Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Bài thu hoạch diễn án hình sự hồ sơ 01: Chứa chấp mại dâm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.75 KB, 11 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHOA ĐÀO TẠO LUẬT SƯ

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN

Môn: Kỹ năng của Luật sư khi tham gia giải quyết các vụ án hình sự

Mã số hồ sơ số: LS.HS 01
Diễn lần: 01
Ngày diễn: 12/07/2021

Hà Nội, ngày 12 tháng 07 năm 2021

1


BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
Môn: Kỹ năng của Luật sư khi tham gia giải quyết các vụ án hình sự
Hồ sơ tình huống số LS.HS 01
Tạ Văn Trường chứa mại dâm
I.

TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN

-

Tháng 6/2018 Tạ Văn Trường tới gặp Ngô Văn Thành là chủ quán tẩm quất Ha
Na để xin việc làm. Thành giao cho Trường toàn bộ công việc quản lý, điều hành
quán và hứa trả lương 4.000.000đ/tháng.

-



Vào khoảng 20h45 ngày 05/07/2018, khi Thành khơng có mặt tại quán, ba đối
tượng tự khai là Nguyễn Văn Thọ, Nguyễn Trần Trung, Nguyễn Văn Tuấn đi xe
taxi đến quán tẩm quất Ha Na. Tại đây, Trường đã có hành vi cho Thọ, Trung,
Tuấn giao cấu tình dục với ba cô gái nhân viên quả quán tẩm quất Ha Na với
mực giá cho một nhân viên ít nhất là 300.000đ, cịn tiền phịng thì thu
150.000đ/người.

-

Thọ đưa tiền cho Trường sau đó được Trường dẫn Thọ, Trung, Tuấn đến 3 phòng
khác nhau (201, 202, 203) và gọi cho Phùng Thị Kim Liên – nhân viên khác của
quán và gọi cho một người tên Bắc (Theo lời khai của Trường thì Trường không
biết Bắc là ai mà chỉ biết số điện thoại 0974.061.663 do Thành đưa để gọi khi có
khách) để bảo Bắc cho hai nhân viên đến quán Ha Na.

-

Một lúc sau, Lê Thị Thanh Tâm đến quán rồi được Trường bảo lên phòng 202.
Tại phòng, Thọ và Trung mỗi người đưa 500.000đ cho Tâm và Liên, cịn Tuấn thì
vẫn đợi ở phòng 201. Khi Trung, Liên, Thọ, Tâm đang mua bán dâm thì bị Cơng
an tỉnh Bắc Ninh bắt quả tang và thu được 1.500.000đ do Trường, Tâm, Liên
giao nộp cùng với 02 bao cao su đã qua sử dụng và 02 điện thoại di động của
Trường và Liên.

-

Quá trình điều tra Tạ Văn Trường đã thành khẩn khai nhận hành vi như trên.
Ngồi ra, Trường cịn khai: Trường thực hiện việc chứa mại dâm theo chỉ đạo của
Thành và số điện thoại của người tên Bắc là do Thành đưa cho Trường.


-

Tạ Văn Trường bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/7/2018. Hiện bị can đang bị tạm
giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh.

-

Ngày 18/10/2018, VKSND tỉnh Bắc Ninh truy tố Tạ Văn Trường ra trước TAND
thị xã Từ Sơn về tội “Chứa mại dâm” theo điểm d Khoản 2 Điều 327 Bộ luật
hình sự. Ngày 28/12/2018 TAND thị xã Từ Sơn ra quyết định đưa vụ án ra xét xử
sơ thẩm.

II.

ĐỊNH HƯỚNG BÀO CHỮA VÀ DỰ KIẾN KẾ HOẠCH HỎI TẠI PHIÊN
TÒA SƠ THẨM
2


1.

