KIEÅM TRA VI SINH
TS. Nguyễn Tất Toàn
Bài giảng Chẩn đoán cận lâm sàng 2010
Thu thập mẫu
Thu thập những thông tin về bệnh sử và
những dấu hiệu trên lâm sàng giúp cho việc
chọn lựa qui trình nuôi cấy thích hợp.
Thu thập mẫu trong điều kiện vô trùng.
Nếu phải thu thu thập nhiều loại mẫu thì phải
bảo quản riêng rẽ từng loại, tránh tạp nhiễm.
Thu thập mẫu
Phải chú thích tên mẫu cụ thể trên lọ đựng mẫu, đặc
biệt là những mẫu gâïy bệnh chung giữa người và gia
súc.
Tham khảo ý kiến nhân viên phòng xét nghiệm về cách
lấy mẫu sao cho đúng qui cách.
Gửi mẫu đến phòng xét nghiệm bằng những phương
tiện nhanh nhất.
Thảo luận kết quả với Bác só thú y điều trò lâm sàng.
![]()
![]()
Mẫu phân
Mục đích của việc xét nghiệm mẫu phân là tìm các
lọai vi khuẩn chiếm ưu thế trong phân và tìm những
vi khuẩn gây bệnh trên thú.
Chỉ đònh lấy mẫu phân trong những trường hợp thú
bò tiêu chảy hay bò các rối lọan về tiêu hóa
Lấy mẫu khảo sát trước khi dùng kháng sinh
Nên lấy vào giai đọan sớm, càng sớm càng tốt.
Mẫu phân
Dùng tăm bông hay lấy trực tiếp phân tươi để xét nghiệm
đều được. Nếu lấy phân tươi, tốt nhất là vùng phân có dấu
hiệu tiêu chảy đặc trưng, cho vào lọ đựng vô trùng, gửi về
phòng thí nghiệm ngay để nuôi cấy trong vòng 2 giờ sau khi
lấy.
Nếu dùng tăm bông, thì nhúng tăm bông vào phân thú mới
vừa đi hoặc có thể lấy qua trực tràng rồi cho vào môi trường
chuyên chở Cary-Blair rồi gửi ngay về phòng xét nghiệm.
Môi trường này có thể giữ mẫu trong hơn 48 giờ, tuy nhiên
phải tiến hành nuôi cấy càng sớm càng tốt.
Mẫu phân
Nên khảo sát mẫu phân và ghi nhận tính chất
của nó để đònh hướng cho việc xét nghiệm.
![]()
Mẫu máu
Bình thường trong máu không có vi khuẩn. Trong một số
trường hợp nhiễm khuẩn, vi khuẩn xâm nhập vào máu gây
nhiễm khuẩn huyết. Xét nghiệm để tìm vi khuẩn trong máu
là một xét nghiệm khá quan trọng vì trực tiếp cho ta biết
nguyên nhân gây bệnh.
Phải cấy máu trước khi dùng kháng sinh hệ thống và đúng
thời điểm
Lấy máu phải đúng cách và luôn luôn trong điều kiện vô
trùng. Thể tích máu được lấy để cấy nên chiếm 1/10 thể tích
môi trường nuôi cấy.
Mẫu máu
Chất kháng đông tốt nhất thường dùng là Sodium
Polyanethol Sulfonate, nếu không có thì dùng citrate hay
heparin
Có một số yếu tố kìm hãm sự phát triển của vi khuẩn trong
lúc cấy máu:
Sự đông máu
Tính chất diệt khuẩn của huyết thanh có sẵn
Còn khánh sinh trong máu
Môi trường nuôi cấy không thích hợp
Cần phải lọai bỏ những yếu tố này khi nuôi cấy để đạt được
kết quả tốt nhất.
![]()
Mẫu mủ và tiết dòch
Trong tất cả các trường hợp có mủ hay dòch tiết đều
có thể lấy mẫu để chẩn đóan vi sinh vật, nếu cần
thiết.
Đối với mẫu dòch từ áp xe kín nên sát khuẩn kỹ
ngòai da, dùng syringe chọc kim hút lấy mủ hay
làm tiết dòch. Cho mủ hay tiết dòch vào lọ đựng
bệnh phẩm vô trùng hay để nguyên ống kim hút mủ,
gửi ngay đến phòng xét nghiệm.
Mẫu mủ và tiết dòch
Đối với mẫu dòch từ áp xe hở, vết thương có mủ, lỗ
rò, các hốc tự nhiên: nếu nhiều mủ và dòch tiết thì
nên hút vào ống hút vô khuẩn, cho vào ống nghiệm,
đậy kín; nếu ít mủ thì dùng que platin riêng hay tăm
bông vô trùng để lấy sau đó cho vào môi trường
chuyên chở Stuart – Amies.
Cả hai trường hợp này đều phải vận chuyển nhanh
về phòng xét nghiệm và nuôi cấy ngay.
Nên quan sát tính chất đại thể của mủ và dòch tiết
để có nhận đònh chính xác trong nuôi cấy.
Mẫu nước tiểu
Chỉ đònh lấy mẫu nước tiểu trong những trường hợp
nghi ngờ nhiễm trùng tiểu. Bình thường nước tiểu vô
khuẩn. Trong một số trường hợp bệnh lý, trong nước
tiểu xuất hiện vi khuẩn.
Tốt nhất nên lấy nước tiểu vào buổi sáng, trước khi
thú dùng kháng sinh.
Lấy mẫu luôn trong điều kiện vô trùng, có thể thu
thập mẫu có thể là từ bàng quang, thông niệu đạo,
nước tiểu giữa dòng. Mẫu lấy xong là gửi đến phòng
xét nghiệm ngay. Nếu chậm trễ, có thể giữ trong tủ
lạnh 4
o
C, nhưng không quá 24 giờ
Mẫu nước tiểu
Trước hôm lấy nước tiểu có thể cho thú bệnh
uống ít nước để cho nước tiểu cô đặc hơn
Nên khảo sát trực tiếp mẫu nước tiểu (soi tươi
dưới kính hiển vi) để có nhận đònh sơ bộ về
mẫu nước tiểu xét nghiệm.
Những vi khuẩn gây bệnh tìm thấy
trên đường hô hấp
Trên heo
Pasteurella multocida,
P. haemolytica,
Haemophilus parasuis,
Mycoplasma hyorhinis,
M.hyopneumoniae,
Actinobacillus suis,
Bordetella bronchiseptica,
Actinobacillus pleuropneumoniae.