tích và tổng hợp các tài liệu, sách báo để tìm hiểu cơ sở
lý luận của các yếu tố có liên quan đến việc nghiên cứu biện pháp phịng
chống bệnh hơ hấp cho trẻ mầm non.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Điều tra bằng bảng hỏi: điều tra giáo viên về việc phịng bệnh hơ hấp
cho trẻ ở trường mầm non.
6.3. Nhóm phương pháp thống kê toán học.
Xử lý số liệu điều tra thu được bằng phầm mềm Excel.
7. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và kiến nghị sư phạm, phần nội dung đề
tài gồm có 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài
Chương 2: Biện pháp phịng các bệnh hơ hấp cho trẻ ở trường Mầm
Non A – Thành Phố Huế.
4
5
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Một số kiến thức cơ bản về bệnh hô hấp
1.1.1. Khái niệm bệnh đường hơ hấp
Đường hơ hấp chính là nơi mà nhiều mầm bệnh (vi rút, vi khuẩn) dễ
dàng xâm nhập khi trẻ hít thở. Đối với trẻ, đường thở ngắn và hẹp nên mầm
bệnh dễ lây lan hơn. Đặc biệt là trẻ dưới 5 tuổi, bệnh đường hô hấp thường
xuyên tấn cơng do hệ miễn dịch chưa hồn chỉnh nên sức đề kháng và khả
năng miễn dịch của trẻ kém. Chính vì vậy, trẻ khơng đủ sức chống đỡ với sự
tấn công của các mầm bệnh xâm nhập từ bên ngồi.
Bệnh đường hơ hấp là tình trạng viêm nhiễm của các cơ quan, bộ phận
thuộc đường hô hấp. Bệnh đường hô hấp không phải là một bệnh mà là một tổ
hợp nhiều bệnh.
Bệnh về đường hô hấp xảy ra phần lớn là do virut và vi khuẩn, các loại
virut thường gặp là virut hợp bào hô hấp, virut cúm, virut sởi…, các loại vi
khuẩn thường gặp là liên cầu, tụ cầu vàng, phế cầu… Đối với nhiễm khuẩn hô
hấp cấp tính do virus có tiên lượng khả quan, ngoại trừ một số bệnh nặng như
viêm tiểu phế quản cấp, viêm phổi do adenovirus ở trẻ nhỏ có thể dẫn đến tử
vong, cịn đa số các trường hợp cịn lại khơng cần đến kháng sinh. Đối với
nhiểm khuẩn cấp tính do vi khuẩn, phần lớn đều gây ra nguy hiểm và cần đến
kháng sinh. Đặc biệt nguy hiểm là viêm phổi do tụ cầu vàng, viêm nắp thanh
quản do H.influenzae. [4; tr.265-266]
Bệnh đường hô hấp được đi từ nhẹ đến nặng. Khi bị nhiễm khuẩn
đường hô trên nếu không được chữa trị triệt để sẽ dẫn đến nhiễm khuẩn
đường hô hấp dưới và gây ra những biến chứng ngiêm trọng đối vói những
trường hợp mẫn cảm có thể dẫn đến tử vong.
Bệnh đường hơ hấp thường xảy ra khi có điều kiện thuận lợi từ mơi
trường, khơng khí. Đặc biệt ở khí hậu nước ta thường xuyên thay đổi, nhiệt độ
lên xuống thất thường làm cho nguy cơ mắc bệnh càng gia tăng, bệnh thường
6
xảy ra vào tháng 4, tháng 5 và tháng 9, tháng 10. Khi trẻ mắc bệnh sẽ dẫn đến
tình trạng ủ rủ, khó thở, mệt mỏi tồn thân, làm cho trẻ biến ăn, và có thể dẫn
đến tình trạng khơng cân bằng được thành phần dinh dưỡng gây suy dinh
dưỡng.
1.1.2. Một số bệnh đường hô hấp thường gặp ở trẻ mầm non
Bệnh đường hô hấp không phải là một bệnh mà là một tổ hợp nhiều
bệnh xảy ra ở hệ thống đường hô hấp của trẻ. Bệnh đường hô hấp được chia
thành hai nhóm bệnh chính, đó là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính đường hơ hấp
trên và nhiễm khuẩn cấp tính đường hơ hấp dưới.
1.1.2.1 Bệnh nhiễm khuẩn cấp tính đường hô hấp trên
Đường hô hấp trên bao gồm: mũi, hầu, họng, xoang và cả thanh quản,
đảm nhiệm chức năng chủ yếu là lấy khơng khí bên ngồi cơ thể, làm ẩm,
sưởi ấm và lọc khơng khí trước khi đưa vào phổi. Do là cơ quan đầu ngoài
cùng tiếp xúc với khơng khí nên đường hơ hấp trên dễ bị các tác nhân từ bên
ngồi mơi trường tấn cơng gây bệnh. [6]
Nhiễm khuẩn đường hơ hấp trên là tình trạng viêm nhiễm của các cơ
quan, bộ phận thuộc đường hô hấp trên, gồm: mũi, hầu, họng, xoang và thanh
quản. Như vậy, viêm đường hô hấp trên không phải là một bệnh mà là một tổ
hợp nhiều bệnh, thường gặp là: Cảm lạnh, viêm họng, viêm amidan, viêm
xoang, viêm thanh quản,…
Phần lớn nhiễm khuẩn đường hô hấp trên là những bệnh có mức độ
nhẹ, trung bình, có thể tự khỏi, một số dễ dàng chữa khỏi tại nhà bằng các liệu
pháp thơng thường. Nhưng khi có viêm đường hơ hấp trên thì thường ảnh
hưởng đến đường hơ hấp dưới, kể cả các trường hợp mãn tính. Ngồi ra, cịn
gây các bệnh toàn thân rất nguy hiểm như viêm cầu thận cấp, thấp tim, viêm
khớp.
