MỤC LỤC
10
LỜI TỰA
13
BÙI MINH TRÍ
Hình thái kiến trúc cung điện Việt Nam thời Lý
dưới ánh sáng khảo cổ học
45
PHẠM LÊ HUY
Cấu kiện và kỹ thuật kiến trúc thời Lý - Trần
Nhìn từ tư liệu chữ viết đồng đại
65
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG CHI
Hành cung thời Lý - Trần qua tư liệu lịch sử
77
PHẠM THỊ OANH
Bước đầu tìm hiểu về đồ gốm thờ Việt Nam
95
BÙI MINH TRÍ,
NGUYỄN THỊ HỒNG LÊ, LÊ THỊ BÍNH
Di chỉ gốm Chu Đậu - Nhận thức mới
từ kết quả khai quật năm 2014
125
ĐẶNG THỊ KHƯƠNG,
CAO THỊ HUYỀN, LÊ VIẾT NGA
Di chỉ gốm Quả Cảm - Những nhận thức mới về
đồ sành thời Lê sơ qua kết quả khai quật năm 2014
149
NGUYỄN VĂN ANH, LÊ ĐÌNH NGỌC,
ĐÀO XUÂN NGỌC, NGUYỄN KIẾM
Di tích Động Lỗ Ngồi - Kết quả điều tra, khai quật
năm 2014-2015
175
LÊ ĐÌNH NGỌC, NGUYỄN VĂN ANH
Lăng Trần Hiến Tông - Kết quả khai quật,
nghiên cứu khảo cổ học năm 2014
201
LẠI VĂN TỚI
Kinh đô Hoa Lư thời Đinh - Tiền Lê,
kết quả nghiên cứu và những vấn đề đặt ra
231
BÙI MINH TRÍ, LẠI VĂN TỚI
Trung tâm Nghiên cứu Kinh thành,
5 năm thành lập và phát triển
ISBN: 978-604-944-670-2
2015
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU KINH THÀNH
NHÀ XUẤT BẢN KHOA HỌC XÃ HỘI
CONTENTS
11
FOREWORD
13
BÙI MINH TRÍ
Việt Nam architectural forms of Lý period palace
under the light of archaeology
45
PHẠM LÊ HUY
Building techniques and architectural components
in the Lý and Trần periods through the
contemporaneous inscriptions
65
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG CHI
Royal step-over plasces of Lý - Trần dynasties
through historical materials
77
PHẠM THỊ OANH
Initial study on worship ceramics of Việt Nam
95
BÙI MINH TRÍ,
NGUYỄN THỊ HỒNG LÊ, LÊ THỊ BÍNH
Chu Đậu kiln site - New awareness from the
excavation of 2014
125
ĐẶNG THỊ KHƯƠNG,
CAO THỊ HUYỀN, LÊ VIẾT NGA
Quả Cảm kiln site - New awareness of terracottas
of Lê sơ dynasty through excavated results in 2014
149
NGUYỄN VĂN ANH, LÊ ĐÌNH NGỌC,
ĐÀO XUÂN NGỌC, NGUYỄN KIẾM
The Động Lỗ Ngồi site, the results of investigation
and excavation during 2014 - 2015
175
LÊ ĐÌNH NGỌC, NGUYỄN VĂN ANH
Trần Hiến Tơng mausoleum, results of archaeological
excavation and research in 2014
201
LẠI VĂN TỚI
Hoa Lư capital in Đinh - Tiền Lê dynasty, research
results and some posed issues
231
BÙI MINH TRÍ, LẠI VĂN TỚI
Resear Center for Imperial City, five - year
Establishment & Development
CẤU KIỆN VÀ KỸ THUẬT
KIẾN TRÚC THỜI LÝ - TRẦN
NHÌN TỪ TƯ LIỆU CHỮ VIẾT ĐỒNG ĐẠI
PHẠM LÊ HUY*
MỞ ĐẦU
Tại di tích Hồng thành Thăng Long, chúng ta đã phát hiện được rất nhiều di cấu và cấu kiện kiến trúc thời Lý Trần. Nhiều người Việt Nam mong mỏi trong một tương lai không xa, dựa vào những kết quả khai quật khảo cổ
học đó, chúng ta có thể phục dựng lại các cung điện thời Lý - Trần tại Hồng thành Thăng Long, tương tự những
gì Nhật Bản đã làm được tại kinh đô Heijo (Nara). Tuy nhiên, thực tế hồn tồn khơng đơn giản như vậy.
Những di cấu khai quật được tại Hoàng thành Thăng Long đã cung cấp cho chúng ta những thông
tin liên quan đến hạ tầng kiến trúc như kỹ thuật gia cố nền móng và bố cục mặt bằng. Do hiện nay, Việt Nam
không lưu giữ được bất kỳ một đơn nguyên kiến trúc gỗ nào thời Lý - Trần, nên những tri thức mà chúng ta có
được về thượng tầng kiến trúc là hết sức ít ỏi. Từ trước đến nay, các nghiên cứu nhằm giải mã vấn đề này chủ
yếu tập trung vào việc khai thác nguồn tư liệu “vật chất”. Trịnh Cao Tưởng đã thử phân tích các mơ hình nhà
đất nung thời Trần phát hiện tại Nam Định và Thái Bình để tìm hiểu về cấu trúc bộ mái thời Trần (Trịnh Cao
Tưởng, 1978). Hà Văn Tấn lại tìm cách đọc thơng tin về bộ vì thời Trần từ kết cấu vì nóc thượng điện của các
chùa Dâu (Dun Ứng tự), Thái Lạc (Pháp Vân tự), Bối Khê (Đại Bi tự) (Hà Văn Tấn, 1993). Nghiên cứu của Trịnh
Cao Tưởng và Hà Văn Tấn đã đưa ra được nhiều gợi ý quan trọng để tìm hiểu đặc trưng của kiến trúc cổ Việt
Nam. Tuy nhiên, do hạn chế về niên đại tư liệu, kiến giải của hai học giả đều chỉ dừng lại ở đặc trưng của kiến
trúc thời Trần. Trong những năm gần đây, cùng với việc tìm thấy ngày càng nhiều hơn các cấu kiện kiến trúc
thời Lý - Trần, đã xuất hiện một số nghiên cứu về bản thân các loại cấu kiện kiến trúc, đặc biệt là gạch ngói,
tiêu biểu như nghiên cứu của Nguyễn Văn Anh, Bùi Thu Phương, Đặng Hồng Sơn (Nguyễn Văn Anh - Bùi Thu
Phương, 2010, Đặng Hồng Sơn, 2013). Tuy nhiên, những nghiên cứu về thượng tầng kiến trúc của giai đoạn
này vẫn cịn hết sức ít ỏi. Để giải quyết những hạn chế về mặt tư liệu, trong giai đoạn 2011 - 2015, các chuyên
gia Nhật Bản, đứng đầu là Shimizu Shinichi - Tomoda Masahiko, đã phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu Kinh
thành, tổ chức chương trình khảo sát nghiên cứu các hiện vật đất nung hình kiến trúc và mơ hình kiến trúc
đất nung thời Lý - Trần. Mục tiêu của chương trình nghiên cứu này là tìm cách làm rõ đặc trưng của các cơng
trình kiến trúc thực tế, dựa vào những diễn đạt kiến trúc trên các hiện vật đó. Một phần các kết quả nghiên
cứu của phía Nhật Bản như phân tích về bộ khung và ngói lợp mái đã được cơng bố tại Đại hội Hội nghiên cứu
Kiến trúc Nhật Bản trong các năm 2012 - 2014.
Hình 1
Ngói úp nóc gắn tượng
un ương
Đất nung, thời Lý,
thế kỷ 11-12
Ảnh: Bùi Minh Trí
*Thạc sĩ, Khoa Đông phương học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn
BULLETIN OF SCIENCES _ 2015
45
Tuy không phải là một chuyên gia kiến trúc, nhưng 5 năm qua, người viết đã may mắn được tham
gia chương trình nghiên cứu nêu trên với tư cách là một phiên dịch Nhật - Việt. Những chuyến khảo sát trên
nhiều tỉnh thành ở cả Trung Quốc và Việt Nam đã để lại cho cá nhân người viết không chỉ những trải nghiệm
khó qn, mà cịn rất nhiều băn khoăn về mặt khoa học. Người viết không thể nào quên kỷ niệm một buổi
chiều mưa tại di tích Bạch Tháp (Hàng Châu), khi biết họa tiết trang trí thời Lý mà Việt Nam chúng ta vẫn
giải thích là “sóng lừng”, trên thực tế khơng phải là “sóng”, mà là “núi” trong tư tưởng “cửu sơn bát hải” bắt
nguồn từ Ấn Độ. Đó cịn là những khó khăn khi phiên dịch nhiều thuật ngữ của Việt Nam như “ngói mũi sen”
hay “ngói mũi hài”… Với cùng một họa tiết trang trí thời Trần, trong khi các chuyên gia Việt Nam gọi đó là họa
tiết hình “hoa chanh”, trong mắt các nhà nghiên cứu Nhật Bản, đó lại là trang trí hình “vịng hoa đan xen”. Có
những loại vật liệu và cấu kiện kiến trúc mà thuật ngữ của chúng đã định hình trong giới nghiên cứu Trung
Quốc và Nhật Bản như “hồng lương” hay “uất đấu ngõa” (ngói lót nóc), nhưng ở Việt Nam lại chưa có thuật
ngữ, hoặc đang sử dụng một tên gọi hoàn toàn khác. Tất nhiên, mỗi nền kiến trúc đều có những đặc trưng và
hệ thống thuật ngữ riêng. Tuy nhiên, phải thừa nhận một thực tế rằng, có nhiều tên gọi mà chúng ta đang sử
dụng hoặc đến từ những quan sát hết sức chủ quan của một số nhà nghiên cứu thời hiện đại, hoặc bắt nguồn
từ một thứ “truyền thống” ra đời muộn hơn thời Lý - Trần. Nền kiến trúc Việt Nam thời Lý - Trần chắc chắn
đã từng chia sẻ rất nhiều điểm tương đồng với các nước Đông Á như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản. Tuy
nhiên, cùng với thời gian và những biến cố lịch sử, chúng ta đã bị cắt đứt với những truyền thống và nền tảng
tri thức mang tính phổ biến đó của khu vực.
