Tr-ờng đại học vinh
Khoa ngữ văn
=== ===
lê thị hồng nhung
tìm hiểu phần ngữ pháp
trong bộ sgk ngữ văn thpt
khóa luận tốt nghiệp đại học
Vinh, 2009
= =
Tr-ờng đại học vinh
Khoa ngữ văn
=== ===
Khóa luận tốt nghiệp đại học
tìm hiểu phần ngữ pháp
trong bộ sgk ngữ văn thpt
Chuyên ngành: ngôn ngữ
Giáo viên h-ớng dẫn:
TS. đặng l-u
Sinh viên thực hiện:
lê thị hồng nhung
Lớp:
46B2 - Văn
Vinh, 2009
= =
Lời nói đầu
Lời đầu tiên cho phép em đ-ợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy
cô giáo trong chuyên ngành ngôn ngữ cùng các thầy cô giáo Khoa Ngữ văn Tr-ờng Đại học Vinh, những ng-ời đà dạy dỗ, truyền đạt kiến thức và dìu dắt
em tr-ởng thành trong suốt khoa học vừa qua.
Đặc biệt, em xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới thầy - Tiến sĩ Đặng L-u,
ng-ời đà nhiệt tình h-ớng dẫn và dành nhiều công sức giúp em hoàn thành
tiểu luận này.
Do thời gian nghiên cứu có hạn nên kết quả đạt đ-ợc mới chỉ là b-ớc
đầu, khó tránh khỏi những thiếu sót. Vậy nên, em rất mong nhận đ-ợc các ý
kiến đóng góp của thầy cô cùng các bạn để đề tài ngày càng hoàn thiện hơn.
Vinh, tháng 4 năm 2009
Sinh viên
Lê ThÞ Hång Nhung
Mục lục
Trang
Mở đầu ......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................. 2
3. Đối t-ợng, nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu ......................................... 5
4. Ph-ơng pháp nghiên cứu ........................................................................... 6
5. Cấu trúc luận văn ....................................................................................... 6
Nội dung...................................................................................................... 7
Ch-ơng 1: Tổng quan về phần tiếng việt trong bộ sgk
ngữ văn thpt cơ bản ............................................................................. 7
1.1. Những quan điểm mới trong biên soạn SGK Ngữ văn ........................ 7
1.2. Vài nét về bộ sách Ngữ văn THPT cơ bản .......................................... 14
1.3. Phần tiếng Việt trong bộ SGK Ngữ văn THPT cơ bản...................... 19
Tiểu kết ........................................................................................................... 22
Ch-ơng 2: Nội dung phần ngữ pháp trong bộ sgk ngữ
văn thpt cơ bản .................................................................................... 24
2.1. Vị trí của phần ngữ pháp trong bộ SGK Ngữ văn THPT cơ bản ..... 24
2.2. Định h-ớng ch-ơng trình ..................................................................... 24
2.3. Tri thức trong các bài ngữ pháp .......................................................... 25
2.3.1. Những vấn đề lí thuyết về ngữ pháp ..................................................... 26
2.3.2. Những nội dung thực hành về ngữ pháp ............................................... 30
2.4. Tri thức ngữ pháp trong các bài có liên quan .................................... 33
2.4.1. Tri thức ngữ pháp trong loạt bài về các phong cách chức năng ........... 33
2.4.2. Tri thức ngữ pháp trong bài Những yêu cầu vỊ sư dơng tiÕng ViƯt ...... 37
2.4.3. Tri thøc ng÷ pháp trong bài Giữ gìn sự trong sáng của tiếng ViÖt ....... 39
2.4.4. Tri thức ngữ pháp trong Đọc - hiểu văn bản ........................................ 40
2.4.5. Tri thức ngữ pháp trong Làm văn ......................................................... 42
Tiểu kết ........................................................................................................... 44
Ch-ơng 3: Nhận xét về phần ngữ pháp trong bộ sgk
ngữ văn thpt cơ bản ........................................................................... 45
3.1. Về dung l-ợng, trọng tâm, tính khoa học của tri thức ngữ pháp ..... 45
3.2. Về tính hệ thống của tri thức ngữ pháp .............................................. 49
3.3. Về tính kế thừa và phát triển của tri thức ngữ pháp ......................... 50
3.4. Về khả năng vận dụng tri thức ngữ pháp ........................................... 51
TiĨu kÕt ........................................................................................................... 52
KÕt ln .................................................................................................... 53
Tµi liƯu tham kh¶o .............................................................................. 55
Khóa luận tốt nghiệp
1
Tr-ờng Đại học Vinh
Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Cũng nh- những bình diện khác (ngữ âm, từ vựng, phong cách),
ngữ pháp chiếm một vai trò không thể thay thế đ-ợc trong hệ thống ngôn ngữ.
Nó chi phối mạnh mẽ việc sử dụng các đơn vị ngôn ngữ để tạo thành lời nói,
làm cho ngôn ngữ thực hiện đ-ợc chức năng là công cụ giao tiếp trong đời
sống xà hội. Ngữ pháp cũng có vai trò quan trọng trong việc tổ chức hoạt động
tạo lập và lĩnh hội văn bản. Vì vậy, dạy ngữ pháp đà trở thành một nhiệm vụ
không thể thiếu trong nhà tr-ờng phổ thông.
1.2. ngữ pháp tiếng Việt đ-ợc dạy từ các líp cđa bËc tiĨu häc, qua c¸c
líp cđa Trung häc cơ sở và đến các lớp của Trung học phổ thông. Đi vào tìm
hiểu, ta thấy, ch-ơng trình ngữ pháp tiếng Việt ở tr-ờng Trung học phổ thông
tập trung vào phần cú pháp, nghĩa là phần ngữ pháp ở bậc câu. Các vấn đề thuộc
về từ pháp, từ loại và cụm từ đà đ-ợc giải quyết ở các lớp d-ới, nên không trực
tiếp đề cập đến trong nội dung ch-ơng trình, tuy rằng vẫn liên quan đến cú
pháp. Nh- vậy, đây là một trong những nội dung quan trọng của ch-ơng trình
tiếng Việt, đòi hỏi phải đ-ợc nghiên cứu kĩ l-ỡng từ nhiều góc độ.
1.3. ở sách giáo khoa Tiếng Việt THPT chỉnh lý hợp nhất năm 2000,
phần câu đ-ợc dạy một cách có hệ thống nh-ng lại nặng về tính hàn lâm, quá
coi trọng lý thuyết. Xu h-ớng dạy học tiếng mẹ đẻ hiện nay trên thế giới là
chú trọng h-ớng vào hoạt động giao tiếp, chú trọng mặt hành chức của ngôn
ngữ. Việc ra đời ch-ơng trình Ngữ văn THPT mới đáp ứng đ-ợc nhu cầu cấp
thiết đó.
Một trong những thay đổi quan trọng nhất của ch-ơng trình và sách
giáo khoa THPT môn Ngữ văn lần này là việc biên soạn hai bộ sách theo hai
mức độ khác nhau. Sách biên soạn theo ch-ơng trình chuẩn gọi là Ngữ văn cơ
bản, sách biên soạn theo ch-ơng trình nâng cao gọi là Ngữ văn nâng cao.