1.1.2.1.1. Bệnh viêm mũi cấp
Bệnh viêm mũi cấp hay còn được gọi là bệnh cảm lạnh. Cảm lạnh là
một bệnh lý truyền nhiễm do virus gây ra ở đường hô hấp trên nhưng chủ yếu
ảnh hưởng ở mũi với biểu hiện bệnh nổi bật là ho, đau họng, sổ mũi, hắt hơi
7
và tắc mũi, có thể kèm theo triệu chứng tồn thân nhẹ như đau mỏi cơ và sốt,
thường tự hết trong vịng 7 đến 10 ngày, cũng có thể triệu chứng kéo dài đến
hết tuần thứ 3. [4; tr.266]
Cảm lạnh thông thường là một bệnh nhiễm virus trên đường hô hấp mà
cụ thể là mũi và cổ họng của người bị bệnh. Cảm lạnh thông thường là bệnh
vô hại nhưng trong thời gian bị bệnh, người bệnh sẽ cảm thấy khó chịu thậm
chí là cực kỳ khó chịu.
8
1.1.2.1.2. Bệnh viêm Amidan
Amidan là một cấu trúc giống thịt – trên thực tế là các hạch bạch huyết
– nằm ở hai bên phía sau họng. Amidan cũng là nơi sản xuất ra kháng thể IgG
rất cần thiết trong miễn dịch. Amidan là hệ thống phòng vệ đầu tiên của hệ
miễn dịch và thường đóng vai trị thanh lọc các vi khuẩn hoặc virus muốn
xâm nhập vào cơ thể thông qua đường mũi hoặc đường miệng.
Khi amidan chống lại sự xâm nhập ồ ạt của vi khuẩn vào mũi họng
vượt quá mức sẽ xảy ra tình trạng viêm amidan bị sưng, đỏ. Hậu quả của sự
tập trung tiêu diệt vi khuẩn tại amidan thường để lại xác vi khuẩn và xác bạch
cầu, mô hoại tử thành các cục mủ rất hôi, lâu lâu rớt ra khỏi amidan. Khi
amidan bị viêm nhiều lần, khả năng chống vi khuẩn bị yếu đi, do chính các ổ
viêm nằm trong amidan, lại là nơi khởi phát cho những đợt viêm vùng
họng.Viêm amidan chiếm tỷ lệ cao ở trẻ em, thường do vi khuẩn gây ra.
Viêm amidan là tình trạng amidan bị nhiễm trùng hay nhiễm khuẩn làm
cho sưng lên và đau.
Viêm amidan là tình trạng amidan bị nhiễm trùng, sưng, đau xảy ra ở
mọi lứa tuổi. Thơng thường, amidan có thể tự khỏi mà khơng cần điều trị. Tuy
nhiên có trường hợp amidan bị biến chứng gây khó chịu cho người bệnh nếu
khơng điều trị đúng hướng và kịp thời.
Trong trường hợp trẻ bị viêm amidan mãn tính trẻ sẽ ngáy khi ngủ và
chủ yếu thở bằng miệng. Khi nói chuyện, trẻ sẽ phát âm giọng mũi hoặc khó
khăn khi phát âm. Tình trạng amidan mãn tính nếu khơng được điều trị kịp
thời có thể gây ra hội chứng ngưng thở khi ngủ và sẽ ảnh hưởng đến chức
năng tai của trẻ.
1.1.2.1.3. Bệnh viêm họng đỏ
Viêm họng đỏ là tình trạng viêm niêm mạc họng ở thể cấp tính, thường
do virus hoặc vi khuẩn gây ra. Trẻ em là đối tượng thường gặp phải căn bệnh
này nhất, chúng có thể xuất hiện riêng lẻ hoặc cùng với viêm amidan, viêm
VA, cúm,…
9
Viêm họng đỏ là một dạng bệnh viêm họng, gây nên bởi tình trạng
viêm nhiễm niêm mạc hầu họng do vi khuẩn hay virus gây ra lây lan với tốc
độ nhanh, phân biệt với 2 loại viêm họng còn lại với đặc điểm: niêm mạc hầu
đỏ. Bệnh viêm họng đỏ có thể gặp ở nhiều độ tuổi khác nhau, nhưng thường
gặp ở trẻ em, xuất hiện thường cùng với sổ mũi, cảm cúm, viêm amidan hoặc
viêm VA,…
Viêm họng đỏ là một trong 3 loại viêm họng thường gặp cùng với viêm
họng trắng và viêm họng loét gây ra những triệu chứng khó chịu cho người
bệnh
1.1.2.1.4. Bệnh viêm tai giữa
Viêm tai giữa là tình trạng viêm tồn bộ hệ thống hịm nhĩ và xương
chũm, thường có tạo dịch trong hịm nhĩ. Dịch này có thể nhiễm trùng hoặc
vơ trùng
Bệnh viêm tai giữa là bệnh lý về đường hơ hấp trên có thể xuất hiện ở
nhiều đối tượng khác nhau, tuy nhiên tỷ lệ bệnh ở trẻ em thường cao hơn cả.
Việc điều trị chứng bệnh này đòi hỏi người bệnh cần có sự kiên trì trong một
thời gian dài, bởi nếu không được chữa dứt điểm, bệnh sẽ rất dễ biến chứng
sang những tình trạng trầm trọng hơn.
Viêm tai giữa cấp là dạng viêm tai thường gặp nhất, đặc biệt là ở trẻ
nhỏ do cấu trúc tai chưa được hoàn thiện. Nếu khơng có biện pháp chữa trị
kịp thời và tích cực, viêm tai giữa cấp có thể trở thành viêm tai giữa mãn tính
hay các biến chứng nguy hiểm như viêm màng não, áp xe não, viêm tắc tĩnh
mạch bên hay liệt dây VII ngoại vi.
