Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Truyện ngắn đức hậu (từ văn hóa làng đến văn minh đô thị)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 95 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH

TRUYỆN NGẮN ĐỨC HẬU
(TỪ VĂN HÓA LÀNG ĐẾN VĂN MINH ĐƠ THỊ)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƠN NGỮ, VĂN HĨA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Thái Nguyên - 2021


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH

TRUYỆN NGẮN ĐỨC HẬU
(TỪ VĂN HÓA LÀNG ĐẾN VĂN MINH ĐÔ THỊ)

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã ngành: 822.0121

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƠN NGỮ, VĂN HĨA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Thị Việt Trung

Thái Nguyên - 2021




i

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả đƣợc nêu trong luận văn là trung thực và chƣa đƣợc ai cơng bố trong bất
kỳ cơng trình khoa học nào.

Thái Nguyên, ngày

tháng

năm 2021

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Mỹ Hạnh


ii

LỜI CẢM ƠN
Luận văn đƣợc hoàn thành là kết quả của q trình học tập, nghiên cứu lí
luận và tích lũy kinh nghiệm thực tế của tác giả. Những kiến thức quý báu mà
các thầy cô giáo truyền thụ, định hƣớng đã làm sáng tỏ những ý tƣởng, tƣ duy
của tác giả trong suốt quá trình thực hiện luận văn này.
Nhân dịp hồn thành luận văn, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn, kính trọng sâu
sắc tới PGS.TS. Trần Thị Việt Trung đã tận tình hƣớng dẫn, giúp đỡ tơi hồn
thành luận văn này.

Tơi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, các thầy cô giáo trƣờng Đại
học Khoa học – Đại học Thái Nguyên đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tơi
trong q trình học tập cũng nhƣ trong q trình thực hiện luận văn.
Cuối cùng tơi xin chân thành cảm ơn những ngƣời thân trong gia đình,
bạn bè đã động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện cho tơi hồn thành luận văn.
Thái Ngun, ngày

tháng

năm 2021

Học viên

Nguyễn Thị Mỹ Hạnh


iii

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................... 2
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu......................................................................... 4
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................... 5
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ..................................................................................... 5
6. Đóng góp mới của đề tài...................................................................................... 6
7. Bố cục ................................................................................................................ 7
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ........................... 8
1.1. Khái niệm văn hóa, văn minh trong cái nhìn đối sánh................................... 8
1.1.1. Khái niệm văn hóa ................................................................................... 8

1.1.2. Khái niệm văn minh trong cái nhìn đối sánh với văn hóa ....................... 9
1.1.3. Đơi nét về q trình vận động từ: Văn hóa làng xã đến văn minh đơ thị ở
Việt Nam .......................................................................................................... 10
1.2. Văn hóa làng và văn minh đô thị trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại ..... 14
1.2.1. Vài nét về thể loại truyện ngắn .............................................................. 14
1.2.2. Sự vận động từ “văn hóa làng” đến “văn minh đô thị” trong truyện ngắn
Việt Nam .......................................................................................................... 17
1.3. Cuộc đời và sáng tác của nhà văn Đức Hậu................................................. 25
1.3.1. Vài nét về nhà văn Đức Hậu .................................................................. 25
1.3.2. Khái quát về sự nghiệp văn chƣơng của Đức Hậu ................................ 26
1.3.3. Dấu ấn văn hóa làng xã trong văn chƣơng Đức Hậu ............................. 28
CHƢƠNG 2: HÌNH ẢNH CUỘC SỐNG VỚI Q TRÌNH VẬN ĐỘNG TỪ
“VĂN HỐ LÀNG ĐẾN VĂN MINH ĐÔ THỊ” TRONG TRUYỆN NGẮN
ĐỨC HẬU ........................................................................................................... 34
2.1. Truyện ngắn Đức Hậu với những hồi ức đẹp về văn hố làng .................... 34
2.1.1. Khơng gian làng q Bắc bộ trong truyện ngắn Đức Hậu ..................... 34


iv

2.1.2. Nếp sống quê truyền thống – những mảnh hồi ức đẹp lấp lánh trong
truyện ngắn Đức Hậu ....................................................................................... 45
2.2 Những nỗi niềm về q trình đơ thị hố làng quê thời hiện đại ................... 48
2.2.1. Khát vọng đổi mới, làm giàu quê hƣơng thời hiện đại .......................... 48
2.2.2. Mâu thuẫn giữa lối tƣ duy kiểu làng xã xƣa với lối tƣ duy mới trong q
trình hiện đại hóa nơng thôn ............................................................................ 53
CHƢƠNG 3: CON NGƢỜI LÀNG QUÊ TRONG QUÁ TRÌNH ĐƠ THỊ HỐ
– NỖI ÁM ẢNH TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA ĐỨC HẬU ........................ 58
3.1. Những con ngƣời làng quê với văn hố làng truyền thống trong cuộc sống
thời kì hiện đại ..................................................................................................... 58

3.1.1. Những ngƣời nông dân “chân quê” với vẻ đẹp truyền thống trong thời
hiện đại ............................................................................................................. 58
3.1.2. Những trí thức xuất thân từ làng quê trong thời hiện đại ...................... 65
3.2. Con ngƣời tha hoá trong quá trình đơ thị hố làng q ............................... 70
3.2.1. Những ngƣời nơng dân tha hóa .............................................................. 70
3.2.2. Sự tha hóa đạo đức của tầng lớp cán bộ, quan chức, vấn đề mâu thuẫn
đạo đức và quyền lực ....................................................................................... 75
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 84
PHỤ LỤC ............................................................................................................ 87


v

DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1 Những hình ảnh đặc trung của không gian thiên nhiên làng quê Bắc bộ
(trong truyện ngắn của Đức Hậu)........................................................................ 35
Bảng 2.2. Những hình ảnh đặc trƣng của khơng gian văn hóa làng q Bắc bộ
(trong truyện ngắn của Đức Hậu)........................................................................ 40
Bảng 3.1. Nhân vật ngƣời phụ nữ với vẻ đẹp truyền thống trong truyện ngắn
Đức Hậu............................................................................................................... 59
Bảng 3.2. Nhân vật ngƣời trí thức xuất thân từ làng ........................................... 65
trong truyện ngắn Đức Hậu ................................................................................. 65
Bảng 3.3 Nhân vật ngƣời nơng dân tha hóa trong truyện ngắn Đức Hậu ........... 71
Bảng 3.4 Nhân vật cán bộ, quan chức tha hóa trong truyện ngắn Đức Hậu ....... 75