Thực trạng nêu trên bắt nguồn một phần từ việc những người nghiên cứu tư liệu chữ viết, đương
nhiên có cả người viết, đã chưa thực sự làm tròn trách nhiệm nghiên cứu của mình. Bên cạnh các tư liệu “vật
chất”, văn bản - chữ viết là một nguồn tư liệu hết sức quan trọng để nghiên cứu kiến trúc thời Lý - Trần. Tuy
nhiên, từ trước đến nay, nguồn tư liệu này chưa được khai thác một cách triệt để. Gần đây, học giả Trần Kim
Anh đã thử sử dụng tư liệu văn bia thời Lý để tìm hiểu về “kiến trúc Phật giáo” thời kỳ này. Mặc dù trọng tâm
của bài viết thiên về phân tích bố cục già lam, nhưng đây là một cơng trình rất đáng chú ý về góc độ tiếp cận
(Trần Kim Anh, 2011). Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng nguồn tư liệu văn bản và chữ viết
chưa được tận dụng một cách đầy đủ là do tại Việt Nam, chúng ta thường có xu hướng sử dụng các bản dịch
tư liệu sang chữ quốc ngữ. Tuy nhiên, do một số dịch giả không nắm rõ các thuật ngữ kiến trúc cổ, nên có
nhiều chỗ hoặc dịch khơng chính xác (ví dụ “hồng lương” bị dịch thành “cột xà”, “củng lô” bị dịch thành “ngoài
hiên”...), hoặc do quá chú ý đến nhịp điệu văn chương trong bản dịch, chúng ta đã làm thất lạc nhiều thông
tin so với văn bản chữ Hán.
Nhận thức được vấn đề đó, người viết đã thử khảo sát lại các ghi chép liên quan đến kiến trúc trong
các nguồn tư liệu chữ viết “đồng đại” thời Lý - Trần, tương đương với giai đoạn thế kỷ 11 - 14. Nhóm tư liệu
thứ nhất là 79 kim thạch văn (bao gồm 19 minh văn thời Lý và 60 minh văn thời Trần). Một nguồn tư liệu quan
trọng khác là những ghi chép của người Trung Quốc thời Tống - Nguyên có đề cập đến kiến trúc Lý - Trần,
tiêu biểu là Quế hải ngu hành chí và An Nam tức sự. Quế hải ngu hành chí là tập bút ký do Phạm Thành Đại
(1126 - 1193) thời Tống biên soạn. Phạm Thành Đại từng giữ chức trưởng quan của Quảng Nam Tây lộ - đầu
mối thông tin giữa nhà Tống và Đại Việt. Do vậy, mặc dù cá nhân Phạm Thành Đại chưa từng sang Việt Nam,
cũng như một số thơng tin mà ơng tiếp cận mang tính truyền miệng, nhưng Quế hải ngu hành chí vẫn là một
nguồn tư liệu đồng đại và có độ tin cậy nhất định khi tìm hiểu về kiến trúc thời Lý. Trong khi đó, Trần Phu
(1259 - 1309) - tác giả của An Nam tức sự đã trực tiếp sang Việt Nam năm 1293 với tư cách là sứ giả của nhà
Nguyên. Trên đường đi, Trần Phu đã di chuyển bằng đường bộ qua dịch trạm Khâu Ôn (Lạng Sơn), dừng lại
vài ngày tại khách quán ở Thái sư phủ (phủ đệ của Trần Quốc Tuấn) ở Vạn Kiếp (Hải Dương), sau đó vào kinh
đơ Thăng Long. Dọc đường đi, Trần Phu đã có điều kiện quan sát nhiều loại hình kiến trúc, từ nhà dân, khách
quán, Thái sư phủ cho đến những cơng trình cao cấp nhất như điện Tập Hiền. Ghi chép của Trần Phu là một tư
46
THÔNG BÁO KHOA HỌC _ 2015
liệu “đồng đại” đặc biệt quan trọng để tìm hiểu về văn hóa, đặc biệt là kiến trúc của nhà Trần giai đoạn cuối
thế kỷ 131.
Các tư liệu nêu trên cung cấp rất nhiều thông tin quý báu như mặt bằng, quy trình xây dựng, các dụng
cụ và kỹ thuật kiến trúc được sử dụng dưới thời Lý - Trần… Tuy nhiên, trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi
chỉ tập trung xác định tên gọi đương thời của một số loại cấu kiện kiến trúc như “hồng lương”, đấu củng, các
loại ngói lợp mái, cũng như mối quan hệ giữa các loại cấu kiện kiến trúc đó với kết cấu bộ vì và đặc trưng bộ
mái của kiến trúc thời Lý - Trần. Ngồi ra, đương thời, có tin đồn cho rằng những người sáng lập hai vương
triều Lý - Trần đều là người đất Mân (Phúc Kiến)2, văn hóa thời Lý - Trần có mối quan hệ chặt chẽ với văn hóa
khu vực Trung - Nam Trung Quốc. Do vậy, trong bài viết này, chúng tôi cũng tham khảo Doanh tạo pháp thức
- bộ sách kiến trúc được biên soạn thời Bắc Tống, để làm rõ hơn đặc trưng kiến trúc thời Lý - Trần trên cơ sở
so sánh với kiến trúc Tống.
I. KẾT CẤU BỘ VÌ TRONG KIẾN TRÚC LÝ - TRẦN
1. Hồng lương 虹梁 - Nguyệt lương 月梁
Phân tích tư liệu minh văn thời Lý - Trần cho thấy trên bộ vì của kiến trúc gỗ thời Lý - Trần tồn tại một
loại cấu kiện gọi là “hồng lương” 虹梁 hay “nguyệt lương” 月梁. “Hồng lương” hay “nguyệt lương” là tên gọi
của rường cong, ví hình dáng chiếc rường như cầu vồng (“hồng”) hay trăng lưỡi liềm (“nguyệt”). Tại Trung
Quốc, tên gọi “hồng lương” đã xuất hiện từ thời Hán, nhưng đến thời Tống, tên gọi “nguyệt lương” được sử
dụng phổ biến hơn. Trong Doanh tạo pháp thức có ghi chép cụ thể về các chủng loại và kích thước của “nguyệt
lương” (Hình 2).
Có thể xác nhận sự tồn tại của “hồng lương” hay “nguyệt lương” dưới thời Lý - Trần qua bốn tư liệu
minh văn sau. Thứ nhất, trong Minh Tịnh tự bi văn (1090) có câu “huyền tinh tác đấu, yển nguyệt vi lương”
懸星作斗、偃月為梁 nghĩa là “treo sao làm đấu, nép trăng làm rường”. Tiếp theo, trong Bảo Ninh Sùng
Phúc tự bi (1107) có câu “lương yển phân hình, ngộ hồng song khóa” 樑偃分形、誤虹双跨 nghĩa là “rường
nép phân hình, tưởng như cầu vồng đơi nhịp”. Mặc dù không ghi trực tiếp là “hồng lương” hay “nguyệt
lương”, nhưng hai minh văn nêu trên đã nhắc đến một loại cấu kiện rường có hình giống “nguyệt” (trăng)
hoặc “hồng” (cầu vồng).
Tên gọi “hồng lương” chính thức xuất hiện trong một văn bia thời Lý là Sùng Nghiêm Diên Thánh tự bi
minh (1118). Trong minh văn này có câu “quán kỳ ẩm thủy hồng lương nhi hồi xuất, lâm phong uyên ngõa nhi
dực phi” 観其飲雨虹梁而廻出、臨風鴛瓦而欲翔 nghĩa là “trông kìa: rường cầu vồng uống mưa hồi xuất, ngói
un ương đón gió muốn bay”. Sang đến đầu thời Trần, Thiệu Long tự bi minh (1226) có câu “hồng lương tủng
thúy, bảo chủng tân tiên” 虹梁聳翠、宝種新鮮 tạm dịch là “hồng lương vươn cao, bảo khí tươi nguyên”.
Căn cứ vào các tư liệu nêu trên, có thể khẳng định dưới thời Lý - Trần, tồn tại một loại cấu kiện gọi
là “hồng lương” hay “nguyệt lương”, tức rường cong hình cầu vồng hoặc hình trăng lưỡi liềm. Loại cấu kiện
này được sử dụng trong các cơng trình kiến trúc như chùa Minh Tịnh (1090), Bảo Ninh Sùng Phúc (1107),
Sùng Nghiêm Diên Thánh (1118), Thiệu Long (1226)3. Theo quy cách kiến trúc cổ của Trung Quốc và Nhật Bản,
“hồng lương” - rường cong được sử dụng tại các vị trí như xà lịng (rường bắc qua hai cột cái, tại Việt Nam gọi
Liên quan đến An Nam tức sự, xin xem thêm (Trần Nghĩa, 1972).
Liên quan đến tin đồn về Đại Việt trên đất Tống, xin tham khảo thêm (Phạm Lê Huy, 2014).
Ngoài ra, liên quan đến sự tồn tại của cấu kiện “rường”, Đại Việt sử kí tồn thư cho biết năm 1257, khi giặc Nguyên đánh vào Thăng Long, nhà Trần đã giấu ngọc tỷ lên
“Đại Minh điện lương thượng”, cho thấy cấu kiện rường (“lương”) được sử dụng trong kiến trúc Đại Minh điện.「時帝親率六師禦寇、掌印官倉卒蔵宝璽於大明殿梁上、
但帯内密印隨行、途中印又亡、軍中文書無印、帝命工刻木為之、及駕回京、又有進亡印者、所蔵宝璽依然猶在」
(『大越史記全書』本紀巻五、陳太宗、丁巳元豊七年
宋宝祐五年〈1257年〉条)。
1
2
3
BULLETIN OF SCIENCES _ 2015
47
2
3
4
Hình 2
“Nguyệt lương” trong Doanh tạo
pháp thức
(Nguồn: Takeshima, 1970)
Hình 4
“Đại hồng lương” và “Nhị trùng hồng lương”
trong kiến trúc cổ Nhật Bản
(Nguồn: Đại bách khoa tồn thư Nhật Bản)
Hình 3
Mặt cắt “củng” trong Doanh tạo
pháp thức
Hình 5
“Lơ (đấu)” trong Doanh tạo pháp thức
(nguồn: Takeshima, 1970)
Hình 6
“Vân củng” trong Doanh tạo pháp thức
(nguồn: Takeshima, 1970)
48
THƠNG BÁO KHOA HỌC _ 2015
5
Hình 7
Hoa văn “Vân” - “Hà” trong Doanh
tạo pháp thức
(nguồn: Takeshima, 1970)
Hình 8
Hoa văn “mây” trên đấu củng tháp
Bình Sơn
Hình 9
Mặt cắt thượng điện chùa Dâu
(nguồn: Aoyama, 2004)
6
7
9
8
BULLETIN OF SCIENCES _ 2015
49
10
11
Hình 10
Cấu trúc bộ vì gồm hai hồng lương trong
Doanh tạo pháp thức
(nguồn: Takeshima, 1970)
Hình 11
Đầu ngói ống và ngói vảy tráng men trắng
thời Lý - Trần phát hiện tại Hoàng thành
Thăng Long
12
(Trái: Ban Quản lý Dự án Hoàng thành
Thăng Long - Viện Khảo cổ học.