Định hướng bào chữa
Định hướng bào chữa cho bị cáo Tạ Văn Trường là chuyển tội danh từ tội “Chứa
mại dâm” quy định tại Điều 327 Bộ Luật Hình sự năm 2015 sang tội “Môi giới
mại dâm” theo Khoản 1 Điều 328 Bộ Luật Hình sự 2015 và giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự cho bị cáo dựa vào các tình tiết giảm nhẹ.

2.


Dự kiến kế hoạch hỏi

a.

Hỏi bị cáo Tạ Văn Trường

-

Anh Trường cho biết, anh bắt đầu làm việc tại quán Ha Na vào thời gian nào?

-

Tại quán Ha Na, cơng việc cụ thể của anh là gì?

-

Trong lúc trao đổi với anh Thành, hai người có từng nhắc đến từ “bán dâm” hay
tương tự trước mặt nhau không?

-

Lúc anh Trường thực hiện hành động gọi người đến bán dâm, anh có thơng báo
cho chủ qn là anh Thành biết hay khơng?

-

Bị cáo Trường cho biết tiền phịng hát karaoke và tiền phòng tẩm quất bị cáo thu
như thế nào? Ai là người quy định số tiền trên? Số tiền phịng bị cáo thu được bị
cáo làm gì?


-

Anh Thành có biết Liên bán dâm tại qn hay khơng?

-

Khi bị cáo báo có khách cho Liên thì Liên có hỏi gì khơng?

-

Anh và chị Tâm có quan hệ gì, trước đó, anh đã bao giờ trao đổi, liên lạc trực tiếp
hoặc qua điện thoại với chị Tâm chưa?

-

Lượng khách thường xuyên của quán chủ yếu đến từ đâu, Trường có biết không?

-

Anh Trường lấy số điện thoại chị Bắc ở đâu? Bị cáo có biết mặt người tên Bắc
khơng?

-

Anh thu tiền khách đến mua dâm như thế nào?

-

Anh tự quyết định hay có ai chỉ cho anh cách thu tiền như vậy?


-

Anh có được hưởng lợi từ việc mua bán dâm hay khơng?

b.

Hỏi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phùng Thị Kim Liên

-

Chị hãy cho biết chị có quen anh Trường từ trước hay không?

-

Ai là người chỉ đạo chị bán dâm cho khách?

-

Ngày 5/7/2018, anh Trường có nói với chị lên phịng bán dâm khơng? Chị thu
tiền bán dâm như thế nào? Số tiền này có phải chia cho ai khơng?

-

Chị có thỏa thuận với anh Trường về việc khi có khách thì Trường sẽ gọi chị hay
không?
3


-


Chị có thỏa thuận với chị Nguyên về việc mua bán dâm khơng?

c.

Hỏi người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Lê Thị Thanh Tâm

-

Chị hãy cho biết ai là người đã chở chị đến quán Ha Na ngày 5/7/2018?

-

Chị là nhân viên của ai, thoả thuận với chủ như thế nào?

-

Chị bắt đầu làm việc cho chị Nguyên từ khi nào?

-

Chị hãy cho biết mối quan hệ giữa chị và anh Trường?

-

Chị có quan hệ như thế nào với người tên là Ngáo?

d.

Hỏi người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Ngô Văn Thành


-

Anh hãy cho biết Trường bắt đầu đi làm tại quán của anh từ khi nào?

-

Quán của anh có bao nhiêu nhân viên? Ai là người nhận nhân viên vào làm việc?
Công việc được thỏa thuận như thế nào?

-

Vào khoảng 20 – 20 giờ 45 ngày 05/7/2018 anh đang ở đâu? Làm gì?

-

Tối ngày 05/07/2018, khi anh đến anh Trường có báo với anh là đang có khách
trên phịng khơng? Anh có biết đang có hành vi mua bán dâm tại qn khơng?

-

Anh có quan hệ thế nào với Phùng Thị Kim Liên và Lê Thị Thanh Tâm?

-

Anh có biết Liên bán dâm tại qn hay khơng?