1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Bên cạnh tiểu thuyết, truyện ngắn là một thể loại kết tinh thành tựu
của văn xi Việt Nam hiện đại. Trong dịng chảy văn học hiện đại Việt Nam,
chƣa bao giờ truyện ngắn nƣớc ta lại phong phú và đặc sắc nhƣ trong giai đoạn
hiện nay. Mỗi nhà văn mỗi phong cách đã góp phần tạo nên một diện mạo đa
dạng và đầy sức sống của truyện ngắn Việt Nam hiện đại. Tuy nhiên, bên cạnh
các cây bút truyện ngắn đã thực sự khẳng định đƣợc tài năng và có một vị trí
vững vàng trong nền văn học dân tộc và trong lịng cơng chúng, vẫn cịn khơng
ít tác giả mà mấy chục năm qua, vì lí do này khác, ít đƣợc nhắc đến hoặc chƣa
đƣợc nghiên cứu một cách toàn diện và đầy đủ. Một trong số nhà văn hiện đại ấy
là Đức Hậu.
1.2. Đức Hậu là một nhà văn tiêu biểu của văn học Thái Bình nói riêng, là
một cây bút có phong cách của văn xi Việt Nam đƣơng đại nói chung. Chính
vì vậy, văn chƣơng của Đức Hậu bƣớc đầu đƣợc một số nhà nghiên cứu, phê
bình và đồng nghiệp giới thiệu, bình luận, đánh giá ở những góc độ khác nhau
(về tác phẩm, tác giả và quá trình sáng tác của ơng) với những mức độ khác
nhau (nghiên cứu, giới thiệu, khái quát cụ thể …). Tuy nhiên, theo khảo sát bƣớc
đầu của chúng tơi thì cho tới nay vẫn chƣa có một cơng trình nghiên cứu một
cách hệ thống và thấu đáo về đặc điểm chung (hoặc đặc điểm nổi bật) trong
truyện ngắn – một thể loại đã đem lại cho ông những thành công đƣợc khẳng
định, một thể loại đã thể hiện đƣợc “sở trƣờng” cũng nhƣ tƣ tƣởng, phong cách
nghệ thuật của nhà văn trong q trình sáng tác (50 năm liên tục).
Chính vì vậy, chúng tôi đã lựa chọn những sáng tác thuộc thể loại truyện
ngắn của ông để làm đối tƣợng khảo sát, nghiên cứu; và đi sâu vào một đặc điểm
nổi bật, thể hiện rõ tƣ tƣởng nghệ thuật của nhà văn, đó là vấn đề: “Từ văn hố
làng q đến văn minh đô thị trong Truyện ngắn của Đức Hậu” để làm đề tài
nghiên cứu của mình.


2


1.3. Đức Hậu là một nhà văn tiêu biểu của Thái Bình, đồng thời cũng là
một cây bút văn xi đã đƣợc khẳng định trong đời sống văn xuôi Việt Nam.
Chính vì vậy, nếu đề tài đƣợc thực hiện thành cơng thì đây sẽ là một tài liệu có ý
nghĩa đối với việc giảng dạy và học địa phƣơng của tỉnh Thái Bình. Đồng thời,
tài liệu này cũng sẽ góp phần trong việc làm rõ, khẳng định những đặc điểm
riêng trong sáng tác (truyện ngắn), cũng nhƣ những đóng góp đáng đƣợc trân
trọng, khẳng định của nhà văn Đức Hậu đối với việc làm phong phú thêm đời
sống văn xuôi của đất nƣớc ta hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề
Qua khảo sát bƣớc đầu, chúng tôi đã đƣợc tiếp cận khoảng gần 20 bài
viết giới thiệu nghiên cứu của các nhà văn, nhà nghiên cứu phê bình về tác
giả Đức Hậu và tác phẩm của ông. Cụ thể nhƣ sau:
* Những bài viết nhận xét, đánh giá chung về sự nghiệp viết của nhà văn
Đức Hậu và sự nổi trội ở thể loại truyện ngắn trong quá trình sáng tác của ông.
Tác giả Văn Chinh trong bài: Đọc truyện ngắn chọn lọc Đức Hậu đã chỉ
ra một đặc điểm trong nghệ thuật truyện ngắn Đức Hậu: “Vấn đề, cái hay của
truyện ngắn nằm ở chỗ tác giả bẻ gập sự sống vốn trơi chảy tự nhiên và ln có
xu hướng bất tận, để bản chất của sự vật được bộc lộ đầy đủ và tất yếu tại cái
gút bẻ gập ấy. Đức Hậu là nhà văn làm chủ được thao tác bẻ gập, hành vi là
chủ quan nhưng ông đã làm nó thuần thục đến mức như tự nhiên khách quan”
(Báo Nông nghiệp Việt Nam, số 146, ngày 22.7.2004); và “Hai mươi truyện
ngắn chọn lọc in trong tập này (Một chút hồn sông núi) là bấy nhiêu cung bậc
hàm xúc tình người, thẩm định nhân cách và nhận thức tiến bộ của cá nhân một
cách tự nguyện, cao thượng… Nhà văn Đức Hậu không đa ngôn, xảo ngôn mà
bằng nghệ thuật ngơn từ để đạt được mục đích văn chương của mình: Chân –
Thiện – Mỹ và đặc biệt là tính nhân bản, giáo dục, hướng thiện” (Tạp chí Văn
nghệ Thái Bình – Số Xn Bính Tuất 2006). Có một số bài viết của một vài tác
giả khác nữa nhƣ: Đỗ Lâm Hà nhƣ: „Trí thức – Quyền lực – Nhân cách – Tình
yêu trong “Khúc giã biệt”; Đọc bài thơ “Đêm nghe hát trên sông Hương”…