Phải: Ảnh tác giả)
Hình 12
Ngói tráng men xanh phát hiện tại Hồng
thành Thăng Long
(ngói ống và ngói bờ nóc thời Lý)
(Trái: Ban Quản lý Dự án Hồng thành
Thăng Long. Phải: TTBT 2014)
Hình 13
“Un ngõa” phát hiện tại Hồng thành
Thăng Long (ngói úp nóc và ngói ống)
13
50
THÔNG BÁO KHOA HỌC _ 2015
(nguồn: TTBT 2014)
là “câu đầu” 拘頭4, “chếnh” hoặc “trến”) hoặc “rường bụng lợn” (cũng là một loại rường cong, là rường nằm
phía trên của cấu trúc “chồng rường”) (Hình 4).
2. Đấu củng 斗栱
Như chúng ta đã biết, “đấu củng” 斗栱 là một thuật ngữ kiến trúc bắt nguồn từ Trung Quốc. “Đấu củng”
là một kết cấu bao gồm hai bộ phận là “đấu” (đóng vai trị là bệ đỡ) và “củng” (giống hình khuỷu tay nên cịn
được ghi là 肘木, đóng vai trò là tay đỡ), được dùng để đỡ một kết cấu khác bên trên, ví dụ như mái hiên.
Trong các nghiên cứu trước đây, dựa trên hai mơ hình kiến trúc nhà thời Trần phát hiện tại Nam Định
và Thái Bình, cũng như quan sát cấu trúc vì nóc của thượng điện chùa Dâu, Thái Lạc, Bối Khê, Trịnh Cao Tưởng
và Hà Văn Tấn đã suy đoán về sự tồn tại của đấu củng trong kiến trúc thời Trần (Trịnh Cao Tưởng, 1978, Hà
Văn Tấn, 1993). Nghiên cứu của Tomoda Masahiko - Shimizu Shinichi cũng cho thấy một số mô hình kiến trúc
đất nung thời Lý - Trần có thể hiện đấu củng (Tomoda Masahiko - Shimizu Shinichi, 2012). Trong bài viết này,
trên cơ sở phân tích các minh văn thời Lý - Trần, chúng tôi muốn bổ sung thêm một số bằng chứng tư liệu chữ
viết giúp khẳng định sự tồn tại của đấu củng trong kiến trúc Lý - Trần. Dựa trên những tư liệu này, chúng tôi
cũng muốn đưa ra một số nhận định về màu sắc, mơ típ trang trí cũng như hoa văn trên đấu củng, xét trong
mối quan hệ với các cấu kiện khác.
Về cấu kiện “đấu” 斗, trong Minh Tịnh tự bi văn (1090) có câu “huyền tinh tác đấu, yển nguyệt vi
lương” 懸星作斗、
偃月為梁 tức là “treo sao làm đấu, uốn trăng làm rường”. Trong trường hợp này, đấu được
ví là sao, được sử dụng kết hợp với rường cong, được ví là trăng lưỡi liềm. Ngoài ra, Sùng Thiện Diên Linh tháp
bi (1121) có câu “lũ trinh mai nhi tác đấu, trác thúy vũ dĩ thành doanh” 鏤貞玟而作斗、
琢翠碔以成楹 nghĩa
là “chạm đá đỏ làm đấu, mài đá vũ xanh làm hiên”. Do tháp Sùng Thiện Diên Linh được xây bằng đá nên trong
minh văn này, vật liệu làm “đấu” được miêu tả là “trinh mai” (đá đỏ).
Kết cấu “đấu củng” bao gồm hai thành phần “lô” 櫨 (đấu lớn) và “củng” 栱 được thể hiện rõ nhất trong
hai tư liệu sau. Trong Tư Lang châu Sùng Khánh tự chung minh (1113) có câu “đan lô phụng nhật, họa củng
thừa vân” 丹櫨捧日,
画栱承雲. “Lô” trong “đan lô” là đấu lớn (tiếng Nhật gọi là đại đấu 大斗, hiện nay tại Việt
Nam chúng ta hay gọi là “đấu vng thót đáy lớn”) đặt trực tiếp lên cột. Doanh tạo pháp thức ghi rất rõ về cấu
kiện này: “phép tạo đấu có 4 loại. Thứ nhất là lơ đấu, đặt trên đầu cột”5 (Hình 3,5). Cấu kiện “lô” này cũng được
ghi chép trên Viên Quang tự bi minh (1210), trong câu “triều vân sinh vu lương đống, mộ hà ánh vu củng lô” 朝
雲生於梁棟、
暮霞映於栱櫨, nghĩa là “mây sớm sinh tại rường nóc, ráng chiều rọi ở củng lô”6.
Không chỉ khẳng định sự tồn tại của “đấu củng”, các tư liệu chữ viết đồng đại còn cung cấp thêm một
số thông tin quý báu về màu sắc và họa tiết trang trí trên đấu củng. Đấu củng thời Lý - Trần không chỉ là các
cấu kiện để nguyên màu gỗ, trong một số trường hợp, nó cịn được sơn son. Trong Tư Lang châu Sùng Khánh
tự chung minh (1113) (tư liệu dẫn ở trên) có chữ “đan lơ”. “Đan” 丹 là màu đỏ. Ví dụ, khoảng sân lát gạch đỏ
phía trước chính điện ở kinh đơ thường được gọi là “đan trì” hay “đan đình”. Như vậy, “đan lơ” cần được hiểu
là cấu kiện lơ được sơn son.
Ngồi ra, đấu củng cịn được điêu khắc thành hình “vân” (mây), hoặc có các họa tiết trang trí dạng
“vân” (mây) hoặc “hà” (ráng chiều). Tư Lang châu Sùng Khánh tự chung minh (1113) dùng chữ “họa củng” 画
栱, tức là củng được vẽ - trang trí. Điều đáng chú ý ở đây là chữ “họa củng” được dùng trong câu “họa củng
thừa vân”, nghĩa là “củng vẽ đội mây”. Viên Quang tự bi minh (1210) cũng chép: “triều vân sinh vu lương đống,
mộ hà ánh vu củng lô” 朝雲生於梁棟、
暮霞映於栱櫨, nghĩa là “mây sớm sinh tại rường nóc, ráng chiều rọi ở
“Câu” nghĩa là cong, “câu đầu” nghĩa là rường đầu cong, chính là đặc điểm của “hồng lương”.
「枓(其名有五、一曰楶、二曰栭、三曰櫨、四曰㭼、五曰枓)造枓之制、有四一曰櫨枓、施之於柱頭、其長与広皆三十二分、若施於角柱之上者、方三十
六分」(『営造法式』巻四、枓)。
6
Ngồi ra, trong Báo Ân thiền tự bi ký (1185-1214) cũng có một câu văn nhiều khả năng thể hiện đấu củng. Đó là câu “thải công dung chuẩn nhi kết khoa” 貸工容準而結
科. Trong các bản dịch trước đây, câu này thường được dịch là “th người vẽ kiểu, tính tốn vật tư”. Tuy nhiên, chữ “kết khoa” vốn khơng có nghĩa, dịch là “tính tốn vật
tư” cũng rất khiên cưỡng. Chữ “khoa” 科 có thể là khắc nhầm của chữ “đấu” 枓 khi văn bia này được khắc lại.
4
5
BULLETIN OF SCIENCES _ 2015
51
củng lô”. Chúng tôi cho rằng đây không đơn thuần là những diễn đạt hoa mỹ trong văn chương, mà chỉ hình
dáng, hoặc những họa tiết trang trí hình “vân” (mây) và “hà” (ráng) trên các cấu kiện thực tế. Theo Doanh tạo
pháp thức, trong kiến trúc thời Bắc Tống có loại cấu kiện gọi là “vân củng” (Hình 6), cũng như các mơ típ trang
trí hình “vân” (mây) và “hà” (ráng chiều) (Hình 7). Mặc dù có cách thể hiện tương đối khác biệt với nhà Tống,
nhưng họa tiết hình “vân” hay “hà” được thể hiện khá phổ biến trên nhiều đồ án mỹ thuật thời Lý - Trần. Đặc
biệt, miêu tả đấu củng trên tháp Bình Sơn cũng cho thấy các họa tiết trang trí hình “vân” (Hình 8).
Việc sơn son đấu củng có lẽ để đảm bảo màu sắc tiệp với màu cột. Việc cột thời Lý - Trần được sơn
vẽ các họa tiết trang trí có thể thấy trong câu “trụ sắc điểm phương hoa diệu thái, minh châu ánh chiếu sơn
hà” 柱色点芳花耀彩、
明珠映照山河 nghĩa là “màu cột tô điểm: hoa thơm đua sắc, minh châu chiếu rọi non
sông” của Báo Ân thiền tự bi ký (1185 - 1214). Ngoài ra, sắc sơn đỏ của tự viện cũng được nhắc đến trong
Thiệu Long tự bi minh (1226) với câu “đan hoạch tân tiên nhi huyền thái” 丹雘新鮮而玄彩, nghĩa là “màu
son tươi nguyên một màu”. Đặc biệt, sách Quế hải ngu hành chí do Phạm Thành Đại 范成大 (1126 - 1193)
soạn vào thế kỷ 12 khi miêu tả về cung điện nhà Lý cũng nhắc đến việc kiến trúc được sơn son, cột được vẽ
họa tiết hình “long, hạc, tiên nữ” như sau:
酋居楼四層、上以自居、第二層御宙居之、中人也、第三層箇利就居之、老鈴下之属也、第四層軍
士居之、又有水晶宮天元殿等、諸僭擬名字、門別有一楼、猶榜曰安南都護府、屋皆朱漆、柱画龍鶴仙女7.