Trong đó sách Ngữ văn cơ bản đựơc xác định là mặt bằng kiến thức, dành cho
Sinh viên: Lê Thị Hồng Nhung
Lớp: 46B2 - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp
2
Tr-ờng Đại học Vinh
những học sinh thi tốt nghiệp THPT và đ-ợc sử dụng rộng rÃi trong các nhà
tr-ờng. Do công việc biên soạn lại SGK mới đ-ợc tiến hành, có nhiều đổi mới
về nội dung, thế nh-ng thời gian áp dụng vào thực tế dạy học còn ngắn, chắc
chắn nhiều vấn đề cần phải đ-ợc thảo luận, rút kinh nghiệm. Xuất phát từ
những lí do đó, chúng tôi chọn đề tài: Tìm hiểu phần ngữ pháp
trong bộ sách giáo khoa ngữ văn THPT cơ bản cho khóa luận
tốt nghiệp đại học của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Nhận thức đ-ợc vị trí quan trọng của môn Tiếng Việt trong nhà tr-ờng,
từ năm 1980 đến nay, phần ngữ pháp tiếng Việt đ-ợc đặc biệt coi trọng. Theo
đó đà xuất hiện nhiều bài viết bàn về vấn đề dạy ngữ pháp trong nhà tr-ờng,
cụ thể hơn là ở góc độ câu.
Trong bài Một số vấn đề dạy ngữ pháp ở nhà tr-ờng (in trong cuốn
Những vấn đề ngữ pháp tiếng Việt hiện đại), Lê Cận đà nghiên cứu ngữ pháp
theo quan điểm thực hành giao tiếp, d-ới ánh sáng của lý thuyết hoạt động lời
nói. Ông cho rằng: câu là trung tâm của ngữ pháp, đơn vị ngữ pháp mà sự liên
kết tạo nên văn bản phục vụ cho mục đích giao tiếp. Tác giả khẳng định: một
trong những vấn đề chủ yếu trong việc nghiên cứu câu là cấu trúc của câu và
chức năng của các thành phần tạo nên câu, trên cơ sở đó mà tìm hiểu chức
năng ngữ pháp trong câu tiếng Việt [18, tr. 50 - 56]. Nh- vậy, theo quan điểm
của Lê Cận, ngữ pháp cần dạy học ở nhà tr-ờng chủ yếu phục vụ cho mục
đích giao tiếp. Ông đà đặt việc dạy học ngữ pháp vào trong hoạt động hành
chức của nó.
Nhóm tác giả: Lê A - Nguyễn Quang Ninh - Bùi Minh Toán trong cuốn
Ph-ơng pháp dạy học tiếng Việt cũng quan tâm tới việc tìm hiểu vấn đề này.
Theo các tác giả, nội dung phần ngữ pháp trong ch-ơng trình và sách giáo
khoa Tiếng Việt ở Trung học phổ thông đề cập đến ba vấn đề ở bậc câu: cấu
tạo ngữ pháp, sự liên kết trong văn bản và bình diện ngữ nghĩa [1, tr. 126].
Sinh viên: Lê Thị Hồng Nhung
Lớp: 46B2 - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp
3
Tr-ờng Đại học Vinh
Có thể thấy: nhóm tác giả này đà đi vào ba mảng lớn trong phần ngữ
pháp ở bậc Trung học phổ thông. Nhìn chung, h-ớng nghiên cứu này rất sát
với ch-ơng trình và sách giáo khoa tiếng Việt.
Trong Sổ tay tiếng Việt phổ thông trung học, Đinh Trọng Lạc đà đề cập
đến nội dung phần ngữ pháp tiếng Việt theo h-ớng hệ thống hoá một cách
ngắn gọn các kiến thức cơ bản, để giúp các em học sinh phổ thông trung học
có tài liệu học tốt môn Tiếng Việt.
Tác giả đà cho chúng ta có một cái nhìn sơ giản, dễ hiểu về câu với các
ph-ơng diện nh-:
Định nghĩa câu
Thành phần câu
Phân loại câu (dựa vào cấu trúc và dựa vào mục đích nói
năng)
Các phép tu từ cú pháp:
- Phép liên kết
- Phép nối
- Phép lặp
- Phép thế
- Phép liên t-ởng
Ngữ nghĩa của câu:
- Phát ngôn
- ý nghĩa mệnh đề
- ý nghĩa tình thái
- Nghĩa hiển ngôn
- Tiền giả định
- Nghĩa hàm ngôn
[17, tr. 49-78].
Qua những gì nêu trên, có thể thấy: các nhà nghiên cứu đà có sự quan
tâm đúng mức tới vấn đề câu. Với h-ớng đi này, các tác giả đà chứng tỏ
đ-ợc vai trò của câu trong hoạt động giao tiếp xà hội. Tuy nhiên, đây là các
Sinh viên: Lê Thị Hồng Nhung
Lớp: 46B2 - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp
4
Tr-ờng Đại học Vinh
công trình nghiên cứu với SGK Tiếng Việt, còn với SGK Ngữ văn mới thì
vấn đề này ch-a đ-ợc tìm hiểu nhiều. Điều này đ-ợc lý giải bởi rất nhiều lý
do khác nhau:
Tr-ớc hết cần phải thấy rằng: ch-ơng trình và sách giáo khoa Ngữ
văn THPT còn mới. Nó mới chỉ đ-ợc hoàn chỉnh vào tháng 9 - 2008 khi bộ
sách giáo khoa Ngữ văn 12 xuất bản. Bởi vậy, ch-a có công trình nghiên
cứu nào đi sâu vào vấn đề nội dung phần ngữ pháp trong sách giáo khoa
Ngữ văn tích hợp.
Xung quanh ch-ơng trình Ngữ văn tích hợp đà có một số bài viết quan
tâm đến vấn đề nội dung phần ngữ pháp, nh-ng các tác giả mới chỉ quan tâm
đến những vấn đề có tính chất vĩ mô, còn những vấn đề cụ thể trong ch-ơng
trình lại ch-a đ-ợc nghiên cứu. Tuy nhiên, những bài viết khoa học d-ới góc
nhìn sơ thảo này đà tạo tiền đề cho những ng-ời nghiên cứu đi sau. Có thể kể
đến một số bài nghiên cứu sau:
Đặng L-u với bài viết: Để dạy học tốt phần Tiếng Việt trong sách giáo
khoa Ngữ văn THPT (bộ mới) trong Kỷ yếu hội thảo khoa học dạy ngữ văn ở
tr-ờng phổ thông theo ch-ơng trình và sách giáo khoa mới, đà đ-a ra một số
nhận xét về ch-ơng trình ngữ văn mới nói chung và phần Tiếng Việt nói riêng.
Theo tác giả: Sách Tiếng Việt thuộc chương trình cũ rất chú trọng đến tính hệ
thống của các vấn ®Ị trong néi bé mét cÊp ®é cịng nh- gi÷a các cấp độ ngôn
ngữ, trong khi điều này không đ-ợc chú ý nhiều ở ch-ơng trình và SGK Ngữ
văn 10 hiện hành [13, tr.167]. Tác giả cũng khẳng định thêm: Rất nhiều nội
dung có mặt trong SGK mới, thoạt nhìn có vẻ đơn giản, song xét kỹ chúng có
sự liên ®íi víi nh÷ng tri thøc, nh÷ng quan ®iĨm, thËm chÝ những tr-ờng phái
nghiên cứu chuyên ngành, không chỉ ở Việt Nam mà cả trên thế giới, bởi vì
chính những thành tựu về ngôn ngữ học và Việt ngữ học đà gãp phÇn chi phèi
viƯc lùa chän tri thøc tiÕng ViƯt trong xây dựng ch-ơng trình ngữ văn. Một ví
dụ: việc dạy tiếng Việt gắn với hoạt động giao tiếp chính là h-ớng đi phổ biến
trên thế giới hiện nay [13, tr. 169].