-

Anh Thành có biết số điện thoại 0974.061.663 này là của ai khơng? Anh có biết
vì sao lại dán số điện thoại này trên quầy và ai là người dán không?


-

Theo lời khai của Nguyễn Văn Thọ tại bút lục số 77, Thọ có nói “Thỉnh thoảng
tơi có đến quán Ha Na để mua dâm”, anh có biết về việc này?

III.

LUẬN CỨ BÀO CHỮA CHO BỊ CÁO TẠ VĂN TRƯỜNG TẠI PHIÊN
TỊA SƠ THẨM

ĐỒN LUẬT SƯ TỈNH VĨNH PHÚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
VĂN PHÒNG LUẬT SƯ ÁNH DƯƠNG

Độc lập – Tự do – Hạnh Phúc

Bắc Ninh, ngày 12 tháng 07 năm 2021

BẢN LUẬN CỨ
(Bào chữa cho bị cáo Tạ Văn Trường tại Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh
trong vụ án về tội “Chứa mại dâm”)
Kính thưa Hội đồng xét xử;
Thưa vị đại diện Viện kiểm sát;
4


Thưa vị Luật sư đồng nghiệp và toàn thể quý vị có mặt trong phiên tịa ngày hơm
nay!
Tơi là Luật sư Dương Thị Ngọc Ánh, thuộc Văn phòng Luật sư Ánh Dương Đoàn Luật sư tỉnh Vĩnh Phúc. Theo yêu cầu của gia đình bị cáo Tạ Văn Trường và
được sự chấp thuận của Q Tịa, tơi có mặt tại phiên tịa ngày hơm nay với tư cách là

người bào chữa cho bị cáo Tạ Văn Trường hiện đang bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Bắc Ninh truy tố về tội danh: “Chứa mại dâm” theo Điều 327 BLHS năm 2015.
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, tài liệu có liên quan cũng như tham gia phần xét
hỏi cơng khai tại phiên tịa hơm nay, tơi xin trình bày quan điểm bào chữa của mình
như sau:
1.

Về việc xác định tội danh và khung hình phạt:

Tơi khơng đồng tình với quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh về
việc truy tố thân chủ tôi – anh Tạ Văn Trường với tội danh “Chứa mại dâm” theo
điểm d Khoản 2 Điều 327 BLHS.
Theo Khoản 4, Điều 3 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm năm 2003 của
UBTVQH quy định: “Chứa mại dâm là hành vi sử dụng, thuê, cho thuê hoặc mượn,
cho mượn địa điểm, phương tiện để thực hiện việc mua dâm, bán dâm”.
Để giải thích rõ hơn về điều luật này, tại Khoản 1, Điều 3, Nghị định
178/2004/NĐ-CP có giải thích rõ ràng về từ ngữ “Cho thuê, cho mượn địa điểm,
phương tiện để hoạt động mại dâm” là hành vi của tổ chức, cá nhân có quyềnquản lý,
chiếm hữu, sử dụng hoặc định đoạt tài sản mà cho thuê, cho mượn để hoạt động mại
dâm.
Tuy nhiên, VKSND tỉnh Bắc Ninh đã không xác định xem Tạ Văn Trường có đủ
các điều kiện về quyền như Nghị định 178/2004/NĐ-CP đã giải thích hay khơng mà đã
vội vàng truy tố thân chủ tôi với tội danh “Chứa mại dâm”.
Thưa HĐXX, dựa vào hồ sơ vụ án cũng như diễn biến tại phiên tồ ngày hơm
nay, tơi cho rằng, hành vi của thân chủ tôi - bị cáo Tạ Văn Trường chưa đủ yếu tố cấu
thành tội danh “Chứa mại dâm” như phía đại diện VKS vừa truy tố, bởi những lý do
sau:
Thứ nhất, bị cáo khơng có quyền cho thuê, cho mượn địa điểm (cơ sở tẩm
quất Ha Na) để thực hiện hoạt động mại dâm, bởi:
Cơ sở tẩm quất Ha Na không thuộc quyền sở hữu của anh Trường