3

Qua những bài nghiên cứu này, các tác giả đã phần nào chỉ ra những đặc điểm
trong về nội dung cũng nhƣ nghệ thuật và phong cách sáng tạo của nhà văn Đức
Hậu với những nhận định khá sâu sắc và chính xác. Tuy nhiên những nhận định
ấy chỉ dựa vào việc phân tích một vài tác phẩm cụ thể chứ chƣa đi vào nghiên
cứu một cách bao quát toàn bộ các truyện ngắn của nhà văn Đức Hậu.
* Những bài viết đi sâu vào phân tích nhận xét về một số những đặc điểm
truyện ngắn của Đức Hậu, nổi bật là một số bài viết của các tác giả: Đỗ Trọng
Khơi, Nguyễn Dƣơng Côn, Văn Chinh, Phạm Quang Trung, Đỗ Lâm Hà, Trần
Đức Hiền, Phạm Quang Khánh…
Trong bài viết Từ văn hóa làng đến văn minh đơ thị, Đỗ Trọng Khơi đã
phần nào làm sáng tỏ một số nét nghệ thuật truyện ngắn Đức Hậu “trong sự quy
nạp và triển khai từ đơi dịng khơng gian, thời gian nghệ thuật, cũng như về tinh
thần thời đại trong cái Tôi - nghệ thuật trong văn chương của ông”. Đỗ Trọng
Khơi cũng khẳng định: “Đức Hậu viết nhiều thể loại, tiểu thuyết, ký, thơ và
truyện ngắn. Thể loại ông viết thành công hơn cả là truyện ngắn.” (Báo Văn
Nghệ số 43, ngày 27-12-2012).
Đồng thời, có thể kể đến một số bài viết đã đƣa ra những nhận xét về
truyện ngắn cụ thể từ đó khái quát về phong cách của Đức Hậu nhƣ các bài viết:
Đức Hậu và truyện ngắn “Khúc giã biệt”; Đọc truyện ngắn “Ngài Công sứ của
Đức Hậu” của tác giả Phạm Quang Trung. Tác giả Quang Trung đã có một số
nhận xét tinh tế, chính xác nhƣ: “Khúc giã biệt nói với ta rất nhiều về phong
cách văn chương vừa ổn định vừa phát triển của Đức Hậu. Nó chứng tỏ bút lực
vẫn cịn dồi dào trong anh”, “Văn Đức Hậu thật dung dị mà cũng thật ám ảnh”,
“Tôi đặc biệt lưu ý tới lời đối thoại của các nhân vật trong truyện Đức Hậu.
Tính bao quát cao và tính hành động mạnh tạo nên sức gợi lớn của những đọan
đối thoại, phân tích khả năng đi sâu khám phá chính mình của Đức Hậu qua

truyện ngắn” (Tuần báo Văn Nghệ, số 11, ngày 12-3 -2005).
Bài viết Đọc một số truyện ngắn hay của nhà văn Đức Hậu, tác giả
Phạm Quang Khánh cũng đã chỉ ra một số đặc điểm nổi bật trong một số


4

truyện ngắn tiêu biểu của Đức Hậu.Tuy nhiên, đó cũng chỉ là những nhận
định khái quát, chƣa gắn với những khảo sát cụ thể và toàn diện về toàn bộ
truyện ngắn của nhà văn Đức Hậu…
Tóm lại, các bài viết nêu trên đã bƣớc đầu chỉ ra những đặc điểm và những
thành công trong các sáng tác ở thể loại truyện ngắn của nhà văn Đức Hậu. Đây là
những gợi mở q báu đối với chúng tơi trong q trình thực hiện luận văn này.
Chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống hơn về thể loại
truyện ngắn mang dấu ấn tƣ tƣởng của nhà văn ở mảng nội dung nổi trội nhất đó là:
“từ văn hố làng đến văn minh đơ thị” (nhƣ cách nói của nhà văn Đỗ Trọng Khơi
khi nhận xét về đặc điểm nội dung truyện ngắn của Đức Hậu).
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Khảo sát toàn bộ sáng tác của nhà văn Đức Hậu từ trƣớc đến nay (2019),
đặc biệt đi sâu vào nghiên cứu các tác phẩm truyện ngắn của nhà văn để phân
tích, làm rõ q trình vận động, chuyển hố trong cuộc sống và con ngƣời theo
xu hƣớng: từ văn hoá làng đến văn minh đơ thị (ở cả hai chiều: tích cực và tiêu
cực) trong thời kỳ hiện đại, đặc biệt giai đoạn từ sau Đổi mới đến nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tập trung nghiên cứu quá trình vận động, chuyển biến trong
cuộc sống và con ngƣời theo xu hƣớng từ văn hố làng đến văn minh đơ thị
trong 37 truyện ngắn của nhà văn Đức Hậu in trong cuốn Đức Hậu tuyển tập
xuất bản 2018, nhà xuất bản Hội Nhà văn.
- Bên cạnh đó, luận văn tiến hành khảo sát một số truyện ngắn của một số

tác giả khác cùng thời với nhà văn (để so sánh, đối chiếu, làm nổi bật những
đóng góp cũng nhƣ phong cách riêng của nhà văn Đức Hậu trong các sáng tác ở
thể loại truyện ngắn của ông).


5

4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Chỉ ra và làm rõ đặc điểm nổi bật về nội dung trong các truyện ngắn của nhà
văn Đức Hậu. Đó là việc phản ánh sinh động q trình vận động, chuyển hoá trong
cuộc sống và con ngƣời theo xu hƣớng: từ văn hố làng đến văn minh đơ thị (ở cả
hai chiều: tích cực và tiêu cực) trong thời kỳ hiện đại, đặc biệt giai đoạn từ sau Đổi
mới đến nay. Qua đó, khẳng định những đóng góp đáng trân trọng của nhà văn trong
việc phản ánh hiện thực cuộc sống và con ngƣời với cái nhìn đa chiều, trong q
trình vận động và phát triển của nó với những thăng trầm, với những khó khăn, thuận
lợi, với những “đƣợc – mất” trong suốt hơn nửa thế kỷ qua ở một vùng quê đồng
bằng Bắc Bộ.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến đề tài nghiên cứu (Khái
niệm văn hóa, văn hóa làng xã và đặc điểm của văn hóa làng xã Việt Nam; khái niệm
văn minh và quá trình vận động từ văn hóa làng xã đến văn minh đô thị ở xã hội Việt
Nam; khái niệm và đặc điểm truyện ngắn; dấu ấn văn hóa làng xã và sự vận động từ
văn hóa làng đến văn minh đơ thị đƣợc thể hiện trong truyện ngắn Việt Nam; Tìm
hiểu về nhà văn Đức Hậu và dấu ấn văn hóa làng xã trong truyện ngắn của ơng…)
- Phân tích, làm rõ quá trình vận động, chuyển biến mạnh mẽ và dữ dội trong
cuộc sống và trong con ngƣời ở một vùng quê đồng bằng Bắc Bộ vốn giàu bản sắc
văn hoá theo xu hƣớng: từ văn hoá làng đến văn minh đô thị với những thành tựu,
những đƣợc - mất khôn lƣờng trong truyện ngắn của nhà văn Đức Hậu. Từ đó chỉ ra
đƣợc tƣ tƣởng nghệ thuật, phong cách nghệ thuật của tác giả, cũng nhƣ giá trị nhân

văn sâu sắc trong các sáng tác của nhà văn.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sẽ sử dụng một số phƣơng pháp nghiên
cứu sau:


6

5.1. Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành: Nghiên cứu, tìm hiểu sự nghiệp
sáng tác của nhà văn Đức Hậu, cụ thể là những sáng tác thuộc thể loại truyện ngắn
của ông trong mối tƣơng quan với những vấn đề văn hố làng xã, sự biến đổi của văn
hóa làng, văn minh đô thị, những vấn đề về lịch sử – xã hội đang diễn ra ở vùng
đồng bằng Bắc bộ... Qua đó, tác giả luận văn có đƣợc những cơ sở lý luận, thực tiễn
để tiến hành triển khai nghiên cứu vấn đề “Sự vận động từ văn hóa làng đến văn
minh đô thị trong truyện ngắn Đức Hậu”.
5.2. Phƣơng pháp phân tích tác phẩm theo đặc trƣng thể loại (theo đặc trƣng
thể loại truyện ngắn): Vận dụng phƣơng pháp này giúp ta tìm ra những vấn đề nội
dung tƣ tƣởng cơ bản của các tác phẩm, tìm ra những vấn đề có liên quan đến đề tài
nghiên cứu.
5.3. Vận dụng một số thao tác nghiên cứu của Thi pháp học: Phƣơng pháp
này giúp ta nghiên cứu các vấn đề liên quan đến hình thức nghệ thuật, hệ thống các
phƣơng diện của hình thức nghệ thuật và nội dung của tác phẩm.
5.4. Phƣơng pháp thống kê, phân loại: nhằm phát hiện, thống kê, phân loại
những chi tiết, hình ảnh, nhân vật có tính lặp lại, điển hình, nổi bật để tìm ra những
vấn đề có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
5.5. Phƣơng pháp so sánh: Thực hiện phƣơng pháp này để thấy đƣợc sự tƣơng
đồng cũng nhƣ sự khác nhau của những vấn đề có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
6. Đóng góp mới của đề tài
Luận văn là cơng trình nghiên cứu một cách khá hệ thống và toàn diện về
một số đặc điểm nổi bật trong nội dung truyện ngắn của nhà văn Đức Hậu, đó là:

nghiên cứu về quá trình vận động, chuyển biến theo xu hƣớng “Từ văn hố làng
đến văn minh đơ thị” trong cuộc sống và con ngƣời ở một vùng quê đồng bằng
Bắc Bộ trong thời kỳ hiện đại, đặc biệt là giai đoạn từ sau Đổi mới đến nay. Qua
đó, khẳng định tài năng và tâm huyết của nhà văn trong việc phản ánh hiện thực
cuộc sống với sự vận động hết sức phong phú, phức tạp của nó – với một cái
nhìn đa chiều, đa góc cạnh của một ngƣời từng trải, yêu quê hƣơng, tha thiết với


7

những giá trị văn hoá truyền thống của quê hƣơng cùng với những khát vọng đổi
mới, vƣơn lên một cuộc sống văn minh, hiện đại. Bên cạnh đó là những nỗi lo
lắng, quan ngại sâu sắc của tác giả về những thay đổi theo hƣớng tiêu cực trong
cuộc sống và con ngƣời (trên phƣơng diện văn hoá và đạo đức xã hội) trong quá
trình vận động, đi lên theo hƣớng đơ thị hố, hiện đại hố nơng thơn ngày càng
mạnh mẽ, quyết liệt trong từng giai đoạn lịch sử của đất nƣớc (kể từ sau năm
1945 cho tới nay).
7. Bố cục
Ngồi phần mở đầu, kết luận, phần nội dung chính của luận văn gồm 3 chƣơng:
- Chƣơng 1: Cơ sở lý luận, thực tiễn của đề tài
- Chƣơng 2: Hình ảnh cuộc sống với quá trình vận động từ “văn hố làng
đến văn minh đơ thị” trong truyện ngắn của Đức Hậu
- Chƣơng 3: Con ngƣời làng quê trong quá trình đơ thị hố – nỗi ám ảnh
trong truyện ngắn của Đức Hậu


8

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Khái niệm văn hóa, văn minh trong cái nhìn đối sánh

1.1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa là một phạm trù quen thuộc, nhƣng để hiểu và ứng dụng thuật
ngữ này vào cơng tác nghiên cứu thì cần phải có sự tìm hiểu nghiêm túc, thận
trọng. Bởi đến nay, khái niệm “văn hóa” đã có nhiều định nghĩa với những ý
nghĩa nội hàm khác nhau xuất hiện.
Trong thƣ tịch cổ Trung hoa có đề cập đến phạm trù văn hóa “Quan hồ
nhân văn dĩ hóa thành thiên hạ” (Xem dáng vẻ con ngƣời, lấy đó mà giáo hóa).
“văn” là vẻ đẹp, “hóa” tức làm biến đổi. Văn hóa tức là biến đổi theo cái đẹp.
Văn hóa gắn với phạm trù giáo dục và mang chức năng điều chỉnh xã hội.
E.B Taylor định nghĩa văn hóa gắn với yếu tố trình độ phát triển xã hội,
ơng cho rằng “Văn hóa là tồn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ
thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, những khả năng và tập quán khác mà con
người có được với tư cách là thành viên của xã hội” [40; tr.18].
Theo định nghĩa của tổ chức UNESCO, “văn hóa là tập hợp các đặc
trưng tiêu biểu về tinh thần, vật chất, tri thức và xúc cảm của xã hội hoặc một
nhóm người trong xã hội; văn hóa khơng chỉ bao gồm văn học và nghệ thuật,
mà còn cả phong cách sống, phương thức chung sống, các hệ giá trị, truyền
thống và niềm tin” (UNESCO, 2001).
Trong cuốn Từ điển từ Hán Việt, Phan Văn Các cũng đã đƣa ra định
nghĩa về văn hóa khá gần gũi với định nghĩa về văn hóa của tổ chức UNESCO
“Văn hóa là tồn bộ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra
nhằm phụ vụ nhu cầu của con người (như trình độ sản xuất khoa học, văn học –
nghệ thuật, nếp sống, đạo đức, tập quán…” [2; tr.462].
Nhìn chung, các định nghĩa trên đã tiếp cận văn hóa khá đầy đủ ở các khía
cạnh: tính lịch sử, tính giá trị, tính nhân sinh… Tuy nhiên ở một phƣơng diện