Sinh viên: Lê Thị Hồng Nhung
Lớp: 46B2 - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp
5
Tr-ờng Đại học Vinh
Lê H-ơng Giang trong bài Sách giáo khoa Ngữ văn 10 - đôi điều cảm
nhận, đà viết: Phần tiếng Việt và Làm văn được biên soạn theo hướng thực
hành. Tuy nhiên nếu so với mục tiêu cần đạt, thì thời l-ợng dành cho từng bài
thật khiêm tốn khó mà đạt đ-ợc yêu cầu bài học. Phần luyện tập vốn có vị trí
quan trọng trong các bài học tiếng Việt và Làm văn, trên thực tế giáo viên đều
phải l-ớt nhanh vì không đủ thời gian. Nếu giáo viên chọn một bài h-ớng dẫn
kỹ cho học sinh thực hành, thì cũng chỉ đạt đ-ợc một trong những yêu cầu của
bài học mà thôi [13, tr. 86].
Trong cuốn Tìm hiểu ch-ơng trình và sách giáo khoa Ngữ văn THPT,
Đỗ Ngọc Thống cũng đà đề cập đến những nội dung đổi mới của ch-ơng trình
Ngữ văn THPT nói chung và phần Tiếng Việt nói riêng. Tác giả khẳng định:
Chương trình Tiếng Việt hiện hành tuy đà có điều chỉnh nhưng vẫn khá nặng
nề. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhìn chung hiệu quả dạy học tiếng Việt
trong nhà tr-ờng còn thấp, năng lực sử dụng tiếng Việt của HS, kể cả sinh viên
đại học còn nhiều hạn chế. Ch-ơng trình ngữ văn mới đề cao phần Tiếng Việt
bằng cách coi trọng tính ứng dụng, vai trò và tác dụng của tiếng Việt trong
việc giúp HS đọc - hiểu và tạo lập văn bản. Tất cả các tri thức về từ vựng, ngữ
pháp, tu từ, văn bản, phong cách... đều đ-ợc gắn với việc đọc - hiểu văn bản,
qua đó mà ôn lại, củng cố hoặc nâng cao [37, tr. 12-13].
Có thể thấy: ch-ơng trình và SGK Ngữ văn THPT mới đ-ợc hoàn chỉnh,
nên các tác giả ch-a có điều kiện và thời gian để đi sâu nghiên cứu tìm hiểu
những nội dung cụ thể của phần ngữ pháp. Tr-ớc yêu cầu cấp bách của thực tiễn
dạy học, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài này để nghiên cứu. Mong rằng, công
trình của chúng tôi sẽ cung cấp một phần tài liệu giúp cho việc nâng cao chất
l-ợng dạy và học ngữ pháp tiếng Việt trong nhà tr-ờng phổ thông hiện nay.
3. Đối t-ợng, nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu
3.1. Đối t-ợng nghiên cứu
Luận văn sẽ tập trung khảo sát các bài về ngữ pháp trong bộ sách giáo
khoa Ngữ văn THPT thuộc ch-ơng trình cơ bản.
Sinh viên: Lê Thị Hồng Nhung
Lớp: 46B2 - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp
6
Tr-ờng Đại học Vinh
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.2.1. Đề tài này sẽ tiến hành tìm hiểu tổng quan về phần Tiếng Việt
trong bộ SGK Ngữ văn THPT cơ bản.
3.2.2. Tiến hành khảo sát, thống kê nội dung phần ngữ pháp trong bộ
sách giáo khoa Ngữ văn THPT cơ bản, qua đó, có cách nhìn đầy đủ, khoa học
về những kiến thức của phần ngữ pháp đ-ợc dạy học trong ch-ơng trình.
3.2.3. Đ-a ra những nhận xét về phần ngữ pháp trong bộ SGK Ngữ văn
cơ bản.
3.3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là chỉ ra những đặc điểm về nội dung
phần ngữ pháp trong bộ SGK Ngữ văn, giúp giáo viên và học sinh giải quyết
những v-ớng mắc có thể nảy sinh trong quá trình thực hiện ch-ơng trình mới.
4. Ph-ơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đà sử dụng các ph-ơng pháp nghiên
cứu sau:
Ph-ơng pháp khảo sát - thống kê - phân loại
Ph-ơng pháp so sánh đối chiếu
Ph-ơng pháp phân tích tổng hợp
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của luận văn đựơc triển khai ở
ba ch-ơng:
Ch-ơng 1: Tổng quan về phần Tiếng Việt trong bộ SGK Ngữ văn THPT cơ bản
Ch-ơng 2: Nội dung phần ngữ pháp trong bộ sgk ngữ văn thpt cơ bản
Ch-ơng 3: Nhận xét về phần ngữ pháp trong bộ sgk ngữ văn thpt cơ bản
Sau cùng là Tài liệu tham khảo.
Sinh viên: Lê Thị Hồng Nhung
Lớp: 46B2 - Ngữ văn
7
Khóa luận tốt nghiệp
Tr-ờng Đại học Vinh
Ch-ơng 1
tổng quan về phần tiếng việt
trong bộ sgk ngữ văn cơ bản
1.1. Những quan điểm mới trong biên soạn SGK Ngữ văn
1.1.1. Những yêu cầu về việc đổi mới ch-ơng trình và SGK Ngữ văn
Sau năm 1975, ch-ơng trình và SGK môn Văn - Tiếng Việt đ-ợc tiến
hành cải cách, từ năm 1980 cho đến 1992 đà xong một vòng. Trong 12 năm
ấy, sách giáo khoa THCS bắt đầu viết năm 1985 và mÃi đến năm 1999 (sau 10
năm) mới chỉnh lý. Sách THPT đ-ợc biên soạn từ năm 1990 cho đến năm
2000 (sau 10 năm) mới tiến hành hợp nhất 2 bộ sách làm một. Nh- thế, trong
vòng hàng chục năm, sách giáo khoa môn văn chỉ in tái bản chứ không phải
viết lại hoặc bổ sung, chỉnh lý. Nghĩa là không có gì thay đổi trừ 2 bài đối
với SGK Văn học lớp 12 đ-ợc biên soạn lại năm 1995 theo yêu cầu của cấp
trên. Tuy nhiên, SGK Văn - Tiếng Việt chỉnh lý THCS năm 1995 và SGK hợp
nhất THPT năm 2000 không khác tr-ớc là mấy. MÃi đến năm 2000 (sau 15
năm) ch-ơng trình Ngữ văn THCS mới thật sự có những thay đổi lớn. Sự đổi
mới ch-ơng trình và SGK mới của giáo dục phổ thông lần này là hoàn toàn
cần thiết, bởi những lý do cơ bản sau:
Thứ nhất, giai đoạn phát triển mới của đất n-ớc đòi hỏi đổi mới
ch-ơng trình giáo dục phổ thông. Đó là giai đoạn đất n-ớc b-ớc sang thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá; giai đoạn chuyển đổi từ cơ chÕ tËp trung bao
cÊp sang kinh tÕ cã sù chi phối của cơ chế thị tr-ờng; từ kinh tế nông nghiệp
sang kinh tế công nghiệp và kinh tế tri thức. Yếu tố quyết định cho sự thành
công của sự nghiệp ấy là con ng-ời. Vì vậy phải chăm lo phát triển con ng-ời.