Tạm dịch:
Tù trưởng [tức hoàng đế nhà Lý - PLH] ở trong lầu 4 tầng, tự mình ở tầng trên cùng. Tầng thứ hai [từ
trên xuống - PLH] khi trị thiên hạ (?), [hoàng đế] ở đây. Có bọn hoạn quan. Tầng thứ ba là mỗi lần bàn việc (?),
[hồng đế] ở đây. Có bọn liêu thuộc lớn tuổi (?). Tầng thứ tư để quân sĩ ở. Lại có Thủy Tinh cung, Thiên Nguyên
điện, đều tự tiện lấy danh tự [tên cung điện Trung Quốc - PLH] để đặt. Ngồi ra cịn có một tịa lầu, bên cạnh
có bảng đề tên “An Nam Đơ hộ phủ”. Nhà cửa đều sơn son, cột vẽ hình long, hạc, tiên nữ.
3. Phân tích về bộ vì thời Lý - Trần
Trên đây, thơng qua phân tích các tư liệu chữ viết đồng đại, chúng tôi đã chứng minh sự tồn tại của các cấu
kiện “đấu”, “lô”, “củng”, kết cấu “củng lô”, “hồng lương” (hoặc “nguyệt lương” - rường cong) trong kết cấu vì kèo thời
Lý - Trần. Chúng tơi cũng cung cấp các bằng chứng về việc sơn son các cấu kiện cột, đấu củng, trang trí hoa văn hình
“vân” (mây), “hà” (ráng chiều) trên rường, đấu củng, trang trí “long”, “hạc”, “tiên nữ” trên cột. Trên cơ sở đó, chúng
tôi muốn đối chiếu với các kết quả nghiên cứu đi trước, từ đó làm rõ hơn về cấu trúc bộ vì thời Lý - Trần.
Trước đây, để tìm hiểu về kết cấu bộ vì các giai đoạn trước thời Lê, chúng ta thường nghiên cứu bộ
vì nóc thượng điện của các chùa Dâu, Thái Lạc, Bối Khê. Bộ vì nóc thượng điện của ba ngơi chùa trên chia sẻ
những đặc điểm chung, được cho thể hiện quy cách kiến trúc cổ vào “thời Trần” (Hà Văn Tấn, 1993) hoặc một
khung niên đại rộng hơn là “thế kỷ 14 - 16” (Oyama Akiko, 2004). Về đặc điểm của các bộ vì này, có thể tổng
hợp các phân tích của Hà Văn Tấn và Oyama Akiko như sau (Hình 9):
- Bộ vì làm theo kiểu “chồng rường giá chiêng”. Nó bao gồm một xà lòng (Hà Văn Tấn gọi là “câu đầu”,
Oyama gọi là “hồng lương”) tỳ lực lên hai đầu cột cái qua hai đấu lớn (Việt Nam gọi là “đấu vng thót đáy”,
phía Nhật gọi là “đại đấu”).
- Phía trên xà lịng = “câu đầu” = “hồng lương” có một cấu kiện dạng ván gỗ. Trên ván gỗ đặt hai trụ
giá chiêng (trụ trốn) để đỡ rường cong (cũng là “hồng lương”, Hà Văn Tấn gọi là “rường bụng lợn” hay “con
cung”). Hai trụ giá chiêng được chạm khắc tinh xảo.
- Ở giữa hai trụ giá chiêng là một tấm ván hình lá đề (“cốn”) được điêu khắc tinh xảo.
7
『文献通考』
巻三百三十所引『桂海虞衡志』。
52
THÔNG BÁO KHOA HỌC _ 2015
Trong đó, đặc điểm xà lịng = “câu đầu” = “hồng lương” không trực tiếp ăn mộng vào đầu cột cái
(xuyên vào hai cột cái), mà tỳ lực lên cột cái qua trung gian là hai đấu lớn được các chuyên gia Nhật Bản đặc
biệt chú ý. Tomoda Masahiko - Shimizu Shinichi - Ota Shoichi chỉ ra rằng trên một số phù điêu và mơ hình tháp
đất nung thời Lý - Trần cũng thể hiện cấu trúc tương tự, cho thấy kết cấu cột - đấu lớn - rường, không có xà
đầu cột (xà/rường ăn mộng trực tiếp vào cột), cũng được sử dụng trên bộ khung kiến trúc thời Lý - Trần, và
có thể là một đặc trưng kiến trúc “giai đoạn sớm” của Việt Nam.
Phân tích tư liệu minh văn thời Lý trong bài viết này cho thấy nhiều khả năng kết cấu cột - đấu lớn rường trên đã xuất hiện từ thời Lý. Các loại cấu kiện như đấu (“đấu” - “lô”) và rường cong (“hồng lương”) đã
được miêu tả trong minh văn thời Lý. Đặc biệt, trong Minh Tịnh tự bi văn (1090), rường cong và đấu được miêu
tả thành một bộ, được ví như trăng và sao. Điều này cho thấy: nhiều khả năng tại chùa Minh Tịnh được xây dựng
cuối thế kỷ 11, rường cong được bắc trên đấu, chứ không ăn mộng trực tiếp vào cột. Đó là vì nếu chốt rường ăn
trực tiếp vào mộng cột, sẽ không cần cấu kiện đấu. Nói cách khác, kết cấu cột - đấu lớn - rường tương tự như
những gì chúng ta đang thấy trên vì nóc thượng điện chùa Dâu, Thái Lạc, Bối Khê có thể đã xuất hiện từ thời Lý.
Chúng tơi cũng muốn chú ý đến câu “lương yển phân hình, ngộ hồng song khóa” 樑偃分形、誤虹
双跨. Chữ “khóa” ở đây nghĩa là “nhịp” trong nhịp cầu. Vì vậy, câu này có thể hiểu là “rường xếp phân hình,
tưởng như cầu vồng đơi nhịp”. “Đơi nhịp” có thể có 2 ý nghĩa: (1) hoặc nó chỉ kết cấu “chồng rường” với 2
rường cong như ta thấy ở vì nóc thượng điện các chùa Dâu, Thái Lạc, Bối Khê; (2) hoặc nó chỉ kết cấu 2 nhịp
vì sử dụng rường cong như có thể thấy trong Doanh tạo pháp thức (Hình 10).
II. NGĨI LỢP MÁI VÀ KẾT CẤU MÁI THỜI LÝ - TRẦN
Các kết quả điều tra khai quật tại Hoàng thành Thăng Long cũng như các di tích tự viện thời Lý - Trần
cho thấy: đương thời, ngói được sử dụng phổ biến trong các cơng trình cung điện và kiến trúc Phật giáo. Xem
xét các nguồn tư liệu văn bản, có thể thấy việc sản xuất - sử dụng ngói đã được nhà Lý khuyến khích trong một
khoảng thời gian ngắn cuối thế kỷ 11, cụ thể là giai đoạn 1084 - 1097 dưới triều Lý Nhân Tơng. Sau đó, đến
năm 1097, chỉ có các cơng trình kiến trúc cao cấp mới được lợp ngói. Cụ thể, vào tháng 11 năm 1084 (Anh Võ
Chiêu Thắng 9), Lý Nhân Tông ban hành chiếu thư lệnh cho “thiên hạ” tạo ngói lợp nhà8. Tuy nhiên, theo Đại
Việt sử lược, chỉ 13 năm sau, tức năm 1097 (Hội Phong 6), nhà Lý lại cấm “bách tính” - tức thường dân làm
nhà lợp ngói9. Như vậy, có thể cho rằng nhà Lý muốn lấy lệnh cấm năm 1097 để phân biệt các kiến trúc của
tầng lớp dân thường với các kiến trúc của hoàng đế, tầng lớp quý tộc, các cơ sở tôn giáo.
Đối với các loại hiện vật ngói đã phát lộ, từ trước đến nay, chúng ta thường gọi chúng bằng những tên
gọi mang tính thói quen (những tên gọi “truyền thống”, dù chúng ta khơng biết “truyền thống” đó mới có từ thời
nào), hoặc đặt cho chúng những tên gọi mới, dựa trên những quan sát chủ quan về hình dạng. Ví dụ, với cùng một
loại ngói, hiện nay chúng ta sử dụng rất nhiều tên gọi khác nhau, không thống nhất như “ngói mũi sen”, “ngói cánh
sen”, “ngói mũi hài”, “ngói vảy cá”, “ngói vảy rồng”… Vấn đề đặt ra là người thời Lý - Trần đã sử dụng những tên gọi
như thế nào? Trong phần này, để khảo sát về cấu trúc bộ mái thời Lý - Trần, trước tiên, dựa trên các nguồn tư liệu
chữ viết đồng đại như minh văn và miêu tả của sứ giả nhà Nguyên, chúng tôi sẽ thử khảo sát tên gọi các loại ngói
lợp mái dưới thời Lý - Trần. Cũng dựa trên ghi chép của sứ Nguyên, chúng tôi sẽ làm rõ một phần kỹ thuật lợp mái
vảy thời Trần. Cuối cùng, chúng tơi sẽ trình bày một vài suy nghĩ của mình về đặc điểm cấu trúc bộ mái thời Trần.
1. Tên gọi một số loại ngói lợp mái và kỹ thuật lợp ngói mái vảy
Qua khảo sát tư liệu chữ viết đồng đại, có thể thấy dưới thời Lý - Trần, tồn tại các loại thuật ngữ chỉ
ngói như sau:
8
「冬十一月、
詔国中造瓦屋」
(『越史略』巻中、甲子英武昭勝九年〈1084年〉
十一月条)。
「 詔天下造瓦蓋屋」
(『大越史記全書』本紀巻三、李仁宗、甲子英武昭勝九年宋
元豊七年〈1084〉条)。
9
「冬十一月、
禁百姓造瓦屋大舟」
(『越史略』巻中、丁丑会豊六年〈1097〉
条)。
BULLETIN OF SCIENCES _ 2015
53
14
15
16
17
Hình 14
Mơ hình “nhà” đất nung phát hiện tại
Vụ Bản (Nam Định)
Hình 16
Ngói vảy có lỗ (vị trí lỗ tương ứng với vị
trí cài mấu)
(Ảnh: Tác giả)
(Trái: Đặng Hồng Sơn, 2013.