9

nào đó, các nhà nghiên cứu mới chỉ nhìn nhận văn hóa nhƣ một phép cộng đơn

thuần của những tri thức bộ phận mà chƣa đề cập đến tính hệ thống – một trong
những đặc trƣng quan trọng của văn hóa. Bởi xét cho cùng: mọi hiện tƣợng, sự
kiện của nền văn hóa đều có mối liên hệ mật thiết với nhau và mối quan hệ biện
chứng với môi trƣờng tự nhiên, xã hội. “Nhờ có tính hệ thống mà văn hóa, với
tư cách là một hiện tượng bao trùm mọi hoạt động của xã hội thực hiện chức
năng tổ chức xã hội” [34; tr.21].
Tiếp thu các cách hiểu, định nghĩa của các nhà nghiên cứu về văn hóa,
đặt trong cái nhìn mang tính hệ thống, tác giả Trần Ngọc Thêm đƣa ra định
nghĩa có tính bao qt về văn hóa: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá
trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua q trình
hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự
nhiên và xã hội” [34; tr.25].
Chúng tôi đã vận dụng những định nghĩa trên (ở những khía cạnh phù
hợp) để làm cơ sở lý luận trong quá trình thực hiện luận văn của mình.
1.1.2. Khái niệm văn minh trong cái nhìn đối sánh với văn hóa
Văn minh (civilisation) với nghĩa gốc chỉ đô thị, thành phố. Văn minh là
một khái niệm khá gần gũi với khái niệm văn hóa. Thậm chí, lâu nay nhiều học
giả sử dụng nhƣ một từ đồng nghĩa. Tuy nhiên, nhìn nhận một cách thấu đáo,
nhà nghiên cứu Likhachov cho rằng văn minh và văn hóa có liên quan mật thiết
đến nhau nhƣng khơng đồng nhất: “Văn hóa giàu tính nhân bản, nó hướng tới
những giá trị mn thuở; trong khi đó văn minh hướng đến sự hợp lý, sắp đặt
cuộc sống sao cho tiên lợi” [34; tr.25]. Đồng quan điểm với Likhachov, Trần
Ngọc Thêm cho rằng “Văn minh (Văn = vẻ đẹp, minh = sáng) là khái niệm
mang tính quốc tế, có nguồn gốc phương Tây đơ thị và chỉ trình độ phát triển
nhất định của văn hóa chủ yếu về phương diện vật chất” [34; tr.27]. Giáo sƣ
Trần Quốc Vƣợng cũng khẳng định: “Văn minh là trình độ phát triển nhất định


10


của văn hóa về phương diện vật chất, đặc trưng của một khu vực rộng lớn, một
thời đại hoặc cả nhân loại” [40; tr.19]...
Chúng tôi nhận thấy, từ những quan niệm, những nhận định trên, về bản
chất, các nhà nghiên cứu văn hóa chỉ ra văn minh và văn hóa đƣợc phân biệt ở
các phƣơng diện: Văn hóa và văn minh phân biệt nhau ở tính giá trị. Trong khi
văn hóa mang tính bao trùm cả giá trị vật chất và tinh thần thì văn minh có
khuynh hƣớng thiên về tính vật chất. Thứ hai, về tính lịch sử, trong khi văn hóa
là sự tích hợp các giá trị vật chất, tinh thần có bề dày lịch sử, quá khứ đến hiện
tại thì văn minh chỉ bao hàm những giá trị mang tính thời đại, là một lát cắt đồng
đại, chỉ một trình độ phát triển của văn hóa ở một giai đoạn nhất định trong lịch
sử. Thứ ba là sự khác biệt mang tính phạm vi, văn hóa mang tính dân tộc cịn
văn minh mang tính quốc tế. Với cách hiểu này, chúng tơi sẽ có sự vận dụng
hợp lý để lý giải một số vấn đề đƣợc đề cập trong luận văn.
1.1.3. Đơi nét về q trình vận động từ: Văn hóa làng xã đến văn minh đơ thị
ở Việt Nam
1.1.3.1. Văn hóa làng xã ở Việt Nam
Làng là một mơ hình tổ chức xã hội nơng nghiệp tiểu nơng tự túc. Mơ
hình tổ chức này xuất hiện khi công xã thị tộc tan rã và chuyển sang mơ hình
cơng xã nơng thơn. Theo Trần Quốc Vƣợng “Làng được hình thành, tổ chức chủ
yếu dựa vào hai nguyên lí cội nguồn và cùng chỗ” [40; tr.45]. Các thành viên
trong làng khơng chỉ gắn bó với nhau bằng quan hệ huyết thống mà cịn gắn bó
bằng quan hệ sản xuất. Về mặt hành chính, làng là đơn vị hành chính thấp nhất
thời phong kiến. Làng cũng có thể đƣợc gọi là xã, hoặc một xã cũng có thể gồm
nhiều làng. Trần Ngọc Thêm cho rằng, “Làng xã được tổ chức chặt chẽ; nó
chính là mơi trường sống, là tập thể cộng đồng chủ yếu của con người Việt
Nam” [34; tr.201]...
Các nhà nghiên cứu văn hóa đã chỉ ra tính cộng đồng và tính tự trị là hai
đặc trƣng nổi bật nhất của mơ hình văn hóa làng xã Việt Nam. Hai đặc trƣng này



11

tồn tại song song nhƣ hai mặt của một vấn đề. Từ đó làm nảy sinh những yếu tố
tích cực và cả yếu tố tiêu cực trong tính cách văn hóa con ngƣời Việt Nam.
Do phát triển trên cơ sở nền nông nghiệp lúa nƣớc, phụ thuộc vào những
biến thiên của môi trƣờng tự nhiên, các thành viên trong cộng đồng làng có xu
hƣớng liên kết chặt chẽ với nhau để đối phó với thiên nhiên, cũng nhƣ để đối
phó với môi trƣờng xã hội nhƣ nạn trộm cắp, cƣớp bóc, giặc giã... Điều này hình
thành tính cộng đồng cao trong văn hóa làng xã Việt. Biểu tƣợng truyền thống
của tính cộng đồng trong văn hóa làng xã là “sân đình - Bến nước - cây đa, quán
nước” – là những không gian sinh hoạt chung của cƣ dân sinh sống trong làng.
Làng nào cũng có Đình thờ Thành hồng làng. Đình là là trung tâm hành chính,
trung tâm sinh hoạt văn hóa cộng đồng, trung tâm về mặt tâm linh, tơn giáo.
Cộng đồng làng xã quan niệm hƣớng Đình, thế đất quyết định vận mệnh của cả
làng. Có thể nói, Đình là có một ý nghĩa vơ cũng quan trọng trong văn hóa làng
xã. Sau này, khi Nho giáo ngày càng thâm nhập sâu rộng, “Đình làng” trở thành
độc quyền của nam giới, của các giáp, của quan viên hàng xã còn “Bến nước cây đa, quán nước – giếng làng” trở thành không gian sinh hoạt cộng đồng của
đơng đảo dân cƣ trong làng.
Tính cộng đồng trong văn hóa làng xã là mầm mống của nếp sống dân
chủ, đề cao tinh thần tập thể, bình đẳng, đồn kết, tƣơng thân tƣơng ái “Bầu ơi
thương lấy bí cùng; Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” (Ca dao). Tuy
nhiên tính dân chủ, bình đẳng của văn hóa làng cũng kéo theo mặt trái của nó,
đó là thói dựa dẫm, ỷ lại “Lắm sãi khơng ai đóng cửa chùa” (Tục ngữ), và thói
đố kỵ, cào bằng “Xấu đều hơn tốt lỏi” (Tục ngữ) ... Lối tƣ duy nông nghiệp chủ
quan này dẫn đến khái niệm “giá trị” trở nên tƣơng đối. Điều này góp phần làm
nên những hạn chế, thủ tiêu sự phát triển của yếu tố cá nhân, một phần sẽ kéo
trùng sự phát triển xã hội.
Tính cộng đồng cao của tổ chức nơng thơn theo mơ hình làng xã “tạo nên
những tập thể làng xã khép kín mang tính tự trị: Các làng tồn tại khá biệt lập