Nhà tr-ờng phải thay đổi nội dung, ph-ơng pháp giáo dục để chuẩn bị cho xÃ
hội một lớp ng-ời lao động mới, có những năng lực và phẩm chất phù hợp với
yêu cầu của đất n-ớc trong thời kỳ mới.
Sinh viên: Lê Thị Hồng Nhung
Lớp: 46B2 - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp
8
Tr-ờng Đại học Vinh
Thứ hai, xu thế phát triển ch-ơng trình và đổi mới quan niệm về SGK
phổ thông của các n-ớc trong khu vực và trên thế giới buộc Việt Nam phải đổi
mới. Xu thế giáo dục ấy đà đ-ợc UNESCO đề x-ớng với bốn trụ cột: học để
biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình. Theo tinh
thần này, ch-ơng trình và SGK các n-ớc phát triển rất coi trọng thực hành, vận
dụng, nội dung tích hợp đ-ợc nhiều mặt. SGK trở thành tài liệu định h-ớng
cho học sinh tự tìm hiểu, tự học, tự phát hiện, tự chiếm lĩnh tri thức mới.
Thứ ba, ch-ơng trình và SGK hiện hành đà hoàn thành nhiệm vụ của giai
đoạn thống nhất hệ thống giáo dục phổ thông, song đến nay đà bộc lộ những
bất cập tr-ớc những yêu cầu mới về mục tiêu, nội dung và ph-ơng pháp.
Bộ SGK phổ thông (từ lớp 1 đến lớp 12) hiện hành đ-ợc biên soạn từ
những năm 1980 - 1981, có nhiều -u điểm nh-ng cũng khó tránh khỏi những
hạn chế, bất cập, nhất là đặt trong tình hình phát triển của xà hội hiện nay.
Cần khẩn tr-ơng soạn thảo, thực hiện ch-ơng trình, SGK mới theo Luật Giáo
dục (1998) và theo các nghị quyết của Quốc hội, Đảng, Nhà n-ớc để tạo nên
chất l-ợng mới cho giáo dục.
Ngoài ra còn có các lý do khác buộc phải đổi mới ch-ơng trình, SGK
môn Văn - Tiếng Việt.
Thứ nhất, đối t-ợng giáo dục đà thay đổi. Học sinh bậc THCS, THPT
những năm đầu thế kỉ XXI so với những năm 80 hoặc những năm tr-ớc nữa là
rất khác nhau. Do môi tr-ờng xà hội thay đổi, những tri thức và văn hoá phổ
thông hiện nay các em tiếp thu đ-ợc từ nguồn thông tin khác nhau rất cao, đa
dạng, phong phú hơn nhiều so với những năm tr-ớc đây, chính vì thế nhu cầu
của ng-ời học cũng rất khác tr-ớc. Thêm vào đó là các yếu tè thĨ chÊt, t©m
sinh lý løa ti cđa häc sinh đầu thế kỷ này cũng đà thay đổi; nhiều quan
niệm về lối sống, đạo đức, quan niệm về các giá trị tinh thần và vật chất của
học sinh cũng thay đổi...Nh- vậy, không thể không thay đổi nội dung, ph-ơng
pháp giáo dục một khi đối t-ợng giáo dục đà thay đổi.
Sinh viên: Lê Thị Hồng Nhung
Lớp: 46B2 - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp
9
Tr-ờng Đại học Vinh
Thứ hai, những năm gần đây, thành tựu nghiên cứu của ngành khoa học xÃ
hội nhân văn, của lí luận dạy học bộ môn trong nhà tr-ờng đà có nhiều đổi
mới. Những quan điểm và ph-ơng pháp nghiên cứu, ph-ơng pháp tiếp cận mới
đà đem đến cho khoa nghiên cứu văn học, phê bình văn học, lịch sử văn học,
ngôn ngữ học, Việt ngữ học... những sức sống mới. Nhiều thành tựu mới đ-ợc
khẳng định, nhiều giá trị cũ đ-ợc xem xét và đánh giá lại, không ít điều đà trở
nên bất cập, lạc hậu... cần loại bỏ. Ch-ơng trình và SGK phổ thông không thể
không tiếp cận với sự thay đổi mới.
Nh- vậy, vấn đề quan trọng nhất là ch-ơng trình và SGK Ngữ văn thay
đổi nh- thế nào chứ không phải có nên thay đổi hay không. Điều này sẽ đ-ợc
làm rõ khi đi vào tìm hiểu những quan điểm mới trong việc biên soạn SGK
Ngữ văn.
1.1.2. Những quan điểm mới trong biên soạn SGK Ngữ văn
Nh- chúng ta đà biết, ch-ơng trình và SGK Ngữ văn đ-ợc xây dựng trên
cơ sở kế thừa những thành tựu của ngành văn học, ngôn ngữ học, tâm lý học,
giáo dục học, các thành tựu khoa học khác... đặc biệt là thành tựu của ngành
ph-ơng pháp dạy học văn và tiếng mẹ đẻ theo những quan điểm mới về giáo
dục, nhằm h-ớng tới sự cập nhật với xu thế giáo dục hiện đại và những yêu
cầu cấp thiết của việc đào tạo nguồn nhân lực cho đất n-ớc trong những năm
đầu thế kỉ XXI. Điểm nổi bật trong việc biên soạn SGK Ngữ văn nói chung là
sự vận dụng hai quan điểm: tích hợp các nội dung học tập và tích cực hoá
hoạt động học tập của học sinh.
1.1.2.1. Tính tích hợp
Một đất n-ớc văn minh tiến bộ, tr-ớc hết đất n-ớc ấy phải có nền giáo
dục khoa học hiện đại và -u việt. ý thức đ-ợc vai trò quan trọng của giáo
dục trong việc đào tạo nhân tài, góp phần đẩy mạnh sự phát triển nền kinh tế
n-ớc nhà, mấy năm gần đây, n-ớc ta ®· cã sù ®ỉi míi vỊ néi dung, cịng nhph-ơng pháp, quan điểm giảng dạy trong nhà tr-ờng. Cùng với những bộ
Sinh viên: Lê Thị Hồng Nhung
Lớp: 46B2 - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp
10
Tr-ờng Đại học Vinh
môn khác, môn Ngữ văn có sự thay đổi lớn, trong đó quan điểm tích hợp
đ-ợc coi là thế mạnh và cũng là -u ®iĨm lín ®Ĩ gióp häc sinh hƯ thèng ho¸
kiÕn thøc một cách vững chắc. Đây cũng là một nét mới trong việc biên soạn
SGK Ngữ văn.
Hiểu một cách chung nhất, tích hợp là tạo ra mối quan hệ liên thông
giữa các phân môn bằng cách lựa chọn các đơn vị tri thức, các đơn vị bài học,
có thể phối hợp, t-ơng tác lẫn nhau một cách hiệu quả nhất. tích hợp đ-ợc
thực hiện theo hai dạng, đó là tích hợp theo chiều dọc và chiều ngang. Cụ thể:
+ Tích hợp theo chiều ngang là sự tích hợp thể hiện mối quan hệ, sự liên
thông giữa đơn vị tri thức ở bộ môn này với tri thức ở bộ môn khác. Theo quan
điểm này, các phân môn Tiếng Việt, Đọc - hiểu và Làm văn tr-ớc đây ít gắn
bó với nhau, nay được tập hợp xung quanh trục chủ điểm và các bài học.
Các nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn luyện kỹ năng cũng gắn bó chặt chẽ
với nhau hơn tr-ớc.