Phải: VKHXHVN, 2010)
Hình 15
“Hàng tàu” để cố định ngói hiên trong
cách lợp ngói vảy thời cận hiện đại
(nguồn: www.gachngoidatviet.com)
54
THƠNG BÁO KHOA HỌC _ 2015
Hình 17
Minh họa cách lợp ngói vảy thời Trần
(Thiết kế 3D: Nguyễn Minh Hiệu,
Trường FPT Arena)
1.1.“Kim ngõa” 金瓦 - Ngói vàng và “Ngân ngõa” 銀瓦 - Ngói bạc
“Ngân ngõa” được nhắc đến lần đầu tiên trong các ghi chép của Đại Việt sử lược hay Đại Việt sử ký
toàn thư về cung điện của nhà Tiền Lê tại Hoa Lư10. Theo đó, các cung điện của Lê Đại Hành đều được lợp bằng
“ngân ngõa”. Theo ghi chép của Đại Việt sử lược, lầu Chúng Tiên được xây dựng vào thế kỷ 12 có lợp “kim
ngõa” - ngói vàng ở tầng trên và “ngân ngõa” - ngói bạc ở tầng dưới11. Sùng Thiện Diên Linh tháp bi (1121)
- một nguồn tư liệu chữ viết đồng đại - cũng xác nhận “ngân ngõa” được sử dụng tại kiến trúc này qua câu:
“cấu Chúng Tiên tam cấp chi bảo đài, ngân ngõa điệp nhi quang chiếu khung mân” 構衆仙三級之宝台、銀瓦
疊而光照穹旻, nghĩa là “xây đài Chúng Tiên ba cấp, ngói bạc trùng điệp chiếu rọi vòm xanh”.
Tuy nhiên, xét về mặt kinh tế và kỹ thuật, việc sử dụng vàng hay bạc để sản xuất ngói dường như là
phi thực tế. “Ngân ngõa” nhiều khả năng chỉ là tên gọi phiếm chỉ của loại ngói phủ men trắng. Liên quan đến
loại ngói này, Đại Việt sử ký tồn thư cho biết năm 1105, tại chùa Diên Hựu xây hai tòa tháp mái trắng - “bạch
manh12 tháp” 白甍塔13. Sùng Thiện Diên Linh tháp bi (1121) gọi hai tháp của chùa Diên Hựu là “lưu ly bảo
tháp” 瑠璃宝塔. Trong Doanh tạo pháp thức, ngói lưu ly được định nghĩa là ngói phủ men 薬14. Như vậy, tháp
mái trắng mà Đại Việt sử ký tồn thư nhắc đến là tháp lợp ngói phủ men trắng, tương tự với loại ngói mà
chúng ta đã phát hiện tại Hồng thành Thăng Long (Hình 11).
1.2. “Bích ngõa” 碧瓦 - Ngói men xanh
Thiên Phúc tự hồng chung minh văn (1109) có nhắc đến sự tồn tại của một loại ngói gọi là “bích
ngõa” (ngói xanh) trong câu “thải tử kỉ mộc, đào bích ngõa lơ” 採梓杞木、陶碧瓦爐, tạm dịch là “tìm chọn
gỗ q, nung lị ngói xanh”. “Bích” là màu xanh ngọc, “bích ngõa” có thể hiểu là ngói phủ men xanh màu ngọc
bích, tương tự như những hiện vật chúng ta tìm thấy tại Hồng thành Thăng Long (Hình 12).
1.3. “Un ngõa” 鴛瓦 - Ngói un ương
Như Trần Kim Anh cũng đã nhắc đến, Sùng Nghiêm Diên Thánh tự bi minh (1118) sử dụng thuật ngữ
“uyên ngõa” để chỉ ngói uyên ương, trong câu “lâm phong uyên ngõa nhi dực phi” 臨風鴛瓦而欲翔, tức là
“ngói uyên ương đón gió như muốn bay” (Trần Kim Anh, 2011). Như vậy, chúng ta có thể biết loại hình di vật
ngói có trang trí hình un ương đương thời (thế kỷ 12) được gọi là “un ngõa” (Hình 13).
1.4. Ngói vảy và “Liên ngõa” 蓮瓦 - Ngói sen
Tại các di tích thời Lý - Trần, chúng ta đã tìm được rất nhiều hiện vật ngói lợp mái khơng thuộc loại
hình ngói âm dương. Mặc dù có nhiều biến thể khác nhau, nhưng theo chúng tơi, có thể xếp chung các loại
“ngói mũi sen”, “ngói mũi sen kép”, “ngói mũi lá” trong một nhóm chung, tạm gọi là “ngói vảy” 鱗瓦, xuất
phát từ đặc điểm khi được lợp trên mái, nó tạo thành hình giống như vảy cá.
Đứng từ góc độ tư liệu chữ viết, qua việc khảo sát minh văn thời Lý - Trần, chúng ta thấy tư liệu sớm
nhất đề cập đến nhóm “ngói vảy” nêu trên là Càn Ni sơn Hương Nghiêm tự bi minh (1125) với câu: “thiềm
10
「甲申天福四年、造百宝千歳殿於火雲山、其柱裹以金銀、東建風流殿、西建栄華殿、左建蓬莱殿、右建極楽殿、次構火雲楼、連起長春殿、其側起龍禄殿、蓋以銀瓦」
(『越史略』巻下、甲申天福四年〈984〉条)。
「大興宮室,造百宝千歳殿于大雲山、其柱装之以金銀、為視朝之所、東曰風流殿、西曰紫華殿、左曰蓬莱殿、右曰極楽殿、
次槅大雲楼、連起長春殿、以為御寝之処、長春殿側、又起龍禄殿、蓋以銀瓦」
(『大越史記全書』本紀巻一、黎大行、甲申天福五年宋雍熙元年〈984〉条)。
11
Về thời điểm xây dựng đài Chúng Tiên, trong khi Đại Việt sử lược lại chép năm 1162 (Đại Định 23), Đại Việt sử ký toàn thư lại chép vào năm 1120 (Thiên Phù Duệ Vũ nguyên
niên). Chúng tôi cho rằng ghi chép của Đại Việt sử ký tồn thư là chính xác, vì Sùng Thiện Diên Linh tháp bi được tạo lập năm 1121 đã nhắc đến kiến trúc của đài Chúng Tiên.
「壬午大定二十三年(中略)秋造衆仙台、
上層盖以金瓦、下層盖以銀瓦」
(『越史略』巻下、壬午大定二十三年〈1162〉
秋条)。
12
Chữ “manh” nguyên chỉ “cái rui, đóng trên mái nhà để móc ngói vào” (Từ điển Thiều Chửu). Trong một số minh văn, ví dụ như Sùng Nghiêm Diên Thánh tự bi minh (1118),
xuất hiện từ “phi manh”. Tuy nhiên, “phi manh” không phải là “rui bay”, mà chỉ mái ngói nói chung. Ví dụ trong Văn tuyển có câu “kinh thành thập nhị cù, phi manh các lân
thứ” 京城十二衢,飛甍各鱗次, tạm dịch là “kinh thành mười hai ngả, mái ngói liên tiếp như vảy cá”.
13
「秋九月、作白甍塔於延祐寺二、作石甍塔於覧山寺三、時帝重修延祐寺、増於旧貫,浚蓮花台池、名曰霊沼池、池之外繚以画廊、廊之外又疏碧池、並架飛橋以通
之、庭前立宝塔、以月之朔望及夏之四月八日、車駕臨幸、設祈祚之儀、陳浴佛之式、歲以為常」
(『大越史記全書』本紀巻三、李仁宗、乙酉龍符五年宋崇寧四年〈1105
年〉九月条)。
「凡造瑠璃瓦等之制、薬以黄丹、洛河石、和銅末、用水調匀(冬月以湯)、
㼧瓦(後略)」
(『営造法式』巻十五)。
14
BULLETIN OF SCIENCES _ 2015
55
huy hân sí, ngõa điệp bài lân” 簷翬掀翅、瓦疊排鱗, nghĩa là “mái hiên bay cao như cánh chim, ngói xếp như
bày vảy cá”. Như vậy, chúng ta thấy rằng ngói vảy đã được sử dụng trong các cơng trình tự viện muộn nhất từ
nửa đầu thế kỷ 12.
Trong nhóm “ngói vảy” có loại hình ngói có mũi cong lên, hiện nay được gọi bằng nhiều tên gọi như
“ngói mũi hài”, “ngói mũi sen” hoặc “ngói cánh sen”. Tuy nhiên, khi khảo sát minh văn thời Lý - Trần, có thể
thấy người đương thời khơng gọi loại ngói này là ngói “mũi hài”, “mũi sen” hay “cánh sen”, mà chỉ đơn giản
gọi là “liên ngõa” - ngói sen. Thiệu Long tự bi minh (1226) là tư liệu sớm nhất nhắc đến tên gọi “liên ngõa” ngói sen với câu “liên ngõa vạn tầng lân tự, hiểu lộ tích tích nghi châu” 蓮瓦万層鱗似、暁露滴滴疑珠, nghĩa
là “Ngói sen ngàn lớp tựa vẩy cá, sương sớm giọt giọt ngỡ hạt châu”.