Bệnh viêm tai giữa bao gồm hai bệnh chính, nhiễm trùng cấp gọi là
viêm tai giữa nung mũ hoặc viêm tai giữa cấp; và viêm kèm với tràn dịch gọi
là viêm tai giữa hoặc viêm tai giữa xuất tiết. Cả hai loại bệnh này có liên quan
đến nhau; nhiễm trùng cấp thường gây viêm và xuất tiết rồi viêm và xuất tiết
làm cho trẻ dễ bị nhiễm trùng tái diễn. [4; tr.270]
1.1.2.2. Bệnh nhiễm khuẩn cấp tính đường hơ hấp dưới
10
Bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp dưới thường xảy ra tình trạng bệnh nặng
hơn nhiễm khuẩn đường hơ hấp trên, do sự ảnh hưởng từ các bệnh của đường hô
hấp trên không được chữa trị tận gốc. Thông thường viêm đường hơ hấp dưới
thường có nguy cơ cao biến chứng cao có thể gây tử vong, đặc biệt là đối với các
trẻ nhỏ.
Bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp dưới ở trẻ em thường xảy ra vào mùa
đông khi bố mẹ có xu hướng cho trẻ ở trong phịng kín ít tiếp xúc với khơng
khí trong lành, hay khi cơ quan hơ hấp của trẻ bị tổn thương do nhiễm khuẩn
vì tiếp xúc với các yêu tố như khói bụi, nhiễm lạnh hoặc lây từ người bệnh
khác khi tiếp xúc,… [8]
1.1.2.2.1. Viêm thanh quản rít
Là do luồng khơng khí đi qua chỗ hẹp thường nghe thấy các tổn thương
của thanh quả như:
Thở rít thanh quản bẩm sinh, chỉ nghe thấy ở thì thở vào và tăng lên khi
trẻ giãy giụa, vật vã, mất đi khi ngủ yên hoặc ngủ, thấy rõ từ 3-6 tháng, sau
một năm giảm dần và hết. [3; tr.83]
Viêm thanh quản rít thường gặp ở trẻ từ 2-6 tuổi đang bị viêm đường
hô hấp trên: đang đem tỉnh giấc lên cơn khó thở, có tiếng thơ rít, co lõm, mơi
tím, kéo dài vài ba phút đến một tiếng, sau đó trẻ ho húng hắng, tiếng khàn
nhưng chơi bình thường, chỉ cần ủ ấm, xoa dầu là hết. Sau đó điều trị viêm
đường hơ hấp trên.
Ngồi ra, cịn có thở rít trong viêm thanh quản bạch hầu, viêm thanh
quản do sởi, thở rít do dị tật, dị vạt đường thở. Đây là những thể nặng cần đưa
đến bệnh viện ngay. [3; tr. 84]
Viêm thanh quản là tình trạng viêm thanh quản từ kích thích, lạm dụng
hoặc nhiễm trùng.
Bên trong thanh quản là dây thanh - hai nếp gấp của niêm mạc bao phủ
cơ và sụn. Thông thường dây thanh mở và đóng êm, tạo thành âm thanh thơng
qua chuyển động và rung động. Nhưng trong viêm thanh quản, dây thanh bị
viêm hay bị kích thích. Điều này gây ra sưng biến dạng của các âm thanh bởi
11
khơng khí đi qua chúng. Kết quả là, giọng nói âm thanh khàn. Trong một số
trường hợp viêm thanh quản, giọng nói có thể trở thành gần như khơng phát
hiện được.
Viêm thanh quản có thể ngắn ngủi (cấp tính) hoặc lâu dài (mãn tính).
Hầu hết các trường hợp viêm thanh quản được kích hoạt bởi nhiễm virus tạm
thời hoặc biến dạng giọng nói và khơng nghiêm trọng. Khàn tiếng kéo dài đơi
khi có thể báo hiệu một điều kiện cơ sở y tế nghiêm trọng hơn.
1.1.2.2.2. Bệnh viêm phổi ở trẻ em
Viêm phổi là tổn thương ở nhu mô phổi gồm các phế quản nhỏ, phế
nang và các tổ chức phế nang do vi khuẩn, virut gây nên.
Đây là một tình trạng viêm nghiêm trọng ở phổi, thường gây ra bởi vi
khuẩn. Việc điều trị thuốc kháng sinh cho tác nhân vi khuẩn là rất cần thiết.
Viêm phổi là bệnh thường gặp, thể hiện tình trạng viêm nhu mơ phổi do
tác nhân gây bệnh phần lớn là vi khuẩn. Triệu chứng điển hình là sốt cao, lạnh
run, ho khạc đàm mủ và đau ngực kiểm màng phổi (đau khi hít sâu vào, khi
ho). Khi khơng được chẩn đốn và điều trị kịp thời, viêm phổi thường diễn
tiến nặng có thể gây suy hơ hấp cấp tính, nhiễm khuẩn huyết và có thể tử
vong.
Bệnh hay gặp ở trẻ từ 0-3 tuổi, ở trẻ nhỏ mắc bệnh dễ bị nặng hơn so
với trẻ lớn. Viêm phổi là một trong những nguyên nhân chính gây tử vong ở
trẻ, đặc biệt là trẻ dưới một tuổi, trẻ sơ sinh đẻ non, đẻ yếu, trẻ suy dinh
dưỡng. Theo thống kê của tổ chức y tế thế giới, số tử vong của viêm phổi
chiếm tỉ lệ 75,5% tổng số tử vong của bệnh đường hô hấp. [3; tr.84]
1.1.2.2.3. Bệnh hen ở trẻ em
Hen trẻ em là một bệnh thường gặp do các phế quản bị bít tắc bởi niêm
mạc bị phù nề và các đờm rãi, chiếm hơn 20% các bệnh về phổi ở trẻ nhỏ,
đứng hàng thứ ba sau bệnh viêm phế quản và viêm phổi.
