VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP
TS. Trần Văn Thi
Khoa Marketing, ĐH Tài chính-Marketing
Tóm tắt
Các chuẩn mực đạo đức kinh doanh không chỉ các doanh nghiệp cần phải nắm
được và tuân thủ, mà còn phải giáo dục cho cả cộng đồng hiểu được những chuẩn
mực này để có dư luận kịp thời ngăn chặn những hoạt động kinh doanh vi phạm nó.
Bởi vì vai trị điều chỉnh hành vi đạo đức đối với doanh nghiệp chính là thơng qua dư
luận xã hội. Hơn nữa, ngoài các chế tài về mặt pháp lý, việc tuyên truyền để các
doanh nghiệp tự ý thức được rằng, thực hiện đạo đức kinh doanh chính là đầu tư cho
tương lai và cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp rất cần thiết.
Từ khóa: Đạo đức, đạo đức kinh doanh, doanh nghiệp Việt Nam
1. Thực trạng đạo đức trong kinh doanh hiện nay ở Việt Nam
1.1 Vấn đề nhận thức về đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt
Nam
Trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung, mọi hoạt động kinh doanh đều do Nhà
nước chỉ đạo, vì vậy những hành vi có đạo đức được coi là những hành vi tuân thủ
lệnh cấp trên. Do hầu hết hàng hóa tiêu dùng đều khan hiếm, để mua được đã là rất
khó, nên khơng ai có thể phàn nàn về chất lượng hàng hóa. Vì cầu vượt quá cung, chất
lượng phục vụ trong mạng lưới cung cấp vơ cùng thấp nhưng ít người dám than phiền.
Các tổ chức kinh tế hầu hết đều thuộc sở hữu nhà nước, nên không cần quan tâm đến
vấn đề thương hiệu hay sở hữu trí tuệ.
Thời gian gần đây, do áp lực của tiến trình tồn cầu hóa, vấn đề đạo đức kinh
doanh đã bắt đầu được đề cập qua các báo và tạp chí, nhưng thường chỉ dừng lại ở
việc thông tin và nhận định về những sự kiện có liên quan đến đạo đức kinh doanh,
chứ khơng đưa ra một khái niệm cụ thể nào về đạo đức kinh doanh. Nhiều trường Đại
học khối kinh tế chưa có mơn học về đạo đức kinh doanh, hoặc nếu có cũng chỉ là
11
hình thức mơn tự chọn. Trong nội dung của các mơn học có liên quan như kinh doanh
quốc tế hay quản trị kinh doanh cũng chưa đề cập đến khái niệm này, hoặc nếu có thì
nội dung cũng q sơ sài, có trường hợp coi đạo đức kinh doanh chỉ là việc tuân thủ
pháp luập trong kinh doanh. Quan niệm như vậy là quá hạn hẹp, chưa đánh giá hết
tầm quan trọng của khái niệm này. Chính vì vậy, mặc dù thường được nghe về đạo
đức kinh doanh nhưng cách hiểu của người dân, của các doanh nghiệp về vấn đề này
còn khá mơ hồ.
Đạo đức đã được con người nghiên cứu từ rất lâu, và luôn gắn liền với mọi
hoạt động trong cuộc sống của con người. Các vấn đề về đạo đức không được qui đinh
rõ trong một bộ luật nào nhưng con người xem nó như những chuẩn mực chung,
những qui tắc xử sự chung của toàn xã hội. Đạo đức kinh doanh cũng đã xuất hiên từ
rất lâu nhưng nó chỉ bắt đầu được nghiên cứu nghiêm túc, và phát triển thành một
ngành khoa học vào nửa sau thế kỷ XX. Đạo đức kinh doanh là một tập hợp các
nguyên tắc, chuẩn mực có tác dụng điều chỉnh, đánh giá và kiểm soát hành vi của chủ
thể kinh doanh. Ngày nay đạo đức kinh doanh rất được nhiều người quan tâm, khi trên
thị trường số hành vi vi phạm đạo đức kinh doanh ngày một tăng. Rất nhiều doanh
nghiệp vì lợi nhuận nên đã có những hành vi phi đạo đức trong kinh doanh như: việc
xã chất thải của công ty Vedan, trà trộn hàng giả xuất xứ của Khaisilk, kinh doanh
thuốc giả của VNpharma…..Vì thế, đạo đức kinh doanh ở Việt Nam đã và đang đặt ra
những vấn đề cả trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn khác với những nước
phát triển.