Tên gọi “liên ngõa” - ngói sen cũng được nhắc đến trong Hưng Phúc tự bi minh (1324), một văn bia
được soạn vào đầu thế kỷ 14. Trong minh văn này có câu “Phật điện cái dĩ liên ngõa” 仏殿蓋以蓮瓦, tức là
“Phật điện lợp bằng ngói sen”. Tư liệu này cho thấy đến đầu thế kỷ 14, “liên ngõa” là loại ngói được sử dụng
cho các kiến trúc đẳng cấp cao. Cụ thể, tại chùa Hưng Phúc, ngói sen được dùng để lợp Phật điện (tịa điện
đặt tượng Phật) - kiến trúc quan trọng nhất trong tự viện. Liên quan đến vấn đề này, chúng ta cũng có thể
tham khảo mơ hình kiến trúc đất nung phát hiện tại Vụ Bản (Nam Định). Từ trước đến nay, người ta thường
coi đây là một mơ hình “nhà”. Tuy nhiên, xét từ việc hai bên trái - phải của kiến trúc trung tâm có bố trí bệ bia
và bệ dường như là bệ tháp, đây nhiều khả năng là mơ hình của một quần thể kiến trúc tự viện. Như Oyama
đã chỉ ra, kiến trúc trung tâm được lợp bằng ngói sen, trong khi một phần tường bao được lợp bằng ngói ống
(Oyama Akiko, 2012), cho thấy đương thời, có sự phân biệt đẳng cấp trong việc sử dụng ngói sen và ngói ống.
Từ trước đến nay, tại các di tích thời Trần, chúng ta tìm được rất ít ngói âm dương (ngói ống và ngói phẳng),
chủ yếu chỉ tìm thấy ngói vảy. Qua khảo sát các tư liệu chữ viết, chúng ta có thể khẳng định rằng ngói vảy đã được
sử dụng một cách hết sức phổ biến vào cuối thế kỷ 13. Trong An Nam tức sự, Trần Phu - sứ giả nhà Nguyên sang Đại
Việt năm 1293 - đã rất ấn tượng về loại hình ngói này, và ghi lại trong tập bút ký của mình như sau:
魚鱗簷粲瓦(中略)瓦形如板、上正方而鋭其下之半、如古圭、然横半竹以為桟、以竹釘
釘其瓦于栈上、自簷以次相圧至屋脊、宛如魚鱗、
Tạm dịch:
Hiên vảy cá rực rỡ màu ngói [lược một đoạn] Ngói có hình như tấm ván, phần trên hình chữ nhật nhưng
nửa dưới thn nhọn, giống như miếng ngọc khuê thời cổ. Đặt ngang nửa cây tre (“bán trúc”) làm “sạn”, lấy
đinh tre đóng ngói đó vào “sạn”. Từ mái hiên lợp tuần tự đè lên nhau đến bờ nóc (“ốc tích”), tựa như vảy cá.
Tại sao Trần Phu lại quan tâm đặc biệt đến ngói vảy như vậy? Lý do trước tiên có thể nghĩ đến là đối
với Trần Phu cũng như nhiều người Trung Quốc thời bấy giờ, ngói vảy là một loại cấu kiện rất hiếm gặp. Trên
thực tế, khi đọc phần “ngõa tác” (tạo ngói) của Doanh tạo pháp thức - bộ bách khoa thư về kiến trúc thời Bắc
Tống, chúng ta thấy bộ sách này chỉ đề cập đến ngói âm dương mà khơng có một dịng nào viết về ngói vảy.
Tuy nhiên, người viết cho rằng còn một vấn đề nữa cần hết sức chú ý khi đọc ghi chép của Trần Phu. Nếu nhìn
vào các hiện vật ngói thời Lý, có thể chắc chắn rằng dưới thời Lý, ngói ống được sử dụng rất phổ biến, nhiều
cơng trình kiến trúc lợp ngói ống của thời Lý sau này đã được kế thừa dưới thời Trần. Tuy nhiên, trong hai
cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên (1284 - 1285 và 1287 - 1288), rất nhiều cơng trình lợp ngói âm dương
(ngói ống và ngói phẳng) có từ thời Lý đã bị đốt phá. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, năm 1288, khi quay trở lại
kinh đơ, Thượng hồng nhà Trần đã phải nghỉ tại “hành lang của thị vệ” do “cung điện đã bị giặc Nguyên đốt
hết”15. Như vậy, vào cuối thế kỷ 13, nhà Trần đã phải xây dựng lại rất nhiều cung điện và tự viện. Kết hợp ghi
chép của Trần Phu với việc tỷ lệ ngói vảy chiếm đa số trong ngói khai quật được tại các di tích Trần, người viết
cho rằng thời điểm cuối thế kỷ 13 chính là giai đoạn chuyển giao trong dịng chủ lưu sử dụng ngói, từ ngói ống
sang ngói vảy trong lịch sử kiến trúc Việt Nam.
「夏四月、上皇御侍衛廊、宮殿、時為賊所焚故也」
(『大越史記全書』本紀巻五、陳仁宗、戊子重興四年〈1288年〉四月条)。
15
56
THÔNG BÁO KHOA HỌC _ 2015
2. Kỹ thuật lợp ngói vảy dưới thời Trần
Mặc dù chúng ta khơng rõ loại ngói vảy mà Trần Phu đề cập trong An Nam tức sự là ngói sen hay ngói
mũi lá, nhưng An Nam tức sự đã cung cấp những thông tin rất quan trọng để làm rõ cách thức lợp ngói vảy
(bao gồm cả ngói sen và ngói mũi lá) dưới thời Trần.
Theo Trần Phu, để lợp ngói vảy, người ta trước tiên dùng đinh tre (“trúc đinh”) đóng ngói lên “sạn”,
sau đó lợp đè lên nhau, tuần tự từ mái hiên lên nóc mái (“tích”). Trong Doanh tạo pháp thức, “sạn” được giải
thích là bộ khung lót ngói16, nhưng dựa trên những phân tích dưới đây, có thể xác định “sạn” chính là hàng
“mè” để cài ngói.
Như chúng ta đã biết, hầu hết hiện vật ngói vảy (bao gồm cả ngói sen và ngói mũi lá) thời Trần tìm
được từ trước đến nay đều có mấu ở mặt dưới, được cho là để cài vào mè. Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng tồn
tại một số lượng nhỏ ngói vảy (bao gồm cả ngói mũi lá và ngói sen) vừa có mấu, vừa đục 2 lỗ ở phần đi (Hình
16). Xung quanh hiện tượng này, một số nhà khảo cổ như Đặng Hồng Sơn hay Nguyễn Văn Anh (ĐHKHXH&NV)
cho rằng: đây là hai lỗ để đóng đinh sắt hoặc đinh tre, giúp cố định ngói trên mái. Trong bài viết này, dựa trên
ghi chép của Trần Phu, có thể khẳng định những lỗ này đúng là vị trí đóng đinh, cụ thể là đinh tre (“trúc đinh”),
lên “sạn” để cố định ngói.
Ngồi ra, vì tỷ lệ hiện vật ngói có lỗ trên tổng số hiện vật ngói vảy tại hầu hết các di tích thời Trần là rất
ít, đồng thời đối chiếu với ghi chép của Trần Phu, có thể nhận định các viên ngói vảy có lỗ chính là những viên
được lợp ở hiên. Chúng tơi cũng muốn chú ý thêm rằng vị trí đục lỗ lại rất gần mấu phía sau ngói. Điều đó có
nghĩa là “sạn” để đóng ngói cũng chính là hàng “mè” để cài ngói. Nói tóm lại, đối với hàng ngói đầu tiên (ngói
hiên), người ta vừa cài ngói vào mè (“sạn”) bằng mấu, vừa đóng cố định ngói vào cùng một hàng mè đó bằng
đinh tre. Từ hàng ngói thứ hai, ngói chỉ đơn giản được cài vào mè mà khơng cần đóng cố định.
Tuy nhiên, ở đây lại phát sinh một vấn đề mới cần giải thích. Chúng ta đã tìm thấy một số viên ngói vảy
có gắn lá đề (Hình 20). Đây chắc chắn là những viên ngói hiên, nhưng tại sao lại khơng có lỗ? Nói cách khác, tại
sao lại có sự tồn tại song song các viên ngói hiên có lỗ và khơng có lỗ? Chúng tôi cho rằng điều này xuất phát
từ sự khác biệt trong độ dốc mái giữa các kiến trúc.
Suy luận này được chúng tôi đưa ra trên cơ sở so sánh với kỹ thuật lợp mái vảy “truyền thống” vẫn
được lưu giữ từ thời Nguyễn. Trong cách lợp ngói vảy thời “cận hiện đại” này, người ta khơng đóng cố định
hàng ngói hiên. Đối với mái có độ dốc ≤ 40 độ, người ta sẽ đóng thêm “hàng tàu” - một bệ đỡ bằng gỗ đóng
vai trị làm điểm đỡ cho hàng ngói đầu tiên (Hình 15). Đối với mái có độ dốc > 40 độ, để cố định hàng ngói
hiên một cách chắn chắn hơn, người ta phải dán ngói bằng “hồ dầu”, hoặc đục lỗ buộc dây. Như vậy, chúng ta
thấy rằng đối với các kiến trúc có độ dốc mái lớn, người ta phải cố định chắc chắn hàng ngói hiên hơn so với
các kiến trúc có độ dốc mái nhỏ.
Trên cơ sở so sánh như trên, chúng tơi suy đốn rằng những viên ngói vảy khơng có lỗ nhưng có trang
trí lá đề là ngói hiên của các cơng trình kiến trúc có độ dốc mái nhỏ. Trong khi đó, những viên ngói vảy có lỗ
đóng đinh tre là ngói hiên của các cơng trình kiến trúc có độ dốc mái lớn. Có thể xác nhận sự tồn tại của các
cơng trình có độ dốc mái lớn thời Trần qua những ghi chép của sứ giả nhà Ngun, mà chúng tơi sẽ trình bày
chi tiết hơn ở phần sau (Hình 17).
3. Đặc điểm cấu trúc bộ mái thời Lý - Trần
3.1. Đặc trưng đầu đao - “mái cong dạng chim bay”
Trước đây, Nguyễn Bá Lăng đã coi góc mái cong là một đặc trưng của kiến trúc “truyền thống” Việt
Nam (Nguyễn Bá Lăng, 1973). Tuy nhiên, đây là kết luận được đưa ra dựa trên việc phân tích các cơng trình
「凡瓦下補襯、柴桟為上、版栈次之、如用竹笆葦箔」
(『営造法式』巻十三)。
16
BULLETIN OF SCIENCES _ 2015
57
kiến trúc gỗ hiện còn lưu giữ được, mà sớm nhất là thời Lê. Phân tích các mơ hình nhà phát hiện tại Hưng Hà
(Thái Bình) và Vụ Bản (Nam Định), Trịnh Cao Tưởng chỉ ra một đặc điểm của kiến trúc Trần là “kết cấu mái cong
dạng chim bay”, “có góc đao và vỉ ruồi ở đầu hồi” (Trịnh Cao Tưởng, 1978). Vấn đề là đặc trưng góc mái cong
này đã xuất hiện từ thời nào?