+ Tích hợp theo chiều dọc là sự tích hợp ở một đơn vị kiến thức và kỹ
năng mới với những kiến thức và kỹ năng đà học tr-ớc đó theo nguyên tắc
đồng tâm. Cụ thể: kiến thức và kỹ năng của lớp trên, bậc học trên bao hàm
kiến thức và kỹ năng của lớp học d-ới, bậc học d-ới nh-ng cao hơn và sâu
hơn. Đây là giải pháp củng cố và dần dần nâng cao kiến thức, kỹ năng của học
sinh, để các kiến thức và kỹ năng ấy thực sự là của mỗi ng-ời học, góp phần
hình thành ở các em những phẩm chất mới của nhân cách.
Có thể nói: tích hợp là một quan điểm s- phạm đà trở thành xu h-ớng
chung của nhiều n-ớc trên thế giới có nền giáo dục tiên tiến (Mĩ, Pháp, Trung
Quốc, Đức, Nhật...). Thực hiện quan điểm tích hợp trong việc biên soạn SGK
Ngữ văn là góp phần giải quyết những bài toán muôn thuở của giáo dục nh-:
mâu thuẫn giữa khối l-ợng khổng lồ của tri thức văn minh nhân loại đang
ngày một tăng lên vùn vụt và thời gian häc cđa häc sinh ngµy cµng Ýt do sù chi
phối bởi nhiều nhu cầu của cuộc sống hiện đại; mâu thuẫn giữa việc ng-ời học
Sinh viên: Lê Thị Hồng Nhung
Lớp: 46B2 - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp
11
Tr-ờng Đại học Vinh
không đ-ợc học thật sự mà ng-ời dạy học thay; mâu thuẫn giữa học (nhận
thức) và hành (hoạt động) của ng-ời học... Việc tích hợp trong biên soạn SGK
Ngữ văn đ-ợc thể hiện trên các ph-ơng diện cụ thể:
Thứ nhất là khâu tổ chức biên soạn: Quan điểm mới trong tổ chức biên
soạn SGK là tổ chức một đội ngũ các nhà khoa học có một tổng chủ biên, có
ba chủ biên phụ trách ba phân môn khác nhau (Đọc - hiểu, Tiếng Việt và
Làm văn).
Thứ hai là tên môn học đ-ợc thay đổi. Nh- chúng ta đà biết, môn học
này ở ch-ơng trình và SGK cũ có tên là Văn học - Tiếng Việt - Làm văn (tên
của ba phân môn ghép lại). T-ơng ứng với tên gọi trên là ba bộ sách: Văn học,
Tiếng Việt và Làm văn đ-ợc biên soạn một cách độc lập. Nay theo quan điểm
tích hợp, môn học này gọi là Ngữ văn và SGK đ-ợc biên soạn cũng chỉ còn
một cuốn, chung cho cả ba phân môn.
Thứ ba là sự gắn kết, phối hợp các lĩnh vực tri thức gần nhau của các
phân môn Văn, Tiếng Việt, Làm văn. Theo tinh thần này, mỗi phân môn Văn
học, Tiếng Việt, Làm văn chỉ là một hợp phần trong môn học Ngữ văn nh-ng
giữa chúng có mối liên hệ rất chặt chẽ, hỗ trợ cho nhau. Do vậy, sự sắp xếp
các bài học trong sách là một chuỗi liên tục, phối hợp cả ba hợp phần. Trong
đó, hợp phần văn học (phần đọc văn) cung cấp tri thức về lịch sử, thể loại và
các văn bản, tri thức về ph-ơng pháp đọc - hiểu. Còn hợp phần Tiếng Việt và
Làm văn giúp học sinh học và rèn luyện các năng lực biểu đạt, đặc biệt là các
năng lực nói và viết - năng lực sản sinh văn bản.
Có thể thấy, ở cả ba cấp học phổ thông, nội dung các bộ SGK đều bao
gồm ba phân môn: Tiếng Việt, Văn, Làm văn và đều đ-ợc biên soạn theo
quan điểm tích hợp. Tuy nhiên, tỉ lệ nội dung của ba phân môn cũng nh- mức
độ và cách thức tích hợp thì khác nhau. Đối với cấp tiểu học, học sinh tập
trung học tiếng Việt là chủ yếu, còn văn học chỉ làm ngữ liệu để dạy tiếng.
Nh- thế là đà dạy học theo quan điểm tích hợp, nh-ng trục tích hợp ở đây dựa
Sinh viên: Lê Thị Hồng Nhung
Lớp: 46B2 - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp
12
Tr-ờng Đại học Vinh
vào bốn kỹ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết. Lên cấp THCS, quan ®iĨm tÝch
hỵp vÉn ®-ỵc thùc hiƯn, nh-ng trơc tÝch hỵp là kiểu văn bản với các hình thức
cơ bản nh-: tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh, lập luận. Ngoài ra còn cung
cấp cho học sinh loại văn bản hành chính công vụ nh-: th- tín, biên bản, hợp
đồng, báo cáo... Đến cấp THPT, trục tích hợp là các thể loại tác phẩm đặt ra ở
từng giai đoạn của lịch sử văn học. Để đọc - hiểu tốt các tác phẩm, sách cung
cấp cho học sinh những công cụ giúp khám phá và tiếp nhận tốt các tác phẩm
văn ch-ơng theo các thể loại cụ thể của từng thời kỳ.
Đây là cách biên soạn SGK văn học của nhiều n-ớc. Cộng hoà Pháp
chẳng hạn: học sinh lớp 10 ở Pháp học năm thế kỷ văn học (từ thế kỷ XVI đến
thế kỷ XX), lên lớp 11 học lại 5 thế kỷ văn học ấy, nh-ng không trùng lặp, vì
mỗi lớp khai thác theo các thể loại tác phẩm khác nhau. Và để giúp học sinh,
SGK văn học của Pháp ®· cung cÊp cho häc sinh mét hƯ thèng c¸c công cụ
đọc - hiểu văn bản rất cơ bản và phong phú. Ví dụ, cũng là văn học thế kỷ
XVII nh-ng ở lớp 10 các tác phẩm đ-ợc lựa chọn để làm sáng tỏ cho các
phạm trù nh-: nghệ thuật Ba - rốc; ngôn ngữ và sáng tạo; văn lập luận; bi kịch;
thơ ngụ ngôn; chủ nghĩa cổ điển... Lên lớp 11, vẫn là văn học thế kỷ XVII
nh-ng các tác phẩm, tác giả lại đ-ợc lựa chọn để làm sáng tỏ cho các phạm trù
nh-: cách viết th- tín; nhân vật của tiểu thuyết. Cứ nh- thế mỗi thế kỷ văn
học, học sinh đ-ợc cung cấp một số phạm trù nh- là công cụ để khám phá tác
phẩm văn học của thế kỷ đó. Xem xét bộ SGK Văn học của Pháp, có thể thấy
các soạn giả đà rất chú ý đến việc hình thành và rèn luyện ph-ơng pháp học,
ph-ơng pháp đọc - hiểu và tiếp nhận tác phẩm cho học sinh [37, tr. 34-35].
Qua đây, có thể thấy rằng: biên soạn SGk theo quan điểm tích hợp sẽ
tạo điều kiện cho việc dạy học của giáo viên và học sinh. Bởi theo quan điểm
tích hợp, kiến thức của học sinh luôn đ-ợc củng cố. Ngay khi đang tiếp thu
kiến thức mới, học sinh vẫn đ-ợc nhắc lại kiến thức đà qua, kể cả những kiến
thức của bộ môn lẫn những kiến thức khác liên quan...