Theo Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh cá thể số 21E80016156 được
UBND thị xã Từ Sơn cấp ngày 16/03/2017, Cơ sở Tẩm quất Ha Na được thành lập
dưới dạng hộ kinh doanh cá thể do anh Ngô Văn Thành, sinh năm 1984, có hộ khẩu
thường trú tại phường Đông Nguyên, thị xã từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh làm chủ, quản lý, có
5


toàn quyền quyết định về mọi hoạt động kinh doanh của hộ và chịu trách nhiệm về
hoạt động của mình (BL 20). Điều này hoàn toàn phù hợp với lời khai của anh Thành,
anh Trường và những người liên quan tại các biên bản ghi lời khai (BL 42-44, 53-55,
…), cũng như diễn biến tại phiên tồ ngày hơm nay.
Do đó, điều này rõ ràng thể hiện anh Thành là chủ sở hữu của Cơ sở Tẩm quất
Ha Na, có toàn quyền quyết định, định đoạt, quản lý, sử dụng Cơ sở kinh doanh của
mình.
Thân chủ tơi khơng có quyền quản lý, sử dụng, định đoạt cơ sở tẩm quất Ha Na
Trong suốt q trình điều tra, thân chủ tơi đều khai rõ, công việc của thân chủ tôi
tại cơ sở tẩm quất Ha Na là trông coi và phục vụ phịng hát, trơng qn khi Thành
khơng có nhà (BL 48-52, 91-93, …). Mặc dù lời khai của Thành (BL 41-44, 48-52,…)
và Liên (BL 89) đều khai rằng anh Trường là quản lý quán tẩm quất Ha Na, nhưng tôi
cho rằng đây chỉ là cách gọi đơn thuần của người dân. Bởi trên thực tế, đến ngày bị bắt
quả tang, anh Trường mới chỉ làm việc tại quán Ha Na được 15 ngày, hơn nữa, anh
Trường lại từ xa đến để xin việc (Hà Nam), không phải người địa phương. Điều này
rất khó để anh Thành đủ tin tưởng giao cho anh Trường toàn quyền sử dụng, quản lý
Cơ sở kinh doanh của mình.
Tại thời điểm anh Trường đến xin và làm việc, Cơ sở tẩm quất Ha Na chỉ có 2
nhân viên là chị Liên và anh Trường, trong khi đó Cơ sở tẩm quất Ha Na vừa kinh
doanh dịch vụ Masage vừa kinh doanh phòng hát Karaoke. Thực tế, cơng việc chính
của anh Trường chỉ là phục vụ phịng hát, trơng qn và thu tiền khi có khách tẩm quất
là 150.000đ/phịng, những cơng việc này hồn tồn là do anh Thành - chủ Cơ sở tẩm
quất giao cho thân chủ tơi làm, tiền phịng thu của khách cũng là do Thành quy định

trước đó, Trường chỉ làm theo quy định của Thành. Nếu khơng có sự trao đổi, hướng
dẫn từ trước của anh Thành thì bị cáo khơng thể biết và tự mình sắp xếp phịng cho
khách mua dâm, trao đổi về giá, gọi điện cho gái bán dâm đến như thế được.
Điều đó chứng tỏ rằng, tất cả những công việc mà thân chủ tôi làm tại quán Ha
Na đều do anh Thành là người trực tiếp hướng dẫn thực hiện, anh Trường có nghĩa vụ
báo cáo công việc hàng ngày lại với anh Thành, bao gồm cả việc cho th phịng. Việc
thân chủ tơi vào ngày 05/7/2018cho 3 khách th phịng hồn tồn là làm theo công
việc thường ngày, thân chủ tôi chỉ thực hiện theo đúng cơng việc mà mình đã được
giao chứ khơng có bất cứ quyền tự quyết định nào trong việc cho thuê cũng như quản
lý các hoạt động của cơ sở tẩm quất Ha Na.
Như vậy, từ những căn cứ trên, hồn tồn có thể khẳng định rằng, bị cáo Tạ Văn
Trường khơng có quyền cho th, cho mượn địa điểm (cơ sở tẩm quất Ha Na) để thực
hiện hoạt động mại dâm.