Giáo sư Lewis (1985) đã đưa ra định nghĩa: “Đạo đức kinh doanh là tất cả
những quy tắc, tiêu chuẩn, chuẩn mực đạo đức hoặc luật lệ để cung cấp chỉ dẫn về
hành vi ứng xử chuẩn mực và sự trung thực (của một tổ chức) trong những trường hợp
nhất định”. Từ định nghĩa trên có thể thấy, cách hiểu về khái niệm đạo đức kinh doanh
trên cốt lõi cơ bản lúc đầu là hướng về tính nhân văn trong kinh doanh thì về sau, nó
cịn trở thành chính phương thức kinh doanh của doanh nghiệp, nếu muốn phát triển
theo hướng thu được lợi nhuận một cách ổn định và bền vững. Ở đây, vai trò đạo đức
kinh doanh đã được nhấn mạnh trong những trường hợp đưa ra những quyết định mở
rộng hoặc thu hẹp kinh doanh của các chủ doanh nghiệp. Việc tuân thủ đạo đức kinh
12
doanh sẽ đảm bảo cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp trên con đường tăng
lợi nhuận cho mình.
1.2 Một số ví dụ điển hình về vi phạm đạo đức kinh doanh tại Việt Nam
Thực phẩm
Thực phẩm không chỉ là nguồn cung cấp dinh dưỡng cho cơ thể con người,
mà cịn đóng vai trị quan trọng cho việc bảo vệ sức khỏe người dân. Việc sữa sản
xuất từ Trung Quốc có chứa chất melamine dẫn đến tử vong cho một số trẻ em là một
cảnh báo buộc chính phủ các nước quan tâm hơn đến việc đề ra những tiêu chuẩn an
toàn và vệ sinh gắt gao, những quy chế luật pháp để ngăn ngừa. Tại Việt Nam, vấn đề
vệ sinh an toàn thực phẩm cũng đang được đưa lên đến mức báo động. Từ những quán
nhỏ lẻ bên đường với sản phẩm phở, hủ tiếu, cháo… người ta không ngại lừa đối
khách hàng bằng những chiêu thức khá tinh vi như sử dụng những hóa chất trong bảo
quản hoặc tái sinh nguyên liệu để tăng thêm lợi nhuận, hay những lò rượu đưa ra thị
trường những sản phẩm chứa hóa chất cồn cơng nghiệp độc hại đến 70%. Và cho đến
những doanh nghiệp lớn như các công ty thủy hải sản của Việt Nam làm ăn gian dối
bắng cách đưa tạp chất vào trong sản phẩm để tăng trọng lượng.
Vì thực phẩm có liên hệ trực tiếp đến sức khỏe của một cộng đồng, thậm chí
dân tộc, công nghệ thực phẩm rất cần một quy ước đạo đức. Quy ước đạo đức không
phải là luật pháp, mà là những điều lệ về hành nghề được các thành viên trong ngành
nghề chấp nhận như là kim chỉ nam cho việc hành nghề. Các điều lệ này cho phép,
nghiêm cấm, hay đề ra thủ tục về các hành xử cho các tình huống khác nhau.
Xăng dầu
Dù đã nghe rất nhiều thông tin về chuyện gian lận xăng dầu nhưng hầu như
người tiêu dùng vẫn khơng thể có cách nào để bảo vệ mình trước các trị gian lận của
những chủ cây xăng thiếu đạo đức kinh doanh trong việc đong đếm. Thời gian gần
đây lại xuất hiện thêm trường hợp sử dụng hóa chất để làm xăng giả. Cho đến thời
điểm này người tiêu dùng thực sự bó tay trước các thủ đoạn gian lận ngày càng tinh vi
của nhà kinh doanh xăng dầu gian dối, và qua vụ việc sử dụng aceton trong xăng vừa
rồi người tiêu dùng lại càng thêm thất vọng.
Người lao động
13
Đảm bảo điều kiện lao động an toàn là hoạt động có đạo đức nhất trong vấn đề
bảo vệ người lao động. Người lao động có quyền làm việc trong một mơi trường an
tồn. Mặt khác xét từ lợi ích, khi người làm cơng bị tai nạn, rủi ro thì khơng chỉ ảnh
hưởng xấu đến bản thân họ mà cịn tác động đến vị thế cạnh tranh của công ty.