Phân tích tư liệu minh văn cho thấy đặc điểm “mái cong dạng chim bay” đã xuất hiện từ thời Lý, muộn
nhất từ đầu thế kỷ 11. Trước hết, trong Bảo Ninh Sùng Phúc tự bi (1107) có câu “thiềm a dực thế, như điểu
tứ phi” 檐阿翼勢、如鳥四飛, nghĩa là “mái hiên xòe cánh, như chim bay bốn phía”. Chữ “tứ phi” cho thấy vị
trí cong dạng chim bay là vị trí bốn góc mái. Trong Sùng Nghiêm Diên Thánh tự bi (1118) lại có câu “cơ lăng
yết nhi hân sí huy phi” 觚稜揭而掀翅翬飛 nghĩa là “cô lăng dựng lên như giang cánh tung bay”. Theo sách
Học lâm do Vương Hiển Quốc biên soạn vào đời Tống, “cơ lăng” là “đường tích của ngói góc mái (bờ dải) tạo
thành múi vng”17, tức vị trí góc mái. Như vậy, chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh có bốn góc mái dựng lên như
hình chim giang bay18. Đặc biệt, cấu trúc “mái cong hình chim bay” trên mái ngói vảy được miêu tả trên Càn
Ni sơn Hương Nghiêm tự bi minh, với câu “thiêm huy hân sí, ngõa điệp bài lân” 簷翬掀翅、瓦疊排鱗 nghĩa là
“mái hiên như cánh giang bay, ngói xếp như bày vảy cá”.
Quan sát các hiện vật và mơ hình kiến trúc đất nung đã phát hiện, có thể cho rằng đặc trưng “mái
cong dạng chim (giang cánh) bay” được tạo thành bởi các cấu kiện như trang trí dạng “cánh”, dạng hình đầu
chim, đầu đao hoặc lá đề (Hình 18-19,21,23). Trịnh Cao Tưởng gọi cấu kiện dạng cánh là “vỉ ruồi”. Tuy nhiên,
do tư liệu minh văn sử dụng từ “sí” (cánh), nên chúng tơi đề xuất gọi loại cấu kiện trang trí góc mái này là
“cánh” thay cho thuật ngữ “vỉ ruồi” mà Trịnh Cao Tưởng đề xuất.
Cũng cần nói thêm rằng, ở bốn góc mái cong này, dưới thời Lý - Trần, người ta thường cho treo
chng vàng. Ví dụ, Sùng Thiện Diên Linh tháp bi minh (1121) có câu “giác giai kim linh” 角桂金鈴, nghĩa là
“góc treo chng vàng”. Thiệu Long tự bi minh (1210) có câu “kim kinh tứ giác thiềm cao” 金鈴四角簷高, tức
là “chng vàng bốn góc hiên cao”.
3.2. Đặc trưng mái dốc đứng, mái hiên thấp của kiến trúc Trần
Trong An Nam tức sự, Trần Phu đã miêu tả kiến trúc thời Trần như sau:
有室皆穿竇、無床不尚爐、
屋無折架法、自棟至簷、直峻如傾、棟雖至高、簷僅四五尺、又有低者、故欲黒暗、則就地開牕如
狗竇、
Tạm dịch:
Các phòng đều khoét lỗ, khơng giường nào khơng đặt lị
Mái khơng có “chiết cử pháp”, từ nóc đến mái hiên, dốc đứng như nghiêng. Mái tuy cao, nhưng mái
hiên chỉ 4 - 5 thước. Lại làm thấp là do muốn tối, gần mặt đất mở cửa sổ như lỗ chó.
Tự phụ là sứ giả “thiên triều”, Trần Phu miêu tả kiến trúc thời Trần với giọng văn đầy miệt thị. Tuy
nhiên, ghi chép này đã cung cấp cho chúng ta một thông tin rất quý báu về đặc điểm bộ mái thời Trần.
Đó là đặc điểm mái “trực tuấn như khuynh” 直峻如傾, nghĩa là “dốc đứng như nghiêng”, tuy nóc cao
nhưng mái hiên chỉ cao khoảng 4 - 5 thước (tức khoảng 1,2m - 1,5m). Đặc điểm này theo Trần Phu là do kiến
trúc Trần khơng có “chiết gia pháp”. Vấn đề đặt ra là phép “chiết gia” ở đây là gì? Theo chúng tơi, đó là kỹ thuật
tạo độ võng cho mái. Doanh tạo pháp thức có ghi chép về kỹ thuật “cử chiết”, “cử” là chiều cao nóc, “chiết” là
「所謂觚稜者、屋角瓦脊成方角、稜瓣之形、故謂之觚稜」
(『学林』巻五)。
17
18
Về vị trí “lăng”, trong Sùng Thiện Diên Linh tháp bi (1121) khi miêu tả về đài Chúng Tiên có câu “thượng đính tắc linh cầm thanh lập, tứ lăng tắc lân trường cánh tương”
上頂則霊禽声立、四稜則鱗長竟驤, nghĩa là “trên đỉnh chim thiêng đứng hót, bốn góc lân vươn dài đua vờn.” Như vậy, “tứ lăng” có thể hiểu là vị trí bốn góc mái
58
THƠNG BÁO KHOA HỌC _ 2015
việc hạ rui. Nếu lấy chiều cao từ nóc đến hoành cuối cùng là một “cử”, hoành đỡ rui dưới nóc hạ cao độ xuống
1/10 cử, hồnh tiếp theo hạ cao độ 1/20 và cứ hạ cao độ tuần tự như vậy cho đến hiên, người ta sẽ tạo được
độ võng cho mái (Hình 22).
Nếu hiểu “chiết gia pháp” của Trần Phu là kỹ thuật “cử chiết” trong Doanh tạo pháp thức, chúng ta sẽ
giải thích được ghi chép của Trần Phu một cách hợp lý. Do kỹ thuật kiến trúc thời Trần không sử dụng kỹ thuật
tạo độ võng, kết quả là mái “dốc đứng như nghiêng”. Điều này cũng liên hệ mật thiết đến kỹ thuật lợp ngói
vảy mà chúng tơi đã trình bày ở phần trước. Do mái có độ dốc lớn, nên đối với hàng ngói hiên, ngồi việc cài
mấu vào “mè”, người ta cịn phải đóng cố định ngói vào “mè” bằng đinh tre.
Tuy nhiên, người viết muốn nhấn mạnh rằng không phải tất cả các kiến trúc thời Lý - Trần đều có độ
dốc mái lớn. Như đã trình bày ở phần trước, hầu hết kiến trúc thời Trần mà Trần Phu quan sát được cuối thế
kỷ 13 đều là những kiến trúc mới được xây dựng lại sau hai cuộc kháng chiến chống Nguyên lần 2 và lần 3.
Trên thực tế, sự tồn tại của nhóm ngói hiên trang trí hình lá đề nhưng lại khơng có lỗ cũng cho thấy sự tồn tại
của các kiến trúc có độ dốc mái nhỏ. Theo Đặng Hồng Sơn, việc sử dụng đinh để cố định ngói xuất hiện tương
đối muộn, vì tất cả các viên ngói vảy thời Lý phát hiện tại chùa Lạng (Viên Giác tự, Hưng n) đều khơng có
lỗ (Đặng Hồng Sơn, 2013). Chúng ta cần hiểu ghi chép của Trần Phu chỉ cho thấy rằng: vào cuối thế kỷ 13, có
nhiều cơng trình có độ dốc mái lớn, nhưng đó khơng phải là tất cả.
III. KẾT LUẬN
Trong bài viết này, thông qua việc phân tích các tư liệu chữ viết đồng đại, chúng tôi đã xác định được
một số tên gọi cấu kiện kiến trúc và kỹ thuật kiến trúc thời Lý - Trần. Trên cơ sở đó, có thể hình dung về kiến
trúc thời Lý - Trần như sau:
1. Ngay từ thời Lý, đã xuất hiện các kiến trúc có mái cong như chim giang cánh bay. Đây là đặc điểm
xuyên suốt kiến trúc thời Lý - Trần. Hình ảnh mái cong như chim bay được tạo lập nhờ các cấu kiện “si” (cánh,
ví dụ như trên mơ hình tháp Bến Lăn) hoặc đầu đao cong (như đầu đao thời Trần phát hiện tại Hoàng thành
Thăng Long), được đặt ở góc mái, cịn được gọi là “lăng” hay “cơ lăng”.
2. Các mơ hình kiến trúc thời Trần cho thấy kiến trúc thời Trần thường có kết cấu 4 mái. Kiến trúc
thời Trần bao gồm cả các kiến trúc có độ dốc mái nhỏ và độ dốc mái lớn. Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ 13 - thời
điểm sứ giả nhà Nguyên là Trần Phu sang Đại Việt (1293), nhiều kiến trúc có độ dốc mái lớn, mái “thẳng
đứng như nghiêng”. Điều này theo Trần Phu bắt nguồn từ việc không sử dụng kỹ thuật tạo độ võng cho mái
(“chiết gia pháp”).
3. Mái kiến trúc thời Lý - Trần được lợp bằng nhiều loại ngói như “kim ngõa” (ngói vàng), “ngân ngõa”
(ngói bạc - ngói phủ men trắng), “uyên ngõa” (ngói uyên ương), “liên ngõa” (ngói sen)… Đến năm 1293, khi
Trần Phu sang Việt Nam, ngói vảy (bao gồm cả ngói sen và ngói lá) đã được sử dụng một cách phổ biến. Đến
đầu thế kỷ 14, như có thể thấy trong Hưng Phúc tự bi minh (1324), ngói sen được coi là loại ngói dành cho các
kiến trúc cao cấp, ví dụ như Phật điện trong tự viện.