6


Thứ hai, thân chủ tôi không thu được bất kỳ một lợi ích nào từ việc mua bán
dâm tại cơ sở tẩm quất Ha Na
Như tơi đã trình bày ở trên, thân chủ tôi làm việc tại cơ sở tẩm quất Ha Na dưới
sự hướng dẫn, chỉ đạo của anh Thành. Việc cho thuê phòng và thu tiền thuê phòng
cũng là do anh Thành đã quy định trước đó. Tại Biên bản tự khai ngày 07/8/2018 (BL
41) của anh Thành khai rõ số tiền anh hướng dẫn Trường thu khi có khách hát là
200.000đ/giờ cịn tiền phịng tẩm quất là 150.000đ/phòng. Tại biên bản đối chất ngày
10/8/2018 (BL 48-50), cả thân chủ tôi và anh Thành cũng đều khai nhận việc thu tiền
phịng khi có khách là 150.000đ/phịng.
Vào ngày xảy ra vụ án, khi có khách đến hỏi muốn thuê phịng và gọi “tàu
nhanh”, thân chủ tơi cũng chỉ thực hiện cơng việc thu tiền phịng đúng theo quy định là
150.000đ/phòng. Tại tất cả các biên bản ghi lời khai, thân chủ tơi đều khẳng định chỉ
thu tiền phịng là 150.000đ/phịng, 3 khách là 450.000 đồng, ngồi ra Trường khơng

thu thêm bất kỳ một khoản tiền nào khác.
Tại Bản tự khai và các biên bản ghi lời khai của người làm chứng – anh Nguyễn
Văn Huy (BL 34-40), anh Huy cũng khẳng định, khi được hỏi tiền phịng thì thân chủ
tơi nói rằng 150.000đ/phịng, cịn tiền đi tàu nhanh thì thoả thuận với nhân viên.
Điều này càng chắc chắn hơn khi tại Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày
05/7/2018 (BL 28-33) anh Nguyễn Văn Thọ - là người bị bắt quả tang khi đang thực
hiện hành vi mua dâm khai nhận Trường chỉ thu tiền phòng mỗi người 150.000đ, 3
người là 450.000đ. Anh Thọ khai nhận: “Tôi đưa cho người thanh niên (tức Trường)
500.000đ để trả tiền 3 phịng hết 450.000đ người thanh niên trả lại tơi 50.000đ. Tơi
cầm tiền thừa…”
Do đó, hồn tồn có đủ căn cứ để khẳng định rằng, thân chủ tơi chỉ thu tiền
phịng đã được quy định trước đó, khơng thu được bất kỳ một lợi ích nào từ việc khách
thực hiện mua bán dâm tại cơ sở tẩm quất Ha Na nơi anh làm việc.
Thứ ba, xét hành vi phạm tội của bị cáo
Về mặt khách quan: hành vi của bị cáo Trường chỉ là trung gian đứng giữa để
cho người mua dâm là: anh Nguyễn Văn Tuấn, anh Nguyễn Trần Trung, anh Nguyễn
Văn Thọ và người bán dâm là chị Phùng Thị Kim Liên thực hiện việc mua bán dâm.
Giữa bị cáo Tạ Văn Trường và chị Phùng Thị Kim Liên có sự thoả thuận: cả bị
cáo Trường và chị Liên đều khai rằng có sự thoả thuận, tuy nhiên sự thoả thuận này
chỉ dừng lại ở việc “lúc nào có khách thì gọi”, thậm chí khơng có nội dung vụ thể về
thời gian, giá cả,…
Giữa thân chủ tôi và chị Lê Thị Thanh Tâm khơng hề có mối liên hệ trực tiếp
cũng như gián tiếp với nhau về việc thực hiện hành vi mua bán dâm tại quán. Giữa bị
cáo Trường và chị Tâm cũng khơng hề có sự thoả thuận, trao đổi cụ thể về việc mua
7