Sinh viên: Lê Thị Hồng Nhung
Lớp: 46B2 - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp
13
Tr-ờng Đại học Vinh
Xung quanh việc biên soạn SGK Ngữ văn theo quan điểm tích hợp đÃ
có rất nhiều ý kiến. Ông Vương Trí Nhàn cho rằng: Sách giáo khoa đà ngán
đến tận cổ (Văn nghệ trẻ 34, ngày 24/ 8/ 2008). Ông Hoàng Xuân Tuyền thì
Ngán cả ba thứ: Sách giáo khoa, Sách bài tập và cả Sách giáo viên
(Văn nghệ trẻ 39, ngày 28/ 9/ 2008). Tr-ớc đó, ông Hồ Ngọc Đại đà phản ứng
gay gắt: Tích hợp trong Ngữ văn là vớ vẩn. Đây là sự bắt ch-ớc mấy chị em
bán nước gội đầu 2 trong 1, 3 trong 1... Tôi cho tích hợp là hai chữ tệ
hại nhất, đấy là cách phá hoại giáo dục phổ thông hữu hiệu nhất. (Văn nghệ
trẻ 19 ngày 21/ 5/ 2008).
Các tác giả đà nghiêm trọng hoá vấn đề khá nhiều, và cách nhìn của
các ông còn có những phiến diện nhất định. Thiết nghĩ, cần phải có một cách
nhìn đúng đắn, mang tính khoa học khi nhận định về quan điểm mới này của
giáo dục phổ thông.
1.1.2.2. Tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh
Đây là một quan điểm có ý nghĩa quan trọng không chỉ riêng môn Ngữ
văn mà còn quan trọng với tất cả các môn học khác trong nhà tr-ờng phổ
thông các cấp. Quan điểm này đ-ợc cụ thể hoá ở một số điểm sau đây:
a) Học sinh đ-ợc coi là những đối t-ợng vốn có sẵn những tiềm năng
mà ng-ời giáo viên có nhiệm vụ đánh thức và tạo điều kiện để những tiềm
năng đó đ-ợc phát triển tối đa, đặc biệt là tiềm năng sáng tạo. Chính vì thế,
việc sắp xếp các nội dung học tập, cách xây dựng hệ thống câu hỏi bài tập
trong SGK Ngữ văn đ-ợc thực hiện theo cách tăng c-ờng tính chủ động sáng
tạo, rèn kỹ năng tự học ở ng-ời học, tạo điều kiện cho ng-ời dạy có thể thực
hiện đ-ợc vai trò tổ chức, dẫn dắt các hoạt động học tập ở ng-ời học.
b) Giáo viên khuyến khích học sinh tìm hiểu câu hỏi, không đ-a ra câu
trả lời tr-ớc. Không nên áp đặt một cách thô bạo, cứng nhắc kết quả hiểu và
cảm thụ của mình đối với học sinh. Tôn trọng, khuyến khích, động viên các
kết quả suy nghĩ và tìm tòi riêng, độc đáo của học sinh trong quá trình học
Sinh viên: Lê Thị Hồng Nhung
Lớp: 46B2 - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp
14
Tr-ờng Đại học Vinh
tập. Dù giờ ngữ hay giờ văn, không nên biến học sinh thành cái bình chứa để
giáo viên rót kiến thức vào. Bên cạnh đó, học sinh cũng phải tích cực trong
giờ học, không nên chỉ biết nghe, ghi, chấp nhận và làm theo mẫu một cách
thụ động.
Ví dụ: Trong bài Những yêu cầu về sử dụng tiếng Việt (Ngữ văn 10, tập
2), để làm rõ mục II (sử dụng hay, đạt hiệu quả giao tiếp cao), SGK đà đ-a ra
những câu hỏi để học sinh phải động nÃo. Chẳng hạn: trong câu tục ngữ
chết đứng còn hơn sống quỳ, các từ đứng và quỳ đ-ợc sử dụng theo nghĩa
nh- thế nào? Việc sử dụng nh- thế làm cho câu tục ngữ có tính hình t-ợng và
giá trị biểu cảm ra sao? Ví dụ: trong bài Đặc điểm loại hình của tiếng Việt
(Ngữ văn 11, tập 2), ở phần luyện tập có câu hỏi: Tìm một câu tiếng Anh
(hoặc tiếng Pháp, tiếng Nga...) đà học, đối chiếu với câu tự dịch ra tiếng Việt,
so sánh, phân tích để đi đến kết luận: tiếng Anh (hoặc tiếng Pháp, tiếng
Nga...) thuộc loại hình ngôn ngữ hoà kết, tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ
đơn lập.
Nh- vậy, quan điểm tích cực hoá hoạt động học tập đ-ợc phát huy trong
biên soạn SGK Ngữ văn chính là một cách để tăng c-ờng tính chủ động sáng
tạo của học sinh.
Việc biên soạn SGK Ngữ văn còn vận dụng một số quan điểm khác nhđổi mới kiểm tra đánh giá. Và việc tiến hành một cách đồng bộ giữa mục tiêu,
nội dung, ph-ơng pháp và kiểm tra, đánh giá là một trong những yêu cầu đổi
mới ch-ơng trình và SGK hiện nay. Qua đây có thể khẳng định rằng: SGK
Ngữ văn đà vận dụng những quan điểm mới trong việc biên soạn, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc dạy - học của giáo viên và học sinh.
1.2. Vài nét về bộ sách Ngữ văn THPT cơ bản
Tiếp nối SGK THCS, sách giáo khoa môn Ngữ văn THPT đà đ-a vào
dạy thí điểm ở 50 tr-ờng thuộc 12 tỉnh thành trong toàn quốc từ tháng 9/2003.
Sau một thời gian thí điểm, hiện nay bộ sách Ngữ văn THPT đà đ-ợc triển
Sinh viên: Lê Thị Hồng Nhung
Lớp: 46B2 - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp
15
Tr-ờng Đại học Vinh
khai đại trà trong toàn quốc. Ch-ơng trình Ngữ văn THPT và SGK t-ơng ứng
với ch-ơng trình ấy có nhiều thay đổi so với ch-ơng trình và SGK hiện hành.
Một trong những thay đổi của ch-ơng trình và SGK THPT môn Ngữ
văn lần này là biên soạn hai bộ sách theo hai mức độ của ch-ơng trình. Biên
soạn theo ch-ơng trình chuẩn gọi là sách Ngữ văn cơ bản. Sách này nhằm đáp
ứng cho các học sinh có nhu cầu nắm vững nội dung môn học để có thể hoàn
thành kỳ thi tốt nghiệp THPT. Biên soạn theo ch-ơng trình nâng cao gọi là
sách Ngữ văn nâng cao. Sách này ngoài những nội dung có trong ch-ơng trình
chuẩn còn có thêm một số yêu cầu và nội dung khác biệt, nhằm phân hoá và
đáp ứng nhu cầu của những học sinh không chỉ thi tốt nghiệp mà còn thi đại
học vào các ngành khoa học xà hội. ở đây, chúng tôi chỉ đi vào tìm hiểu vài
nét về bộ sách Ngữ văn THPT cơ bản.
Nhìn chung, sách Ngữ văn THPT cơ bản là bộ sách đ-ợc đánh giá tốt,
biên soạn cẩn thận, công phu, đáp ứng yêu cầu của khung ch-ơng trình, có
nhiều điểm mới.