Tuy nhiên, việc đảm bảo an toàn cho người lao động không được giải quyết
thấu đáo, dẫn đến những trường hợp tại nạn lao động thương tâm và đáng bị lên án về
mặt đạo đức. Cụ thể như:
- Người lao động không được trang bị đầy đủ các trang thiết bị an tồn lao động
cố tình duy trì các điều kiện nguy hiểm và không đảm bảo sức khỏe tại nơi làm
việc.
- Che dấu thông tin về mối nguy hiểm của cơng việc, làm ngơ trước một vụ việc
có thể dự đốn được và có thể phịng ngừa được.
- Buộc người lao động thực hiện những công việc nguy hiểm mà khơng cho phép
họ có cơ hội từ chối, bất chấp thể trạng, bất chấp khả năng và năng lực của họ.
- Khơng phổ biến kỹ lưỡng các quy trình, quy phạm sản xuất và an toàn lao động
cho người lao động.
- Không thường xuyên kiểm tra các thiết bị an toàn lao động để đề ra các biện
pháp khắc phục.
- Khơng thực hiện các biện pháp chăm sóc y tế và bảo hiểm hay không tuân thủ
các quy định của ngành, quốc gia về an toàn.
Thuế
Tiền thuế được sử dụng để phục vụ cho các hoạt động quản lý Nhà nước và xã
hội. Do đó, hành vi trốn thuế dù dưới bất kỳ hình thức nào cũng đều được coi là vi
phạm "đạo đức kinh doanh".
Ngoài việc trốn thuế thì hành vi gian lận thuế cũng được coi là vi phạm đạo
đức kinh doanh. Cụ thể như:
- Gian lận thuế bằng cách tạo ra 2 hệ thống sổ sách
- Thanh toán lương và thu nhập bằng tiền mặt cho ngưới lao động để không phải
khai báo thuế.
14
- Trao đổi bằng hiện vật để tránh khai báo thu nhập, sử dụng các tài khoản ngân
hàng khơng chính thức, rửa tiền, hoặc phân bổ vào các nguồn thu nhập khơng
chính thức khác.
2. Ảnh hưởng của đạo đức kinh doanh đối với xã hội và doanh nghiệp
2.1 Ảnh hưởng đối với xã hội
Đối với con người
Nhiều doanh nghiệp quan niệm rằng trách nhiệm xã hội chỉ là san sẻ lợi ích vật
chất với cộng đồng thể hiện qua việc làm từ thiện. Thậm chí nhiều doanh nghiệp cịn
sử dụng việc làm từ thiện như một “kênh” để quảng bá sản phẩm và thương hiệu.
Quan niệm như thế chưa đúng và chưa đầy đủ. Lợi nhuận đúng là động lực phát triển
doanh nghiệp nhưng không thể tách rời khỏi lợi ích của cộng đồng trong mối tương
quan với mơi trường xã hội (Nhà nước, đối tác, người tiêu dùng).
Doanh nghiệp phải dự đoán tác động về xã hội trong hoạt động của mình, có
chính sách nhất qn, phương pháp hiệu quả để hạn chế tiêu cực. Đó là trách nhiệm tự
nguyện của doanh nghiệp để định hướng hoạt động của mình. Tuy vậy, rất ít doanh
nghiệp hiện nay có suy nghỉ như vậy trong hoạt động kinh doanh của mình.
Đối với mơi trường
Trong bối cảnh bộ khung luật pháp về mơi trường cịn nhiều thiếu sót, việc
thực thi luật mơi trường cịn lơi lỏng, thì vấn đề đạo đức của doanh nghiệp đối với môi
trường cần được giám sát bởi cộng đồng xã hội để trở thành một công cụ hữu hiệu
ngăn chặn sự xuống cấp đang diễn ra nhanh chóng trong mơi trường sống của người
dân
Tình trạng phát triển mạnh các khu công nghiệp ảnh hưởng đến mơi trường đất
canh tác nơng nghiệp và tạo khí thải độc hại ảnh hưởng môi trường sống của người
dân.
Việc xả thải chất độc hại trực tiếp hủy hoại tài nguyên nước, đặc biệt là nguồn
nước dùng để tưới tiêu cho cây trồng và nuôi trồng thủy sản.