Hen là bệnh viêm mạn tính của đường hơ hấp, dai dẳng ở trẻ có cơ địa dị
ứng với triệu chứng chính là thở rít tái phát kèm theo rối loạn thơng khí tắc nghẽn
có hồi phục
12
Bệnh hen ở trẻ em là sự khó thở từng cơn, với thở rít, chủ yếu thì thở
ra, có thể kèm theo ho khan hoặc ho có đờm, do tắc nghẽn phế quản, tự hồi
phục hoặc hồi phục dưới ảnh hưởng của thuốc dãn phế quản. [2; tr.22]
1.1.3. Nguyên nhân của các bệnh đường hô hấp
Bệnh đường hô hấp xảy ra chủ yếu là do vi khuẩn và virut và bên cạnh
đó cịn có một số các yếu tố thuận lợi để mầm bệnh được sinh trưởng và phát
triển mạnh mẽ.
“Thủ phạm” gây bệnh đường hô hấp thường được xác định chủ yếu do
virus như: virus Rhino, Corona, Á cúm Parainfluenza, Adeno, virus hơ hấp
hợp bào RSV. Bên cạnh đó cũng khơng ít trường hợp là do vi khuẩn: liên cầu
khuẩn tan máu nhóm A, phế cầu khuẩn, Haemophilus influenzae; hay cũng có
thể là nấm. Ngồi ra, các dị ngun trong khơng khí, bụi bặm, hóa chất độc
hại, khói thuốc lá,… cũng làm tăng nguy cơ mắc bệnh lý này. [8]
Bên cạnh tác nhân chính là virut, vi khuẩn thì cịn có các yếu tố thuận
lợi sau đây: Trẻ suy dinh dưỡng, sinh non, nhẹ cân, sức đề kháng yếu… là yếu
tố dễ mắc các bệnh đường hô hấp hơn trẻ bình thường và khi bị các bệnh
đường hơ hấp thì thời gian điều trị kéo dài hơn, tiên lượng xấu hơn do sức đề
kháng của trẻ bị suy dinh dưỡng ln kém hơn những trẻ khác. Bên cạnh đó
trẻ không được nuôi dưỡng bằng sữa mẹ khi mắc bệnh có nguy cơ tử vong do
viêm phổi cao hơn so với trẻ được nuôi dưỡng bằng sữa mẹ. Một nghiên cứu
ở Brazin (1985) cho thấy: Nếu nguy cơ tương đối (RR) của tử vong do viêm
phổi ở trẻ được nuôi bằng sữa mẹ là 1, thì ở trẻ đ ược ni bằng sữa mẹ + sữa
bị là 1,2 và trẻ chỉ được ni bằng sữa bị là 3,3.
Thời tiết lạnh và thời điểm giao mùa là điều kiện thuận lợi gây ra các bệnh
đường hô hấp ở trẻ em. Trẻ em mắc các bệnh đường hô hấp tăng lên rõ rệt vào
các tháng mùa đông. Ở Việt Nam, điều kiện khí hậu thay đổi thất thường, cho
nên tỉ lệ người mắc bệnh đường hơ hấp càng tăng, ước tính bệnh đường hô hấp
đã lấy đi 4.000 sinh mạng mỗi năm, trong đó tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi
chiếm 12%. Thời điểm mắc bệnh về đường hô hấp không phải là lúc trời lạnh
13
nhất (tháng 12, 1, 2), mà vào 2 thời điểm giao mùa thời tiết là tháng 4, tháng 5 và
tháng 9, tháng 10.
Ơ nhiễm mơi trường như: vệ sinh trong nhà, khói bụi cơng nghiệp làm
ơ nhiễm khơng khí,… sẽ tác động đến hệ hô hấp non yếu của trẻ, làm ảnh
hưởng đến hoạt động bảo vệ niêm mạc hô hấp, các lơng rung, q trình tiết
chất nhầy cũng như hoạt động của các đại thực bào, sự sản sinh các globulin
miễn dịch, do đó trẻ dễ bị mắc các bệnh đường hô hấp.
Vitamin A là loại vitamin tan trong chất béo, vitamin A ngoài việc giúp
phát triển về da, mắt, tiết niệu và ống tiêu hóa, nó cịn giúp phát triển về
đường hô hấp thông qua điều chỉnh hoạt động của hệ miễn dịch bằng cách tạo
bạch cầu chống lại vi trùng và virus gây bệnh. Chính vì vậy mà thiếu vitamin
A cũng là một nguyên nhân gây ra các bệnh đường hô hấp.
1.1.4. Tác hại của bệnh đường hơ hấp
Bệnh đường hơ hấp tuy là bệnh có thể chữa trị tại nhà và có thể tự khỏi
nhưng một trong các biến thể nghiêm trọng ấy là tử vong, do đồng nhiễm
bệnh đường hô hấp trên - dưới và chúng tự làm nặng lẫn nhau. Biến thể cũng
hay gặp đó là biến chứng viêm đường hơ hấp dưới nếu viêm đường hơ hấp
trên khơng được xử trí đúng đắn và đúng mức. Do đó, với một bệnh hết sức
thơng thường như cảm lạnh trong mùa đơng thì có thể đưa đến viêm phổi,
nhất là ở trẻ em. Ngoài những biến chứng này thì viêm đường hơ hấp trên thể
nặng, thể do vi khuẩn dễ gây ra những biến chứng cơ thể khác như viêm não,
viêm tim, viêm cầu thận, thấp khớp cấp.
Bên cạnh những biến chứng nguy hiểm đó thì khi mắc bệnh về đường
hơ hấp thường làm cho trẻ khó chịu, mệt mỏi, uể oải, li bì. Bệnh cịn gây ra
cho trẻ những tác hại vơ cùng nghiêm trọng như là trẻ không uống được hoặc
bỏ bú, làm cho trẻ bị thiếu hụt chất dinh dưỡng, khi không cung cấp đủ chất
dinh dưỡng thì sẽ làm cho trẻ không đủ sức đề kháng chống lại bệnh tật.