1.2.1. Về nội dung
1.2.1.1. Về lựa chọn hệ thống văn bản tác phẩm
Văn bản trong bộ sách Ngữ văn 10, 11, 12 so với bộ sách giáo khoa
hiện hành có nhiều thay đổi. Chẳng hạn, ngoài các tác phẩm quen thuộc đang
có trong bộ sách giáo khoa hiện hành, sách giáo khoa 10, 11, 12 đà đ-a vào
một số tác phẩm mới.
Những thay đổi về văn bản - tác phẩm trên đây xuất phát từ các lý
do sau:
a) Văn bản văn học không chỉ là các tác phẩm đ-ợc sáng tác bằng tduy hình t-ợng, chủ yếu dùng các yếu tố h- cấu t-ởng t-ợng. Văn bản văn
học còn là những văn bản không phải h- cấu t-ởng t-ợng, đ-ợc viết bằng
ngôn từ nghệ thuật với nhiều thể loại khác nhau nh-: sử ký, địa chí, văn nghị
luận, văn thuyết minh...
Sinh viên: Lê Thị Hồng Nhung
Lớp: 46B2 - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp
16
Tr-ờng Đại học Vinh
b) Sách Ngữ văn THPT lựa chọn các văn bản văn học theo tiêu chí thể
loại. Bám sát vào tiến trình lịch sử văn học để lựa chọn hệ thống tác phẩm tiêu
biểu cho các thể loại của mỗi giai đoạn văn học. Lấy văn học Việt Nam làm
trục chính và bổ sung các tác phẩm văn học n-ớc ngoài cùng thể loại một cách
t-ơng ứng - t-ơng đối để học sinh tiện so sánh, đối chiếu.
1.2.1.2. Về nội dung kiến thức và kỹ năng làm văn
Sách làm văn tr-ớc đây dựa vào các thao tác để chia ra nhiều kiểu bài
nhỏ. Chúng tôi quan niệm bài văn là sự kết hợp và tổng hợp các thao tác cơ
bản, vận dụng các thao tác một cách tổng hợp, linh hoạt. Quan niệm này đÃ
đ-ợc thể hiện rõ trong ch-ơng trình và SGK Ngữ văn THCS và đ-ợc tiếp nối ở
sách Ngữ văn THPT.
Ngoài ra, sách Ngữ văn THPT còn chú ý rèn luyện kỹ năng nói, kỹ
năng tóm tắt văn bản, kỹ năng tạo lập một số văn bản hành chính - công vụ
nh-: viết kế hoạch cá nhân, quảng cáo...
1.2.1.3. Về những tri thức của phần Tiếng Việt
Trong bộ sách hợp nhất, môn Tiếng Việt đ-ợc dạy ở lớp 10, 11 nh- một
phân môn tách biệt với Văn học và Làm văn. Nay Tiếng Việt đ-ợc dạy ở cả 3
năm THPT, nh-ng theo một tinh thần khác và tập trung vào thực hành, vận
dụng những hiểu biết về tiếng Việt vào việc đọc - hiểu văn bản và tạo lập văn
bản. Thông qua vận dụng này mà củng cố, khắc sâu và nâng cao khả năng sử
dụng tiếng Việt cho học sinh. Phần nµy cịng cung cÊp mét sè tri thøc míi
ch-a cã ở SGK Ngữ văn THCS nh-:
Ngữ văn 10: Văn bản, Ngôn ngữ dạng nói và dạng viết, Khái quát về
lịch sử tiếng Việt, Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, Phong cách ngôn ngữ
sinh hoạt.
Ngữ văn 11: Phong cách ngôn ngữ chính luận, Phong cách ngôn ngữ
báo chí, Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân, đặc điểm loại hình tiếng
Việt.
Sinh viên: Lê Thị Hồng Nhung
Lớp: 46B2 - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp
17
Tr-ờng Đại học Vinh
Ngữ văn 12: Phong cách ngôn ngữ hành chính, Phong cách ngôn ngữ
khoa học, Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, Thi luật.
1.2.2. Về hình thức trình bày
Sách giáo khoa Ngữ văn THPT cơ bản đ-ợc biên soạn theo lối tích hợp.
Theo đó, ba cuốn sách: Văn, Làm văn, Tiếng Việt tr-ớc đây tồn tại độc lập thì
nay gộp lại trong một quyển. Đây không phải là sự sát nhập một cách cơ học,
máy móc 3 phân môn của bộ môn này mà là sự đáp ứng yêu cầu tích hợp của
ch-ơng trình Ngữ văn mới. Trong sách Ngữ văn THPT, các bài học về đọc hiểu văn bản, Tiếng Việt và Làm văn đ-ợc bố trí đan xen nhau, soi sáng và hỗ
trợ cho nhau. Tất cả các tri thức và kỹ năng của các phân môn đều tập trung
nhằm hình thành và rèn luyện cho học sinh năng lực đọc văn và làm văn.
Thông qua đọc văn, làm văn mà củng cố và phát triển các kỹ năng tiếng Việt,
văn học. Điều này sẽ đ-ợc thể hiện rõ hơn khi đi vào tìm hiểu cấu trúc bài học
của nó. Chẳng hạn nh- cấu trúc bài Tiếng Việt và Làm văn.
Bài học Tiếng Việt và Làm văn th-ờng có hai loại: bài học hình thành
lý thuyết và bài học thực hành (bao gồm cả các tiết học viết bài và trả bài của
Làm văn). Dù lý thuyết hay thực hành thì bài häc cịng cã néi dung lun tËp,
qua lun tËp mµ hình thành củng cố lý thuyết. Vì thế, cấu trúc bài học Tiếng
Việt và Làm văn th-ờng theo các mục sau:
a) Bài học về lý thuyết
Tên bài học: Ví dơ NghÜa cđa c©u (SGK líp 11, Tr.6, tËp 2)
Kết quả cần đạt: nêu những yêu cầu học sinh cần đạt đ-ợc về
kiến thức và kỹ năng qua bài học.
Nội dung bài học: trình bày một cách ngắn gọn nội dung lý
thuyết của bài học.
Luyện tập: nêu câu hỏi và bài tập nhằm củng cố, khắc sâu các nội
dung lý thuyết vừa học.
Sinh viên: Lê Thị Hồng Nhung
Lớp: 46B2 - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp
18
Tr-ờng Đại học Vinh
b) Bài học về thực hành
Tên bài học: Ví dụ Luyện tập viết đoạn văn nghị luận (SGK lớp
10, tr.140, tập 2)
Kết quả cần đạt: nêu những yêu cầu học sinh cần đạt đ-ợc về
kiến thức và kỹ năng qua bài học.
Nội dung bài học: nêu các câu hỏi, bài tập, đề văn và các yêu cầu
thực hành.
Bên cạnh những -u điểm, SGK Ngữ văn THPT vẫn còn bộc lộ những
bất cập. Cụ thể: SGK mới có thêm mục Kết quả cần đạt ở tr-ớc mỗi bài học
và phần Ghi nhớ sau mỗi bài học. Đối với bài Đọc văn và Tiếng Việt, những
nội dung ấy chính là câu trả lời cho những câu hỏi tìm hiểu bài trong SGK,
chẳng khác gì hiện t-ợng cho đáp án tr-ớc khi ra đề và đặt thầy trò trong tthế phải chấp nhận một chân lý đà đ-ợc cài sẵn. Cả hai mục đề cập trên đây
đều đi ngựơc lại với quan điểm của giáo dục hiện đại, vốn đ-ợc xây dựng trên
tinh thần giáo dục kỹ năng sống, giáo dục nhân cách, giáo dục khả năng sáng
tạo của học sinh.