2.2 Ảnh hưởng đối với doanh nghiệp
Đối với khách hàng của doanh nghiệp
15
Khách hàng là nền tảng của sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Đạo đức
kinh doanh là hành vi đầu tư vào tương lai. Khi doanh nghiệp xây dựng được tiếng
tăm tốt thì sẽ thu hút được khách hàng. Sự vi phạm đạo đức kinh doanh của doanh
nghiệp sẽ dẫn đến hành động tẩy chay và trừng phạt từ phía cộng đồng khách hàng
Đối với các nhà đầu tư của doanh nghiệp
Các nhà đầu tư trên thị trường chứng khốn ln trơng đợi vào lợi nhuận của
doanh nghiệp khi quyết định đầu tư vào cổ phiếu. Đạo đức của doanh nghiệp thể hiện
sự minh bạch về tính trung thực trong báo cáo tài chính, cơng khai thơng tin với các
nhà đầu tư của doanh nghiệp,… Vì vậy, hiện tượng các doanh nghiệp đưa ra những
thông tin không chính xác để thu hút nhà đầu tư là một hành vi phi đạo đức. Nhưng do
lợi nhuận trên thị trường chứng khoán quá lớn, nên những vụ việc tương tự vẫn tiếp
diễn.
Trong nhiều trường hợp, khi hoạt động kinh doanh gặp khó khăn hay rủi ro,
những doanh nghiệp uy tín trên thế giới thường chọn cách thơng báo rộng rãi cho các
cổ đông để kêu gọi sự hợp tác của họ nhằm giúp cơng ty vượt qua khó khăn. Mặc dù
tiềm ẩn nhiểu rủi ro nhưng cách này giúp cơng ty giữ được lịng tin của các nhà đầu
tư, và thốt khỏi nguy cơ bị bỏ rơi khi thơng tin bại lộ. Tuy nhiên các doanh nghiệp
Việt Nam lại thường không làm như vậy.
3. Đề xuất một số giải pháp ngăn chặn các hành vi kinh doanh phi đạo đức của
doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
3.1 Giải pháp chính trị
Muốn cho doanh nhân Việt Nam chứng tỏ được tài năng, đạo đức của họ cần
phải xây dựng một chế độ dân chủ thực sự, một nhà nước pháp quyền đúng nghĩa của
nó. Nhà nước phải là người đại diện quyền lợi của toàn xã hội, là người điều chỉnh các
lợi ích chính đáng của mọi cá nhân, mọi thành phần kinh tế. Từ đó Nhà nước phải ban
hành những văn bản pháp luật, có những chính sách cơng bằng, hợp lý để giúp cho
Doanh nhân được tự do “cạnh tranh lành mạnh”, “phát triển bình đẳng”, “phục vụ
trung thực”. Pháp luật cần chặt chẽ, chính xác, quy định những điểm doanh nhân được
làm tức là những điều pháp luật không cấm. Đồng thời cũng cần xác định vấn đề hình
sự và hoạt động kinh doanh bn bán, khơng hình sự hóa những vấn đề phức tạp của
hoạt động này.
16
Ban hành pháp luật là quan trọng, nhưng người thực thi pháp luật mang tính
quyết định. Do vậy, cần phải chống tiêu cực trong bộ máy quyền lực của Đảng và bộ
máy Nhà nước, loại bỏ những phần tử thoái hóa, biến chất ra khỏi bộ máy Đảng và
Nhà nước từ Trung ương đến các địa phương, các ngành, các cấp. Doanh nhân Việt
Nam cần phải tham gia vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng hiện nay, việc làm này
rất khó khăn nhưng có ý nghĩa rất to lớn.
3.2. Giải pháp kinh tế
Những vấn đề như: thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, lợi
ích của doanh nhân, lợi ích xã hội, chế độ sở hữu tư nhân trong xã hội xã hội chủ
nghĩa… cần phải được làm rõ để xác lập quan hệ đạo đức và giá trị, chuẩn mực đạo
đức trong xã hội. Đây là những vấn đề có liên quan đến đạo đức của Doanh nhân.
Theo Forbes thì “Việc khơng có một nhà tỷ phú nào cho thấy quốc gia đó cịn nhiều
hạn chế trong việc khuyến khích làm giàu. Tại đó cịn tồn tại nhiều chính sách chưa
hợp lý, hệ thống tài chính – thuế khóa chưa minh bạch, cơ chế với sự phát triển của
doanh nhân cịn bó buộc”.