Khi bị các bệnh về đường hơ hấp thì cơ thể của trẻ có thể bị hạ nhiêt
độ, nhưng thơng thường vẫn là sốt cao. Trẻ bị sốt cao kéo dài hay nhiệt độ lên
quá cao nếu không được hạ sốt kịp thời thì sẽ dẫn đến tình trạng nặng hơn là
14
gây ra co giật. Khi trẻ đã phát co giật một lần rồi, thì lần sau chỉ cần trẻ bị sốt
lại sẽ nhanh chóng gây ra co giật và sẽ ảnh hưởng kéo dài đến trẻ.
Ngoài ra, khi mắc bệnh về đường hơ hấp cịn làm cho trẻ ngủ li bì, khó
đánh thức. Khi gọi trẻ dậy trẻ nghe thấy và mở hé mắt ra nhìn, sau đó lại tiếp
tục ngủ tiếp, khó có thể đánh thức dậy được.
1.1.5. Biểu hiện của bệnh đường hô hấp
Những biểu hiện của căn bệnh này rất đa dạng và mức độ nặng nhẹ
cũng tùy thuộc vào độ tuổi và cơ địa của trẻ. Tuy nhiên cha mẹ và giáo viên
mầm non có thể quan sát những triệu chứng ngay lúc bệnh mới bùng phát như
trẻ sốt cao, hắt hơi, sổ mũi, chảy mũi, ngạt mũi, tắc mũi, đau rát họng, ho,
khàn tiếng, lạc tiếng, giọng mũi, khản đặc có khi mất tiếng, mệt mỏi, đau đầu,
đau mỏi cơ khớp…. Sau đó, trẻ sẽ thở gấp, tình trạng tệ hơn có thể là lồng
ngực trẻ bị lõm vào khi hít thở. Nếu như khơng xử lý nhanh chóng thì dẫn đến
hơn mê, co giật và thậm chí trẻ tử vong.
Đặc điểm quan trọng của viêm đường hô hấp trên là thời gian ủ bệnh
ngắn, tốc độ biểu hiện bệnh nhanh và các biểu hiện mang tính ồ ạt. Chính vì
thế mà sốt trong các bệnh của viêm đường hô hấp trên thường là sốt cao và
thành cơn. Thân nhiệt thường là 39˚C trở lên. Đi kèm với sốt là hắt hơi, sổ
mũi, người bệnh hắt hơi nhiều hơn mức bình thường, có khi đến 4-5 cái/một
lần và xuất hiện nhiều lần trong ngày. Có khi hắt hơi đến rát cả mũi họng. Sau
đó người bệnh sẽ bị chảy dịch mũi với đặc điểm dịch nhiều, trong, lỗng,
khơng có mủ và khơng có mùi hơi. [6]
Bên cạnh những biểu hiện chung này, còn tùy thuộc vào từng bệnh
trong các nhóm bệnh về đường hơ hấp mà trẻ có các biểu hiện bệnh khác
nhau. Trong bệnh viêm tai giữa, trẻ có các biểu hiện bệnh khác ngồi những
biểu hiện chung trên. Trẻ có biểu hiện đau tai ngày càng tăng, đau sâu trong
tai theo nhịp đập của mạch, ù tai, chóng mặt, nghe kém. Nếu để bệnh biến
chyển nặng hơn sẽ gây ra các triệu chứng viêm tai. [3; tr.81]
Bên cạnh các triệu chứng bệnh lý tại đường hơ hấp, nhiều bệnh nhân có
bệnh lý hơ hấp lại có biểu hiện tồn thân như sốt, gầy sút; biểu hiện ở các cơ
15
quan, bộ phận khác, sau đó mới được phát hiện các bệnh hô hấp, chẳng hạn
bệnh nhân ung thư phổi có thể có biểu hiện ban đầu là đau xương, khớp, ngón
tay sưng to, hoặc đơi khi bệnh nhân đi khám vì đau đầu, liệt nửa người…
1.1.6. Cách chăm sóc cho trẻ khi mắc bệnh đường hô hấp
Khi trẻ mắc bệnh thường rất biến ăn nên cha mẹ phải lưu ý cho trẻ ăn
đủ các chất dinh dưỡng, cho trẻ ăn và bú nhiều lần trong ngày nếu như còn bú
mẹ. Nếu trẻ bị nghẹt mũi thì nhanh chóng làm thơng thống bằng cách nhỏ
dung dịch nước muối sinh lý. Ngoài ra, cha mẹ cần chú ý bổ sung nước cho
trẻ để cơ thể đủ sức chống lại bệnh tật. Tuyệt đối không tự ý dùng thuốc
kháng sinh cho trẻ nếu chưa có sự cho phép của bác sĩ. [6]
Khi trẻ mắc bệnh cha mẹ phải luôn túc trực bên cạnh để theo dõi trẻ.
Trường hợp phát hiện trẻ tím tái, thở dốc, và sốt hơn 39 độ thì phải hạ sốt cho
trẻ ngay. Tránh tình trạng để cho trẻ lên cơn co giật.
Trẻ mắc bệnh thường có những biểu hiện ra ngồi như ho, khị khè, đau
họng, sổ mũi,… cần vệ sinh sạch sẽ tai mũi họng cho trẻ, đồng thời có thể đưa
trẻ đi khám để cho trẻ sử dụng thuốc điều trị, và phải theo sự hướng dẫn của
thầy thuốc.
Cho trẻ uống đủ nước và ăn uống nhiều chất có vitamin C để tăng sức
đề kháng chống cự lại với bệnh tốt hơn.
Bệnh đường hô hấp ở trẻ nhỏ rất dễ bị tái phát nếu không được chăm
sóc kỹ lưỡng, chính vì vậy mà cha mẹ và giáo viên mầm non phải điều trị dứt
điểm bệnh cho trẻ.