Lại thấy, cách xử lý nhan đề của các tác phẩm viết bằng chữ hán cũng
cần phải xem xét lại. Từ tr-ớc tới nay, nhan đề của các văn bản có nguồn gốc
Hán Việt đều đ-ợc thể hiện theo nguyên tắc giữ nguyên phiên âm Hán Việt,
sau đó ghi nhan đề đà dịch sang tiếng Việt bên cạnh. Ví dụ: Đăng cao (lên
cao) - Đỗ Phủ. Thế nh-ng SGK Ngữ văn 10, 11 hiện nay lại có cách làm
ng-ợc lại. đó là chuyển đ-a nhan đề bằng tiếng Việt (có tính chủ quan) lên
tr-ớc, in đậm, coi đó là nhan đề chính thức và phụ chú trong ngoặc đơn bằng
nhan đề gốc. Ví dụ: Khi dẫn sáng tác của Phạm Ngũ LÃo, SGK ghi là tác
phẩm Tỏ lòng (Thuật hoài).
Cách làm này đi ng-ợc lại với qui tắc học thuật. Bởi vì trong thực tế làm
gì có bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ LÃo mà chỉ có bài Thuật hoài. Tỏ lòng
chỉ là một cách hiểu của ng-ời dịch thơ - cho dù đó là cách hiểu đúng nhất.
Sinh viên: Lê Thị Hồng Nhung
Lớp: 46B2 - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp
19
Tr-ờng Đại học Vinh
SGK Ngữ văn THPT cơ bản có sự sắp xếp bài học không đ-ợc liên tục.
Nhiều bài học bị cắt ngang để học bài khác. Ví dụ: phong cách ngôn ngữ sinh
hoạt (sách Ngữ văn 10, tập 1). Tuần 12 học phần một (ngôn ngữ sinh hoạt).
Sang tuần 14 mới học tiếp phần còn lại (phong cách ngôn ngữ sinh hoạt).
Hoặc bài Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân (sách Ngữ văn 11, tập 1),
tuần 1 học phần một, phần hai và làm bài tập, đến cuối tuần 3 lại học tiếp phần
ba rồi làm bài tập. Một ví dụ khác, bài Luật thơ (sách Ngữ văn 12, tập 1). ở
tuần 8, häc lý thuyÕt (phÇn mét, phÇn hai, phÇn ba). Sang tuần 10 mới tiếp tục
học luyện tập.
Qua đây có thể thấy rằng: việc biên soạn SGK Ngữ văn THPT cơ bản
theo tinh thần đổi mới của giáo dục là cần thiết. Những -u điểm mà nó đem
lại là không phủ nhận. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng còn những bất cập cần
nhanh chóng đ-ợc khắc phục.
1.3. Phần tiếng Việt trong bộ SGK Ngữ văn THPT cơ bản
Ch-a bao giờ nh- bây giờ, nền giáo dục Việt Nam đứng tr-ớc một thử
thách và một yêu cầu to lớn phải đổi mới toàn diện, nhằm chuẩn bị cho thế hệ
trẻ những phẩm chất và kỹ năng để thích ứng với một xà hội đang không
ngừng biến đổi trong quá trình hội nhập quốc tế. SGK Ngữ văn THPT cơ bản
đ-ợc Bộ giáo dục ban hành nằm trong những nỗ lực đáp ứng yêu cầu đó. Bộ
SGK này không chỉ tập hợp những thay đổi về tiểu tiết so với SGK cũ, mà còn
chứa đựng những cái mới có tính chất căn bản và có tính chiến l-ợc. Điều này
sẽ đ-ợc làm rõ hơn khi đi vào tìm hiểu phần Tiếng Việt trong bộ SGK Ngữ
văn THPT cơ bản.
1.3.1. Bám sát mục tiêu đào tạo
Mục tiêu đổi mới giáo dục phổ thông là tăng c-ờng tính thực tiễn, phát
huy năng lực tự học của học sinh, bảo đảm tính thống nhất về kiến thức, kỹ
năng, tạo điều kiện cho các em tiếp cận với trình độ giáo dục tiên tiến của các
n-ớc trên thế giới, giảm bớt gánh nặng cho ng-ời học.
Sinh viên: Lê Thị Hồng Nhung
Lớp: 46B2 - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp
20
Tr-ờng Đại học Vinh
Việc biên soạn phần tiếng Việt trong SGK Ngữ văn cũng đà bám sát
vào mục tiêu đào tạo này. Cụ thể: trong phần tiếng Việt, các tiết lý thuyết
thuần tuý giảm hẳn, thời l-ợng thực hành d-ới mọi hình thức tăng lên. Điều
đó không có nghĩa là phần tiếng Việt trong SGK Ngữ văn coi nhẹ lý thuyết mà
lý thuyết đ-ợc đ-a vào d-ới dạng các bài tập thực hành. Đặc biệt, với t- cách
là một môn học tích hợp, việc tăng thêm số tiết học trong một năm cho phân
môn tiếng Việt góp phần tạo ra sự cân bằng giữa các hợp phần Ngữ văn; đồng
thời còn đem lại hiệu quả mong muốn cho dạy học làm văn và đọc - hiểu.
Bởi, trong tiết tiếng Việt, giáo viên vừa giúp học sinh nắm kiến thức về cách
đặt câu, xây dựng đoạn văn trong văn bản... vừa cảm nhận đ-ợc vẻ đẹp của nội
dung văn bản thông qua từ ngữ và biết vận dụng đơn vị ngôn ngữ ấy trong việc
thể hiện kiến thức, tình cảm của mình trong giao tiếp.
Nh- vậy, việc tăng c-ờng thực hành trong tiếng Việt sẽ giúp học sinh
tăng c-ờng kỹ năng thực hành, vận dụng, sáng tạo, tích cực hoá hoạt động học
tập của học sinh.
1.3.2. Bảo đảm nguyên tắc h-ớng tới hoạt động giao tiếp
Con ng-ời dùng ngôn ngữ để tổ chức toàn bộ cuộc sống của họ trong xÃ
hội, thông qua ngôn ngữ, con ng-ời xác lập và điều chỉnh những mối quan hệ
t-ơng tác nhiều mặt làm nên sự hài hoà và sự chuyển biến của cộng đồng dân
tộc. Vì thế, trong những năm gần đây, ngôn ngữ luôn đ-ợc đặt trong quan hệ
với hoàn cảnh giao tiếp và ng-ời giao tiếp khi nghiên cứu. Bên cạnh đó, việc
dạy ngôn ngữ trong nhà tr-ờng cũng đ-ợc nhìn nhận theo quan điểm mới: dạy
tiếng là dạy công cụ để giao tiếp.
Có thể hiểu giao tiếp là hoạt động trao đổi t- t-ởng, tình cảm, cảm
xúc... nhằm thiÕt lËp quan hƯ, sù hiĨu biÕt hc sù céng tác... giữa các thành
viên trong xà hội. Ng-ời ta giao tiếp với nhau bằng nhiều ph-ơng tiện, nh-ng
ph-ơng tiện thông th-ờng và quan trọng nhất là ngôn ngữ.
Hoạt động giao tiếp bao gồm các hành vi giải mà (nhận thông tin) và kí
mà (phát thông tin); trong ngôn ngữ, mỗi hành vi đều có thể đ-ợc thực hiện
Sinh viên: Lê Thị Hồng Nhung
Lớp: 46B2 - Ngữ văn