3.3 Vấn đề nhận thức và tư tưởng
Hiện nay có rất nhiều người lao động (ở nơng thơn và thành thị) khơng có công
ăn việc làm để nuôi sống bản thân và gia đình, họ cần được “bán” sức lao động. Nếu
các doanh nhân tạo cho họ công ăn việc làm, đem tài năng và vốn liếng vào việc tạo ra
của cải vật chất cho xã hội, cho bản thân thì đó chính là hành vi đạo đức. Điều này cần
được khẳng định, cần được làm rõ ý nghĩa đạo đức tích cực của việc “bóc lột”, bởi do
tính tất yếu kinh tế - xã hội hiện nay. Do vậy, cần chuyển đổi các giá trị đạo đức cho
phù hợp: nếu trước đây tinh thần yêu nước thể hiện ở giá trị đạo đức cao cả là phấn
đấu cho độc lập tự do của dân tộc, thì ngày nay tinh thần yêu nước phải phấn đấu vì
“dân giàu, nước mạnh” đó là một giá trị đạo đức cao đẹp – doanh nhân phải là người
nêu cao giá trị đạo đức mới và là nhân vật tiêu biểu cho giá trị đó.
3.4 Vấn đề giáo dục đạo đức đối với các doanh nhân
Vấn đề giáo dục đạo đức cho doanh nhân là vấn đề của toàn xã hội và là vấn đề
tự ý thức của chính giới doanh nhân. Đối với xã hội cần phải nâng cao nhận thức về
vai trò của doanh nhân, giá trị xã hội của danh nhân bằng sự tôn vinh doanh nhân. Cần
khắc phục những mặc cảm sai lầm về doanh nhân.
17
Cần phải bồi dưỡng lý tưởng, đạo lý, triết lý làm giàu cho các thế hệ người Việt
Nam, đặc biệt thế hệ trẻ để họ trở thành những doanh nhân Việt Nam sánh vai cùng
doanh nhân các cường quốc trên thế giới. Xây dựng truyền thống Doanh nhân Việt
Nam với sự tôn vinh Doanh nhân Việt Nam bên cạnh những giá trị cao đẹp khác của
dân tộc.
4. Kết luận
Qua những phân tích trên có thể thấy, khi nói về đạo đức kinh doanh là nói về
mối quan hệ giữa doanh nghiệp với cộng đồng xã hội trong hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp. Trong hoạt động kinh doanh, người kinh doanh ngồi việc quan
tâm đến lợi nhuận cho cơng ty mình, cịn phải quan tâm đến lợi ích cộng đồng xã hội
trong cả trước mắt và lâu dài, mà ở đây trước hết là lợi ích vật chất của cộng đồng. Vì
thế, đạo đức kinh doanh ln giữ vai trò điều chỉnh hành vi kinh doanh của doanh
nghiệp như là phương thức bổ sung cho việc thực thi luật pháp cho doanh nghiệp khi
hoạt động kinh doanh. Điều này được thể hiện với những mức độ khác nhau ở những
nước có trình độ phát triển khác nhau. Ở đây có sự chuyển đổi từ một số chuẩn mực
đạo đức kinh doanh thành luật kinh doanh hay còn được gọi là luật hóa những chuẩn
mực đạo đức và ngược lại, cũng có những luật lệ kinh doanh trở thành chuẩn mực đạo
đức kinh doanh khi các doanh nghiệp thực hiện nó như là sự tự nguyện bên trong.