12

với nhau và độc lập với triều đình phong kiến. Tính tự trị khẳng định sự độc lập
của làng xã, ít liên hệ với bên ngoài; làng nào biết làng ấy, mỗi làng là một
vương quốc khép kín” [34; tr.191]. Bởi vậy dân gian vẫn lƣu truyền “Phép vua
thua lệ làng”, “Ta về ta tắm ao ta; Dù trong dù đục, ao nhà vẫn hơn” (Ca dao)
… là nói về tính tự trị cao của văn hóa làng xã Việt Nam. Chính vì vậy, làng tuy
mộc mạc nhƣng lại có sức trƣờng tồn mãnh liệt, kẻ địch mạnh có thể chiếm
đƣợc nƣớc, chứ không bao giờ chiếm đƣợc làng, đặc biệt là “hồn cốt” của làng
xã Việt. Bởi làng Việt đã sớm hình thành yếu tố văn hóa làng ăn sâu vào tiềm
thức cộng đồng dân cƣ. Nếu nhƣ “Cây đa - bến nước - sân đình” là biểu tƣợng
của văn hóa cộng đồng làng xã, thì “lũy tre” lại là biểu tƣợng điển hình của tính
tự trị. Tính tự trị của văn hóa làng tạo nên lối sống tự lập, cần cù, bền bỉ, tính tự
cung tự cấp, duy trì sự ổn định của cộng đồng làng xã. Tuy nhiên, mặt khác tính
tự trị lại làm nảy sinh thói ích kỷ, óc bè phái, địa phƣơng, cục bộ. “Trống làng
nào làng đấy đánh, Thánh làng nào làng đấy thờ” (Tục ngữ) … Đồng thời, tính
tự trị cũng làm làm nảy sinh thói gia trƣởng mang tính cổ hủ: “Sống lâu lên lão
làng” … và nhiều khi đã trở thành rào cản cho sự phát triển xã hội.
Văn hóa vùng đồng bằng Bắc bộ với bề dày lịch sử hình thành và phát
triển là biểu hiện rõ nét nhất cho văn hóa làng xã Việt Nam. Từ bao đời nay, Văn
hóa làng đã ăn sâu vào tiềm thức nhân dân, đƣợc bảo tồn khá bền vững, biểu hiện
thông qua mọi mặt của đời sống xã hội (bao gồm cả mặc tích cực lẫn tiêu cực). Mỗi
một làng quê Việt, trải qua thăng trầm lịch sử đều đều hun đúc lên những đặc trƣng
văn hóa thể hiện qua các giá trị văn hoá vật chất: Ẩm thực, cảnh quan kiến trúc,
chợ làng, làng nghề truyền thống… và văn hoá tinh thần nhƣ: Tín ngƣỡng, phong
tục trong các gia đình, gia tộc, trong hƣơng ƣớc của làng, cùng các sinh hoạt văn
hóa tín ngƣỡng: Hội hè, lễ tết, cƣới xin, ma chay…
1.1.3.2. Sự vận động từ văn hóa làng đến văn minh đô thị ở Việt Nam
Văn minh đô thị là một khái niệm gắn liền với sự phát triển của các đô thị

và tầng lớp thị dân. Đô thị ở Việt Nam phát triển khá muộn, chậm và vẫn mang
đậm nét văn hóa nơng nghiệp.


13

Nếu nhƣ đô thị phƣơng Tây trƣớc hết là các trung tâm kinh tế với tầng lớp
thị dân đông đảo thì ở Việt Nam - các đơ thị phát triển sớm nhất lại là trung tâm
hành chính, chính trị quốc gia. Đến thế kỷ XVI, nƣớc ta có một đơ thị duy nhất,
đồng thời là kinh đô (Thăng Long – Kẻ Chợ). Từ thế kỷ XVI về sau mới xuất
hiện thêm một số đô thị nhỏ nhƣ Phố Hiến, Hội An … Về cơ bản, những đô thị
sơ khai này tính chất đơ thị yếu ớt, vẫn mang đậm tính chất văn hóa nơng
nghiệp, làng xã: “Ở nền văn hóa Việt Nam nông nghiệp trọng tĩnh, làng xã là
trung tâm, là sức mạnh, là tất cả, cho nên làng xã có quyền tự trị” [34; tr.222].
Văn hóa làng xã áp đảo, chi phối thƣờng xuyên và ăn sâu vào tâm thức cộng
đồng, tính cách văn hóa, lối sống. Vì thế, đơ thị Việt Nam đã hình thành lên một
kiểu tầng lớp thị dân nửa vời trong các đô thị của mình.
Đơ thị kiểu phƣơng Tây và văn minh đơ thị thực sự xuất hiện ở nƣớc ta
vào nửa sau thế kỷ XIX: “Quá trình giao lưu và tiếp xúc của văn hóa Việt Nam
và văn hóa phương Tây giai đoạn này khiến người Việt Nam thay đổi cấu trúc
lại nền văn hóa của mình, đi vào vịng quay của văn minh phương Tây giai đoạn
công nghiệp” [40; tr.61]. Về mặt văn hóa, q trình tiếp nhận, dung hợp văn
minh phƣơng Tây kết hợp văn hóa truyền thống tạo thành nền văn hóa Việt Nam
mới. Có thể nói, trong vịng hơn một thế kỷ, Việt Nam đã có bƣớc thay đổi khá
nhanh chóng theo hƣớng hiện đại hóa so với hành trình mƣời thế kỷ trƣớc đó.
Đặc biệt, khi đất nƣớc bƣớc vào thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa thì các đơ
thị và q trình đơ thị hóa đã diễn ra một cách mạnh mẽ cùng với sự xuất hiện
hàng loạt đô thị hiện đại ngay cả trong các khu vực dân cƣ nông nghiệp truyền
thống của đất nƣớc.
Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể, đơ thị Việt Nam ngày nay chịu sự chi

phối nhất định của văn hóa làng xã. Và tính tự trị mạnh mẽ của nền văn hóa
nơng nghiệp ấy “khơng chỉ kìm giữ… mà cịn chi phối cả đô thị, khiến đô thị
Việt ảnh hưởng của nơng thơn và mang tính nơng thơn rất đậm nét” [34; tr.223].
Điều này khiến cho trong lịng các đơ thị vẫn còn tồn tại những ốc đảo làng quê.