1.1.7. Cách phịng bệnh đường hơ hấp
Trước tiên, các bậc cha mẹ cần giáo dục cho trẻ tự ý thức bảo vệ sức
khỏe để phịng bệnh đường hơ hấp cho chính bản thân mình. Để giữ được sức
khỏe trẻ cần ăn ngoan, ngủ ngoan, tập luyện thể dục, vệ sinh cơ thể hàng
ngày. Giữ cho đôi bàn tay luôn luôn sạch sẽ khi ăn uống sẽ loại trừ lượng vi
khuẩn, virut khỏi bàn tay và chúng sẽ khơng có cơ hội xâm nhập vào đường
hô hấp của trẻ.
16
Tuy rằng trẻ đã được giáo dục phần nào để bảo vệ sức khỏe, nhưng trẻ
chưa có đủ khả năng để có thể tự bảo vệ chính mình, nên cha mẹ phải là
người đầu tiên cần chăm sóc, bảo vệ cho trẻ bằng vệ sinh hàng ngày cho trẻ,
đặc biệt là vệ sinh tai mũi họng bằng nước muối sinh lí. Cần chú ý giữ ấm cho
trẻ vào ngày lạnh, thời tiết chuyển mùa và thống mát khi trời nóng. Tuy
nhiên, để trẻ đủ sức chống lại những vi khuẩn gây nhiễm khuẩn đường hô hấp
các bậc phụ huynh cần tăng cường sức đề kháng, hệ miễn dịch cho trẻ.
Môi trường xung quanh trẻ là một phần yếu tố thuận lợi cho vi khuẩn
và virut sâm nhập gây bệnh. Đặc biệt bệnh về đường hô hấp rất dễ lây lan từ
người này sang người khác, không cho trẻ đến trường khi đang mắc bệnh và
không đưa trẻ đến những nơi có mầm bệnh dễ xâm nhập như bệnh viện,
khơng để trẻ tiếp xúc với người đang có bệnh,... Bên cạnh đó cũng cần phải
giữ cho mơi trường sống của trẻ được sạch sẽ, thoáng mát, đồ dùng đồ chơi
của trẻ đảm bảo hợp vệ sinh, không dơ bẩn, chứa nhiều vi khuẩn. [7]
Có nhiều cách để cha mẹ tăng cường hệ miễn dịch cho trẻ như bổ sung
Vitamin C để ngăn ngừa cảm cúm, đẩy lùi các tế bào có hại ra ngoài tế bào
bạch cầu, phục hồi các tế bào bị tổn thương. Bổ sung vitamin A là một biện
pháp giúp trẻ tăng cường chức năng hệ thống miễn dịch, tăng khả năng chống
lại các virut của tế bào, tăng chức năng bảo vệ niêm mạc đường hơ hấp,…
Ngồi ra, cần bổ sung hai chất khống có hàm lượng nhỏ trong cở thể nhưng
rất quan trọng đó là Kẽm và Selen. Kẽm giúp cơ thể chống chọi với bệnh tật
do thúc đẩy tế bào miễn dịch hoạt động hiệu quả hơn. Selen là một chất giải
độc kỳ diệu loại bỏ các kim loại nặng độc hại khỏi cơ thể. Thiếu Selen làm
tổn thương chức năng miễn dịch, làm tăng nguy cơ mắc bệnh nhiễm khuẩn.
Vì vậy, cha mẹ cần bổ sung các thực phẩm giàu kẽm và selen giúp tăng cường
miễn dịch cho trẻ nhỏ, giúp trẻ phòng chống các bệnh đường hô hấp bằng các
thực phẩm như cá, hải sản, thịt gia cầm, đậu hạt… Và duy trì chế độ ăn uống
hợp lý đầy đủ các chất dinh dưỡng.
Trẻ nhỏ cần được bú hoàn toàn bằng sữa mẹ ngay từ lúc mới sinh cho
đến 6 tháng tuổi, sau đó tiếp tục cho bú càng lâu càng tốt và kèm theo ăn dặm
để tăng các chất dinh dưỡng cho trẻ. Trẻ cần được tiêm phòng đầy đủ các loại
17
vắc xin phịng các bệnh về đường hơ hấp như cúm,viêm phổi, viêm tai giữa,
…
Không chỉ người hút thuốc mới mắc các bệnh đường hơ hấp mà ngay cả
người hít phải khói thuốc là cũng đã có rất nhiều trường hợp mắc bệnh. Chính vì
vậy mà bậc cha mẹ phải bảo vệ sức khỏe cho con em mình bằng cách không hút
thuốc lá hay không cho trẻ đến gần nơi có khói thuốc lá, khi trẻ hít phải khói
thuốc lá có nguy cơ trẻ dễ bị cịi xương, viêm phổi, trí tuệ chậm phát triển, suy
dinh dưỡng.
1.2. Đặc điểm sinh lý của trẻ mầm non liên quan đến bệnh đường hô hấp
Sự hô hấp là một đặc trưng cơ bản của con người và động vật. Hô hấp
là hai động tác hít vào và thở ra, khơng khí từ bên ngồi vào phổi khi hít vào
và ngược lại khi thở ra. Q trình trao đổi khí giữa khơng khí và tế bào được
thực hiện gián tiếp qua sự trao đổi khí và máu.
Cơ thể chỉ có thể tồn tại và phát triển được khi được cung cấp các chất
dinh dưỡng và oxy, đồng thời thải ra ngoài các sản phẩm của q trình phân
hủy, trước hết là khí cacbonic do cơ quan hô hấp thực hiện. [5; tr.148]
Ngay khi lọt lịng chức năng sinh lý của trẻ đã được hình thành và dần
phát triển. hệ hô hấp của trẻ sơ sinh thực hiện chức năng thở ngay sau khi trẻ
được sinh ra, khi trẻ con khóc đó là lúc nó đang thực hiện một phản xạ khơng
điều kiện để có thể sống sót.