bán dâm: về thời gian, cách thức, về giá cả,… Chính vì vậy, khơng thể nói có hành vi
mơi giới mại dâm giữa bị cáo Trường và chị Tâm.
Về động cơ phạm tội: bị cáo thực hiện hành vi phạm tội một phần do hoàn cảnh

tác động khi bị cáo làm việc tại quán tẩm quát của anh Thành. Nếu làm việc tại một
nơi khác, cơng việc khác thì bị cáo cũng không phải thực hiện những hành vi này vì
bản chất bị cáo chỉ thực hiện theo yêu cầu của khách hàng, khơng thu được bất kỳ một
lợi ích nào,hồn tồn khơng có động cơ tư lợi cá nhân.
Như vậy, từ những căn cứ và phân tích trên, hồn tồn có thể khẳng định rằng
hành vi của thân chủ tôi – anh Tạ Văn Trường chưa đủ yếu tố cấu thành tội “Chứa mại
dâm” mà chỉ cấu thành tội “Môi giới mại dâm” theo Khoản 1 Điều 328 BLHS.
2.

Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Kính đề nghị HĐXX xem xét, áp dụng các tình giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
cho thân chủ tơi như sau:
Thân chủ tơi đã có sự ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo
Trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như lời khai tại phiên tịa ngày hơm nay,
thân chủ tơi đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo đã khai
đầy đủ và đúng sự thật, thống nhất tất cả những gì liên quan đến hành vi mà thân chủ
tôi đã thực hiện.
Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015,
sửa đổi bổ sung năm 2017: “Người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối
cải”.
Bị cáo Trường phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiệm trọng tại
Khoản 1 Điều 328 về tội “Mơi giới mại dâm”.
Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, Khoản 1 Điều 51 BLHS.
Trong q trình điều tra, thân chủ tơi đã tích cực hợp tác với cơ quan điều tra
trong quá trình giải quyết vụ án, góp phần cho việc điều tra được nhanh chóng và
khách quan được xem xét áp dụng điểm t, Khoản 1 Điều 51 BLHS.
Bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự (căn cứ Lý lịch bị can
tại BL 14 – 15), xuất thân từ gia đình thuần nơng, có nơi cư trú rõ ràng, ổn định, cũng
chỉ vì muốn kiếm cơng ăn việc làm tự nuôi sống bản thân mà phải rời quê hương để đi

làm, lỡ bước vào con đường phạm tội. Từ trước tới nay bị cáo luôn chấp hành đúng
chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi
làm việc.
Đề xuất của Luật sư:

8


Từ những nội dung đã phân tích nêu trên, với tư cách là Luật sư bào chữa cho bị
cáo Tạ Văn Trường, tơi kính đề nghị Hội đồng xét xử xem xét:
-

Xét xử bị cáo Tạ Văn Trường về tội danh “Môi giới mại dâm” theo Khoản 1 Điều 328
Bộ luật hình sự 2015 thay vì tơi danh “Chứa mại dâm” quy định tại Điều 327 BLHS.

-

Giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và quyết định áp dụng hình phạt là án treo theo quy
định pháp luật tại điểm s, i, t khoản 1, Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình
sự năm 2015 và Điều 2, Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao.
Trên đây là toàn bộ quan điểm bào chữa của tôi cho bị cáo Tạ Văn Trường. Kính
đề nghị HĐXX xem xét, cân nhắc, đánh giá đúng tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội của hành vi phạm tội, cân nhắc khi tiến hành nghị án để đưa ra một mức án phù
hợp, đủ sức răn đe nhưng cũng thể hiện sự khoan hồng, nhân đạo của pháp luật.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

9



NHẬN XÉT DIỄN ÁN
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
10


…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
……………………………………………………

11



×