4. Phương pháp lợp ngói vảy (bao gồm cả ngói sen và ngói lá) thời Lý - Trần là lợp ngược từ dưới (hàng
hiên) lên trên (bờ nóc). Đối với các cơng trình có độ đốc mái lớn, hàng ngói đầu tiên (ngói hiên) vừa được cài
vào mè (“sạn”) bằng mấu bên dưới ngói, vừa được đóng cố định vào mè bằng đinh tre (“trúc đinh”). Đối với
các cơng trình có độ dốc mái nhỏ, hàng ngói hiên (thường là ngói vảy gắn lá đề) khơng cần đục lỗ để đóng
đinh. Ngược lại, trong thời gian sắp tới, bằng việc phân tích các hiện vật ngói hiên có lỗ hay khơng, chúng ta
có thể suy đốn được cơng trình kiến trúc đó có độ dốc mái lớn hay nhỏ.
5. Tương ứng với đặc điểm mái dốc, dù nóc rất cao, nhưng mái hiên của nhiều kiến trúc Trần nhìn
chung có chiều cao khơng lớn, chỉ khoảng 4 - 5 thước (1,2m - 1,5m). Có thể con số 1,2m - 1,5m là con số mang
BULLETIN OF SCIENCES _ 2015
59
tính cường điệu, nhưng việc mái hiên thấp giải thích một số di tích kiến trúc thời Lý - Trần có độ vươn mái
khơng lớn. Tuy nhiên, chúng tơi muốn nhấn mạnh một lần nữa là có sự tồn tại song song cả 2 loại cơng trình,
mái có độ dốc lớn và ngược lại.
6. Kiến trúc thời Lý - Trần sử dụng đấu củng để tạo độ vươn cho mái, đặc biệt là cấu kiện “lô” (đấu
lớn) nằm trực tiếp trên cột. Trong một số kiến trúc, cột gỗ không để nguyên màu gỗ mà được sơn son, có thể
trang trí họa tiết hình “long”, “hạc”, “tiên nữ”. Đấu củng cũng sẽ được sơn son và trang trí, hoặc tạo hình các
họa tiết hình “vân” (mây) hoặc “hà” (ráng) để phù hợp với màu sắc và trang trí của cột.
7. Ngay từ thời Lý, bộ vì đã sử dụng cấu kiện “hồng lương” hay “nguyệt lương” tức rường cong.
Rường cong tương đương với cấu kiện mà ngày nay chúng ta gọi là “câu đầu” (đầu cong), chính là xà lịng bắc
qua hai cột cái theo chiều dọc của tòa nhà. Kết cấu bộ vì thời Lý - Trần nhiều khả năng là kết cấu cột đỡ đấu
lớn, đấu lớn đỡ “hồng lương” - rường cong (tức là rường cong không ăn mộng thẳng vào cột), tương tự như
những gì chúng ta quan sát được trên cấu trúc bộ vì nóc thượng điện các chùa Dâu, Thái Lạc, Bối Khê. Dưới
thời Lý, có thể tồn tại kết cấu hai nhịp vì sử dụng “hồng lương”.
BUILDING TECHNIQUES AND ARCHITECTURAL COMPONENTS IN THE LÝ AND TRẦN
PERIODS THROUGH THE CONTEMPORANEOUS INSCRIPTIONS
PHẠM LÊ HUY
From past to now, studies to decrypt the Lý and Trần period architectures commonly concentrated on analysing
“physical” materials as wooden components or architectural models. Resources of the writing, especially the
inscriptions on stones or metals haven’t been studied effectively. In this article, author examined resources
of the contemporaneous inscriptions (including 79 documents on stones or metals from Lý - Trần dynasties
and other records of Chinese from Song - Yuan dynasties). From that, he want to study the contemporaneous
names of some architectural components as “hồng lương” (rainbow beam), dougong (interlocking brackets),
roof tiles as well as the relationship between these components and rafter framing structure along with roof
characteristics of the Lý and Trần period architectures.
60
THÔNG BÁO KHOA HỌC _ 2015
Hình 18
Cấu kiện hình cánh (mơ hình tháp Bến Lăn)
Hình 19
Cấu kiện đầu đao
Nguồn: VKHXH 2010
Hình 20
Ngói vảy trang trí lá bồ đề khơng có lỗ
Nguồn: TTBT 2015
Hình 21
Cấu kiện hình chim
Hình 22
Kỹ thuật “cử chiết” trong Doanh tạo pháp thức
Nguồn: Liang Ssu-ch’eng, 2005
18
19
20
21
22
BULLETIN OF SCIENCES _ 2015
61
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Trần Kim Anh, 2011: Văn bia thời Lý cho biết những gì về kiến trúc Phật giáo thời kỳ này, Blog Nguyễn Xuân Diện.
2.
Nguyễn Bá Lăng, 1972: Kiến trúc Phật giáo Việt Nam, Tập 1, Viện Đại học Vạn Hạnh.
3.
Trần Nghĩa, 1972: Một bức “ký họa” về xã hội nước ta thời Trần, bài thơ “An Nam tức sự” của Trần Phu, Tạp chí Văn
học, số 1.
4.
Takeshima Takuichi, 1970: Nghiên cứu Doanh tạo pháp thức (Tập 1 - 2 - 3), Nxb. Chuokoronbijutsu.
竹島卓一『営造法式の研究』
(1・2・3)
(中央公論美術出版、1970年)
5.
Oyama Akiko - Shigeeda Yutaka - Katagiri Masao, 2004: “Kết cấu cơ bản và sự thay đổi của Thượng điện tại các tự
viện Phật giáo miền Bắc Việt Nam”, Tạp chí Kiến trúc, Quy hoạch và Thiết kế Mơi trường, số 576.
大山亜紀子・ 重枝豊・片桐 正夫「北部ベトナム仏教寺院の上殿の基本構成とその変化について」
(『日本建築学
会計画系論文集』576、2004年)
6.
Hà Văn Tấn - Nguyễn Văn Kự - Phạm Ngọc Long, 2013 (xuất bản lần đầu năm 1993): Chùa Việt Nam, Nxb. Thế giới.
7.
Trịnh Cao Tưởng, 1978: Kiến trúc nhà cửa thời Trần, Tạp chí Khảo cổ học, số 4.
8.
Liang Ssu-ch’eng, 2005: A pictorial history of Chinese architecture, Dover Publications.
9.
Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, 2010: Thăng Long - Hà Nội: Lịch sử nghìn năm từ lịng đất, Nxb. Khoa học xã hội.
10. Nguyễn Văn Anh - Bùi Thu Phương, 2010: Vật liệu kiến trúc ở Hoàng thành sau 5 năm nghiên cứu, Tạp chí Khảo cổ học, số 4.
11. Lê Đình Phụng, 2011: Ngói mũi lá Champa, Tạp chí Khảo cổ học, số 3.
12. Oyama Akiko, 2012: Về mối quan hệ giữa các di cấu kiến trúc gỗ và mơ hình nhà tại miền Bắc Việt Nam, Tóm tắt báo
cáo học thuật Hội nghiên cứu kiến trúc Nhật Bản 2012 (Lịch sử, Thiết kế).
大山亜紀子「ベトナム北部の木造遺構と家形土製品の関連性について」
(『日本建築学会学術講演梗概集 2012
(建築歴史・意匠)』、2012年)
13. Tomoda Masahiko - Shimizu Shinichi), 2012: Thể hiện đấu củng trên các mơ hình kiến trúc phát lộ tại miền Bắc Việt
Nam, Tóm tắt báo cáo học thuật Hội nghiên cứu kiến trúc Nhật Bản 2012 (Lịch sử, Thiết kế kiến trúc).
友田正彦・清水真一「ベトナム北部出土の建築型土製品に見られる組物表現」
(『日本建築学会学術講演梗概集
2012(建築歴史・意匠)、2012年
14. Tomoda Masahiko - Shimizu Shinichi, 2013: Thể hiện ngói lợp mái trên các mơ hình kiến trúc phát lộ tại miền Bắc
Việt Nam, Tóm tắt báo cáo học thuật Hội nghiên cứu kiến trúc Nhật Bản 2013 (Lịch sử, Thiết kế) .
友田正彦・清水真一「ベトナム北部出土の建築型土製品における屋根瓦の表現」
(『日本建築学会学術講演梗
概集 2013
(建築歴史・意匠)2013年』、
2013年)
15. Đặng Hồng Sơn, 2013: Gạch ngói và cấu kiện trang trí nóc mái ở miền Bắc Việt Nam thế kỷ XI - XIV, Luận án tiến sĩ
chuyên ngành Bảo tàng học và Khảo cổ học, Đại học Cát Lâm.
16. Tomoda Masahiko - Shimizu Shinichi - Ota Shoichi, 2014, Đặc trưng cấu trúc khung kiến trúc gỗ Việt Nam nhìn từ các
hiện vật đất nung phát hiện tại miền Bắc Việt Nam - Xung quanh vấn đề cấu trúc khung không sử dụng xà đầu cột,
Tóm tắt báo cáo học thuật Hội nghiên cứu kiến trúc Nhật Bản 2014 (Lịch sử, Thiết kế).
友田正彦・清水真一・大田省一「ベトナム北部出土の土製品からみた木造建築軸部の特徴-頭貫を用いない軸
組構造をめぐって-」
(『日本建築学会学術講演梗概集 2014
(建築歴史・意匠)』、
2014年)
17. Trung tâm Bảo tồn Di sản Thăng Long - Hà Nội, 2014: Di vật tiêu biểu - Hoàng thành Thăng Long 2002 - 2013, Nxb.
Hà Nội.
LỜI CẢM ƠN:
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến GS. Shimizu Shinichi, TS. Tomoda Masahiko, các thành viên trong nhóm nghiên cứu Nhật Bản, PGS.TS. Bùi Minh
Trí đã tạo điều kiện cho tơi tham gia các chuyến khảo sát. Ngồi ra, tơi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến ThS. Nguyễn Văn Anh, ThS. Bùi Thu
Phương và các bạn tại Trung tâm Nghiên cứu Kinh thành, bạn Nguyễn Duy, Nguyễn Minh Hiệu của nhóm Đại Việt Cổ Phong đã có những góp ý cho tơi
trong q trình hồn thiện bài viết này.
62
THÔNG BÁO KHOA HỌC _ 2015