Cấu tạo của hệ hơ hấp gồm hai bộ phận chính là bộ phận dẫn khí và bộ
phận thở. Bộ phận dẫn khí gồm khoang mũi, thanh quản, khí quản, phế quản,
bộ phận thở hay cịn gọi là bộ phận hô hấp gồm hai lá phổi. [5; tr.148]
1.2.1. Khoang mũi
Khoang mũi là phần đầu tiên của hệ thống cơ quan hơ hấp. trong
khoang mũi có các lơng mũi, niêm mạc mũi với hệ thống mao mạch dày đặc
và các tuyến nhầy. [5; tr.148]
Ở trẻ sơ sinh khoang mũi và khoang hầu tương đối nhỏ và ngắn, nên
khơng khí vào mũi không được lọc sạch, sưởi ấm một cách đầy đủ. Niêm mạc
mũi mềm mại, có nhiều mạch máu. Tổ chức họng ít phát triển, ít bị chảy máu
18
cam, nhưng khi bị sổ mũi dễ gây tắc thở. Khả năng bảo vệ của lớp niêm mạc
mũi yếu, nên những kích thích tác động vào niêm mạc đều gây rối loạn nhịp
thở và hoạt động của hệ tim mạch. Mặc khác, các xoang mũi chưa phát triển
đầy đủ. Trẻ dưới một tuổi chưa có xoang trán, xoang hàm trên. Trẻ từ 12 tuổi
các xoang này mới phát triển. [5; tr.154]
1.2.2. Thanh quản
Thanh quản tiếp giáp với khoang mũi, nó là một liên kết sụn gồm sụn
nhẫn, sụn phiễu, sụn giáp và sụn thanh nhiệt (nhờ có sụn này mà thức ăn
không bị lọt vào đường hô hấp). Các sụn trên nối với nhau và với các bộ phận
khác bằng các dây chằng. Ngồi ra, trong thanh quản cịn có các cơ và dây
thanh âm. Các cơ thanh quản có tác dụng khép thanh môn, mở thanh môn và
làm căng dây thanh âm. Dây thanh âm có tác dụng phát ra âm thanh. Thanh
quản có chức năng dẫn khí và phát thanh âm. [5; 148]
Trẻ em dưới 6 -7 tuổi khe thanh âm ngắn, thanh đới ngắn nên trẻ có
giọng nói cao hơn. Từ 12 tuổi trở đi thanh đới của con trai dài hơn so với
thanh đới của con gái.
1.2.3. Khí quản
Khí quản tiếp theo thanh quản, nó là một ống trụ, gồm từ 16-20 vành
sụn hình móng ngựa (nghĩa là gồm những vịng sụn khơng đầy đủ, phần
khơng có sụn hướng về phía thực quản và xương sống để khí quản khỏi bị dẹp
và khơng cản các viên thức ăn di chuyển trong thực quản). Mặt trong của khí
quản có các tiêm mao và màng tiết dịch nhầy. Khí quản có chức năng lọc sạch
khơng khí và dẫn khí. [5; 149]
Trẻ dưới 4-5 tháng khí quản có hình phiễu, sau này biến đổi dần dần và
có hình trụ.
1.2.4. Phế quản
Phế quản tiếp theo khí quản, nó có hai nhánh: phế quản phải và phế
quản trái. Mỗi phế quản cùng với các động và tĩnh mạch, cũng như các tổ
chức thần kinh trên nó tạo thành cuống phổi. Phế quản có cấu tạo giống như
khí quản, nhưng các vịng sụn hồn tồn trịn. [5; 149]
19
Phế quản phải rộng và dốc hơn phế quản trái, vì vậy dị vật dễ rơi vào
khí quản phải.
1.2.5. Phổi
Phổi của trẻ em được lớn dần theo độ tuổi. Về khối lượng, ở trẻ sơ sinh
phổi kém phát triển, chỉ nặng 50-60g. Trẻ 6 tháng, phổi nặng gấp đôi, trẻ 1
tuổi phổi nặng gấp ba, trẻ 12 tuổi phổi nặng gấp 10 lần so với lúc mới đẻ.
Về thể tích của hai lá phổi: Ở trẻ sơ sinh thể tích của hai lá phổi là 70 cm³.
Trẻ 15 tuổi: tăng gấp 10 lần, người lớn thể tích này tăng gấp 20 lần so với lúc
mới đẻ.
Các tổ chức của phổi ở trẻ ít đàn hồi nên dễ bị xẹp phổi, giãn phế quản
nhỏ khi bị viêm phổi, ho gà. Phổi của trẻ giàu mao mạch nên diện tiếp xúc
giữa máu và khơng khí phế nang cũng tương đối lớn hơn ở người lớn. Điều
này phù hợp với cường độ trao đổi rất lớn của cơ thể trẻ đang trên đà phát
triển. [5; tr. 155]
Ở trẻ em màng phổi mỏng, dễ bị giãn khi hít vào sâu, hoặc khi bị tràn
khí, tràn dịch màng phổi.
CHƯƠNG 2. BIỆN PHÁP PHÒNG CÁC BỆNH HÔ HẤP CHO TRẺ Ở
TRƯỜNG MẦM NON A – THÀNH PHỐ HUẾ
2.1. Một số vấn đề chung về địa bàn nghiên cứu
( giới thiệu 1 chút về trường , số trẻ , gv nhân viên)
2.2. Thực trạng phòng các bệnh đường hô hấp cho trẻ ở trường mầm non
A – Thành Phố Huế
2.2.1. Nhận thức của giáo viên về tầm quan trọng của việc phịng bệnh hơ
hấp ở trẻ mầm non
Để có thể thấy được nhận thức của giáo viên về tầm quan trọng của việc
phịng bệnh đường hơ hấp cho trẻ, tôi đã tiến hành khảo sát các giáo viên để xin
ý kiến từ giáo viên. Kết quả sau khi khảo sát là tất cả các giáo viên điều cho rằng
việc phòng bệnh cho trẻ là một điều rất quan trọng, với tỉ lệ đạt được là 100%.