14

Q trình đơ thị hóa nơng thơn và nơng thơn hóa đơ thị vẫn diễn ra song song
đến tận ngày nay.
1.2. Văn hóa làng và văn minh đơ thị trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại
1.2.1. Vài nét về thể loại truyện ngắn
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, truyện ngắn đƣợc định nghĩa là “Tác
phẩm tự sự cỡ nhỏ. Nội dung thể loại của truyện ngắn bao trùm hầu hết các
phương diện của đời sống: đời tư, thế sự hay sử thi, nhưng cái độc đáo của nó
là ngắn gọn. Bởi truyện ngắn được viết ra để đọc liền một mạch, đọc một hơi
không nghỉ” [11; tr.370]. Tuy nhiên, dung lƣợng chƣa phải là đặc điểm chủ yếu
phân biệt truyện ngắn với các tác phẩm tự sự loại khác (các loại truyện kể dân
gian cũng có độ dài tƣơng đƣơng với truyện ngắn). Hình hài của truyện ngắn
hiện đại nhƣ ta thấy hiện nay là một kiểu tƣ duy mới, một cách nhìn cuộc đời,
một cách nắm bắt cuộc sống rất riêng, mang tính chất thể loại. “Truyện ngắn có
thể kể về cả một cuộc đời hay một đoạn đời, một sự kiện hay một chốc lát trong
cuộc sống nhân vật, nhưng cái nhìn chính của truyện ngắn khơng ở hệ thống sự
kiện, mà ở cái nhìn tự sự đối với cuộc đời… Tác giả truyện ngắn thường hướng
tới khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân
sinh hay đời sống tâm hồn con người. Chính vì vậy, truyện ngắn thường có ít
nhân vật, ít sự kiện phức tạp” [30; tr.397].
Về mặt đề tài, truyện ngắn đề cập mọi mặt của đời sống đời tƣ, thế sự
hay sử thi… tức là phạm vị bao trùm rộng. Tuy nhiên, nếu nhƣ tiểu thuyết nỗ
lực phản ánh bức tranh đời sống ở sự đầy đặn, tồn vẹn thì truyện ngắn lại tập

trung vào một hiện tƣợng, một nội dung có tính chất nổi cộm, điển hình, hay
một lát cắt của cuộc sống nhằm nêu bật một nét bản chất của vấn đề. Do đó,
truyện ngắn thƣờng ít nhân vật và các nhân vật thƣờng khơng nhắm đến tính
tồn vẹn mọi mặt trong tƣơng quan với hồn cản mà tập trung vào khía cạnh
nổi bật nhất, “là hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội
hay trạng thái tồn tại của con người” [11; tr.371]. Truyện ngắn có thời gian


15

và không gian của câu chuyện phụ thuộc vào ngƣời kể, mơi trƣờng, hồn
cảnh câu chuyện. Bởi truyện ngắn đƣợc lựa chọn ở những thời khắc hoặc
khơng gian có ý nghĩa dồn nén hiện thực, có ý nghĩa nhận thức đối với nhân
vật. Cốt truyện thƣờng đƣợc tổ chức trong một khn khổ thời gian, khơng
gian hạn chế, mục đích chính là nhận thức về một vấn đề mang tính giá trị,
sâu sắc mà nhà văn muốn thể hiện. Truyện ngắn thƣờng đƣợc kết cấu đơn
giản theo nguyên tắc tƣơng phản hoặc hồi tƣởng. Đôi khi truyện ngắn chỉ là
một khoảnh khắc trong cuộc sống. Truyện ngắn cho ngƣời đọc một cái nút,
một khúc mắc cần giải đáp. Cái nút đó càng ngày càng thắt lại đến đỉnh điểm
thì đột ngột đƣợc tháo ra.
Mặc dù truyện ngắn ra đời muộn so với tiểu thuyết và trải qua bao biến
cố thăng trầm của sự phát triển thể loại, ngày nay truyện ngắn đã chiếm lĩnh
đƣợc vị trí quan trọng trên văn đàn dân tộc. Trong thời đại công nghiệp, công
nghệ, khi con ngƣời ta khơng có đủ thời gian để sáng tác hoặc là để đọc và để
thẩm thấu những bộ tiểu thuyết đồ sộ nhƣ: Tây du kí, Tam quốc diễn nghĩa,
Thuỷ hử, Hồng Lâu mộng, Những người khốn khổ, Chiến tranh và hịa
bình, Sơng Đơng êm đềm.... nữa - thì truyện ngắn lại là thể loại đƣợc độc giả
đƣơng đại ƣu tiên lựa chọn. Truyện ngắn với tƣ cách là tác phẩm tự sự loại
nhỏ, đơn giản giúp “độc giả có thể đọc liền một mạch”. Dù là thể loại tự sự
loại nhỏ nhƣng nội dung của các tác phẩm thuộc thể loại truyện ngắn lại hàm

chứa những điều sâu sắc và khả năng truyền cảm cao. Raymond Carver - một
trong những bậc thầy truyện ngắn thế giới đã nói rằng: ngày nay “tác phẩm
hay nhất, tác phẩm hấp dẫn và thỏa mãn nhất về nhiêu mặt, thậm chí có lẽ tác
phẩm có cơ hội lớn nhất để trƣờng tồn, chính là tác phẩm đƣợc viết dƣới dạng
truyện ngắn”. Bên cạnh đó, truyện ngắn lại có thể gắn chặt với báo chí. Đây
là một lợi thế lớn, bởi hiện tại báo chí (kể cả báo điện tử) đang bùng nổ với
tốc độ chóng mặt. Ngƣời đọc quen và thích đọc truyện ngắn trong vài chục
phút hoặc trong một vài giờ. Và truyện ngắn còn là mảnh đất khá rộng rãi,


16

khoáng đạt, điều này tạo điều kiện hết sức thuận lợi để các cây bút trẻ khẳng
định tài năng và sức sáng tạo mới mẻ của mình trong lĩnh vực văn chƣơng.
Một điều dễ nhận thấy là: Lịch sử phát triển của nền văn học hiện đại
và đƣơng đại Việt Nam gắn liền với truyện ngắn. Thế kỉ XX, truyện ngắn
Việt Nam phát triển liên tục và vƣợt trội lên trên so với tất cả các thể loại, bắt
đầu từ những năm hai mƣơi đến năm 1945 với sự đóng góp của các cây bút:
Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Công Hoan, Thạch
Lam, Nam Cao, Kim Lân, Tơ Hồi, Bùi Hiển, Vũ Bằng... Sau Cánh mạng
Tháng Tám, truyện ngắn có vẻ nhƣ chững lại nhƣng vẫn chảy liên tục với tên
tuổi: Trần Đăng, Vũ Tú Nam, Nguyên Ngọc, Nguyễn Khải, Nguyễn Quang
Sáng, Vũ Thị Thƣờng, Lê Minh, Nguyễn Minh Châu... Khi các cuộc kháng
chiến chống Pháp, chống Mỹ kết thúc, truyện ngắn lại vƣợt lên các thể loại
khác, tỏ rõ sự ƣu việt của mình trong sự khám phá nghệ thuật đời sống. Nhất
là 1986 trở đi, truyện ngắn chiếm ƣu thế văn đàn, hằng ngày trên các báo và
các tạp chí có khá nhiều truyện ngắn đƣợc đăng tải, in ấn. Thực tế ấy đã kích
thích mạnh đến việc sáng tác, phê bình - lí luận về truyện ngắn những năm
gần đây. Nhiều cuộc thi sáng tác truyện ngắn đƣợc khởi xƣớng. Nhiều cuộc
Hội thảo đã đƣợc mở ra và nhiều ý kiến khác nhau, có khi trái ngƣợc nhau

cũng đã đƣợc dịp trình bày. Điều này chứng tỏ, truyện ngắn đang là thể loại
đƣợc các nhà văn quan tâm, nỗ lực cách tân vào bậc nhất. Nguyễn Huy Thiệp
với một loạt các truyện ngắn của mình đã từng tạo nên một cơn lốc trong đời
sống văn học nƣớc nhà hồi những năm 1990-2000. Không khí văn chƣơng
cũng đƣợc nóng lên bởi tên tuổi: Nguyễn Bình Phƣơng, Đỗ Hồng Diệu,
Nguyễn Ngọc Tƣ ... Mỗi nhà văn với một bút pháp riêng đã tạo nên “hiệu
ứng” truyện ngắn hay và đƣợc gắn với các tên gọi nhƣ: “bội thu”, “thăng
hoa", “đƣợc mùa”, “lên ngôi” … Điều đó chứng tỏ truyện ngắn đã đƣợc đổi
mới tồn diện, sâu sắc, có sức hấp dẫn mạnh mẽ thu hút và chinh phục ngƣời
đọc thời hiện đại – thời khoa học và công nghệ hôm nay.


17

Có thể nói, truyện ngắn là một thể loại văn học quan trọng của đời sống
văn học thời kỳ hiện đại và đƣơng đại. Ngày nay, thể loại truyện ngắn đã và
đang phát huy đƣợc ƣu thế và đóng góp không nhỏ vào thành tựu của văn học
Việt Nam thế kỉ XX, XXI.
1.2.2. Sự vận động từ “văn hóa làng” đến “văn minh đơ thị” trong truyện
ngắn Việt Nam
Văn hóa Việt Nam đƣợc hình thành trên cơ sở nền nơng nghiệp lúa
nƣớc phƣơng Đơng. Trong suốt tiến trình dựng làng, dựng nƣớc, mở rộng vào
đấu tranh bảo vệ bờ cõi của nhân dân ta, nhu cầu gắn kết cộng đồng để đấu
tranh với thiên tai, địch họa, với những hiểm họa từ nạn cƣớp bóc, chiến
tranh… đã giúp cộng đồng ngƣời Việt sớm hình thành nên tổ chức cộng đồng
làng xã và văn hóa làng xã. Những đặc trƣng cơ bản của văn hóa làng xã
nơng nghiệp lúa nƣớc là: Tính cộng đồng, tính tự trị. Những đặc trƣng cơ bản
này đã sớm ăn sâu vào mọi mặt đời sống cơng đồng xã hội, đời sống tinh
thần, tính cách văn hóa ngƣời Việt. Văn học với chức năng là tấm gƣơng
phản ánh đời sống, xã hội, do đó, văn hóa làng đã sớm để lại dấu ấn đậm nét

trong suốt tiến trình văn học dân tộc việt Nam, từ văn học dân gian, văn học
viết thời Trung đại, và cả nền văn học viết hiện đại và đƣơng đại.
Văn học dân gian là nhƣng sáng tác truyền miệng, ra đời gắn với đời
sống của nhân dân, là những sáng tác do chính những tập thể lao động hoặc
cá nhân tiêu biểu trong tập thể tạo nên để thể hiện tâm tƣ, tình cảm hết sức
hồn hậu, tự nhiên. Ví dụ nhƣ những câu ca dao:
“Anh đi anh nhớ quê nhà,
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương.
Nhớ ai dãi nắng dầm sương,
Nhớ ai tát nước bên đường hôm mai”
(Ca dao)


18

Rủ nhau ra tắm hồ sen,
Nước trong bóng mát, hương chen cạnh mình.
Cứ chi vườn ngọc, ao quỳnh,
Thơn q vẫn thú hữu tình xưa nay.
(Ca dao)
Do chính những ngƣời dân lao động sáng tác và diễn xƣớng trong quá
trình lao động sản xuất nên văn học dân gian với điển hình ca dao, dân ca, tục
ngữ, câu đối, các loại truyện dân gian (truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ
ngơn, truyện trạng…) là nơi thể hiện đậm nhất nét đặc trƣng của văn hóa làng xã
Việt trên phƣơng diện văn hóa, văn học dân tộc.
Văn học viết nƣớc ta ra đời từ khoảng thế kỷ X, trong suốt tiến trình vận
động, phát triển, văn học viết cũng là tấm gƣơng phản ánh diện mạo văn hóa dân
tộc và tiêu biểu là văn hóa làng xã Việt. Đó là những dấu ấn của hồn cốt dân tộc
trong thơ chữ Hán với những hình ảnh gần gũi, thân thiết, giản dị trong Quy
hứng của Nguyễn Trung Ngạn:

Phiên âm:

“Lão tang diệp lạc tàm phương tận,
Tảo đạo hoa hương giải chính phì.
Kiến thuyết tại gia bần diệc hảo,
Giang Nam tuy lạc, bất như quy”.

Dịch thơ:

“Dâu già lá rụng tằm vừa chín,
Lúa sớm đơm bơng cua béo ghê.
Nghe nói ở nhà nghèo vẫn tốt,
Dầu vui đất khách chẳng bằng về”.
(Quy hứng – Nguyễn Trung Ngạn)


×