Có thể nói, đây là một điều rất quan trọng trong việc phịng bệnh cho trẻ, giáo
viên chỉ có thể phịng bệnh cho trẻ hiệu quả nhất khi cho rằng việc đó là một
việc làm rất cần thiết, còn nếu như cho rằng nó khơng cần thiết thì sẽ khơng bao
giờ thực hiên cơng tác phịng bệnh cho trẻ.
20
2.2.2. Nhận thức của giáo viên về các bệnh đường hô hấp ở trẻ mầm non
2.2.2.1. Những bệnh đường hô hấp hay gặp ở trẻ
Bảng 2.1: Nhận thức của giáo viên về những bệnh đường hô hấp hay gặp
ở trẻ
STT
Bệnh đường hô hấp
ĐTB
ĐLC
4.6
0.58
3.25
0.62
1
Bệnh viêm mũi (cảm lạnh)
2
Bệnh viêm Amidan
3
Bệnh viêm họng đỏ
3.2
1.05
4
Bệnh viêm tai giữa
2.3
1.26
5
Bệnh viêm thanh quản rít
0.91
6
Bệnh viêm phổi
2.6
3.25
7
Bệnh hen
3.25
0.82
Ghi chú: ĐTB: Điểm trung bình
0.94
ĐLC: Độ lệch chuẩn
Qua bảng 2.1 cho thấy được giáo viên của trường mầm non Anh Đào cho
rằng bệnh viêm mũi là bệnh hay xảy ra nhiều nhất với điểm trung bình cao nhất
trong tất cả các bệnh. Bệnh viêm mũi chính là bệnh hay gặp nhất khi trẻ mắc
bệnh đường hơ hấp, vì bệnh có tính chất lây lan nhanh, qua việc hắt hơi người
bệnh đưa virut gây bệnh sang cho người lành. Bệnh viêm Amidan, viêm phổi và
bệnh hen cũng được xem là bệnh hay xảy ra với điểm trung bình khá cao, các
bệnh này là các bệnh dễ mắc ở trẻ, bình quân mỗi năm trẻ mắc bệnh viêm phổi
được đưa đến điều trị tại các bệnh viện lớn xảy ra rất nhiều.
Bên cạnh đó, cũng có thể thấy được các giáo viên còn chưa nhận thức rõ
ràng về các bệnh đường hô hấp hay gặp ở trẻ qua điểm trung bình của các bệnh
được lựa chọn cịn thấp. Bệnh viêm tai giữa là một bệnh xảy ra nhiều nhất ở trẻ
nhỏ, do cấu trúc tai của trẻ chưa được hoàn thiện. Với kết quả thu được trên
đây, có thể nói do chưa có trường hợp trẻ nào mắc bệnh viêm tai giữa ở trường
mầm non A nên giáo viên chưa có sự quan tâm đến bệnh này.
Nhìn chung, các giáo viên đã nhận thức được các bệnh đường hô hấp
hay gặp ở trẻ, nhưng chưa được cao. Điều này có thể sẽ dẫn đến việc giáo
viên thiếu chủ động khi trẻ mắc bệnh và sẽ khó khăn để các giáo viên kịp thời
21
phối hợp với phụ huynh chữa trị cho trẻ, và có nguy cơ làm lây lan mầm bệnh
đến với các trẻ khác, và đưa đến những tác hại không đáng có cho trẻ và gia
đình.
2.2.2.2. Ngun nhân và yếu tố thuận lợi gây ra bệnh ở trẻ
Đối với các bệnh đường hơ hấp có rất nhiều ngun nhân và yếu tố
thuận lợi gây bệnh cho trẻ. Sau khi khảo sát tôi thấy được kết quả như sau:
Bảng 2.2: Nhận thức của giáo viên về nguyên nhân và yếu tố thuận lợi
gây ra bệnh đường hô hấp ở trẻ
ST Nguyên nhân và yếu tố thuận
T
lợi
Đúng
Không
biết
Sai
SL TL(% SL TL(% SL TL(%
)
)
)
1
Do vi khuẩn, virut
19
95%
0
0%
1
5%
2
Sức đề kháng, hệ miễn dịch 17
của trẻ yếu, Tinh thần suy
nhược, stress
Mơi trường sống ơ nhiễm, 16
nhiều khói bụi, hóa chất độc
hại
Trẻ thiếu vitamin A
8
85%
0
0%
3
15%
80%
0
0%
4
20%
40%
7
35%
5
25%
Hệ thống cơ quan hơ hấp của 14
trẻ chưa hồn thiện
Điều kiện thời tiết thay đổi 20
thất thường, trời lạnh
Trẻ có thể trạng kém: suy dinh 18
dưỡng, trẻ sinh non, trẻ nhẹ
cân sơ sinh…
70%
4
20%
2
10%
100% 0
0%
0
0%
90%
0%
2
10%
3
4
5
6
7
0
Từ bảng số liệu ta thấy đa số giáo viên trường mầm non Anh Đào đều
cho rằng yếu tố điều kiện thời tiết thay đổi thất thường, trời lạnh là ngun
nhân chính và chủ yếu gây ra bệnh đường hơ hấp ở trẻ (chiếm 100%). Điều
kiện khí hậu ở Thành Phố Huế thường xuyên thay đổi thất thường gây trở
ngại cho giáo viên trong cơng tác phịng bệnh cho trẻ, với điều kiện thuận lợi
này vi khuẩn và virut rất đễ dàng xâm nhập vào cơ thể của trẻ để gây bệnh.
Ngoài ra nguyên nhân do vi khuẩn và virut, với tỉ lệ khá cao (chiếm
95%), đây là nguyên nhân chủ yếu xảy ra bệnh đường hô hấp ở trẻ được các
22