Đối với các nước phát triển thì vấn đề đạo đức kinh doanh đã và đang được các
doanh nhân coi như chiến lược phát triển, là phương thức hoạt động kinh doanh của
mình. Họ coi đạo đức kinh doanh như là yếu tố quyết định sự phát triển bền vững và
sự tăng lợi nhuận không ngừng của doanh nghiệp. Điều này đã được nhiều học giả
chứng minh bằng thực tiễn kinh doanh của các công ty lớn ở Mỹ và các nước phát
triển khác. Bởi vì, ở một nước có nền kinh tế thị trường phát triển thì mỗi doanh
nghiệp trong hoạt động kinh doanh của mình ln là một bộ phận hữu cơ của cả nền
kinh tế – xã hội. Vì thế, những hành vi quyết định hướng kinh doanh cũng như
phương thức kinh doanh của họ đều tuân theo những tiêu chuẩn và quy định của xã
hội trên cả phương diện đạo đức cũng như luật pháp. Nói một cách khác, ở những
nước phát triển thì những chuẩn mực đạo đức đã trở thành phẩm chất không thể thiếu
đối với mỗi người kinh doanh và đối với từng doanh nghiệp và chính hệ thống luật
18
pháp hoàn chỉnh ở những nước này đã giữ vai trò chủ yếu trong việc ngăn chặn những
hoạt động kinh doanh vi phạm những chuẩn mực đạo đức xã hội nói chung và đạo đức
kinh doanh nói riêng. Hơn nữa, ở các nước phát triển, do có một hệ thống các thể chế,
bao gồm đạo đức kinh doanh hoàn chỉnh hơn, nên việc tuân thủ những chuẩn mực đạo
đức kinh doanh chính là tạo ra những giá trị cho doanh nghiệp (uy tín, thương hiệu,
chất lượng sản phẩm và dịch vụ khách hàng để thu hút khách hàng ngày càng nhiều
hơn), làm động lực cho việc tăng năng suất của cơng ty. Trong khi đó, tại các nước có
nền kinh tế kém phát triển như nước ta, do hệ thống luật pháp chưa hoàn thiện, nên cơ
hội phát triển kinh tế và xã hội bị hạn chế bởi độc quyền của kinh tế nhà nước, của
tham nhũng và những lợi ích nhóm nên vai trị của luật pháp giữ vị trí quan trọng
nhằm định hướng, xử lý và ngăn chặn những hành động kinh doanh phi đạo đức.
Hiện nay, ở Việt Nam đang xây dựng một nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước và coi đó là mơ hình phát triển
kinh tế phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển kinh tế của thế giới.
Nhưng rõ ràng là, cho đến nay, khi Việt Nam đã trải qua hơn 30 năm tiến hành đổi
mới nhưng nền kinh tế thị trường vẫn đang trong tiến trình hồn thiện cả về cơ chế thị
trường lẫn thể chế xã hội. Vì thế, phương thức kinh doanh và hành lang pháp lý cho
hoạt động kinh doanh vẫn cịn chưa hồn tồn đầy đủ. Do đó, hoạt động kinh doanh
cịn nhiều lĩnh vực chưa tuân thủ theo pháp luật và chưa được bảo đảm bằng hệ thống
pháp luật. Nếu như giai đoạn mới bước vào đổi mới, do hệ thống luật kinh doanh chưa
đầy đủ và thể chế hoạt động kinh doanh chưa rõ ràng nên những phương thức kinh
doanh có tính chất cơ hội, chộp giật đã mang lại nhiều lợi nhuận cho các doanh nghiệp
và cùng với nó là vi phạm nặng nề đạo đức kinh doanh mà cộng đồng phải gánh chịu,
thì đến nay, cùng với hàng loạt điều luật trong hoạt động kinh doanh ra đời, nó đã dần
được thay thế bằng sự làm ăn chính đáng, tuân thủ theo luật pháp và không ảnh hưởng
đến lợi ích cộng đồng. Điều này đã thể hiện rõ ràng rằng, khi hệ thống luật pháp chưa
hồn chỉnh thì những kẽ hở sẽ còn nhiều và trở thành điều kiện cho những doanh
nghiệp vi phạm đạo đức kinh doanh. Trong q trình đổi mới, ở Việt Nam đã có nhiều
doanh nghiệp vì chạy theo lợi nhuận mà vi phạm vệ sinh môi trường, làm ăn gian dối,
sản xuất hàng giả, hàng nhái nhưng mãi sau này mới bị phát hiện, bị pháp luật xử lý.
Sự chậm trễ trong xử lý đã vơ hình chung tạo ra các doanh nghiệp coi thường pháp
19
luật trong hoạt động kinh doanh và vì thế, khái niệm đạo đức kinh doanh đối với họ
coi như không tồn tại. Trong những năm gần đây, khi một loạt các doanh nghiệp bị
pháp luật xử lý thì lại tạo cho họ và cho cả người dân hiểu rằng, khi nói về đạo đức
kinh doanh chính là hoạt động kinh doanh khơng vi phạm pháp luật. Vì thế, vấn đề
tn thủ đạo đức kinh doanh đối với các doanh nghiệp Việt Nam đến nay vẫn chưa chi
phối những hành vi kinh doanh của họ trên cả chiến lược kinh doanh lẫn phương thức
kinh doanh mà lẽ ra, theo yêu cầu của phát triển doanh nghiệp, thì đạo đức kinh doanh
phải được tập thể quan tâm ngay trong khâu lập kế hoạch, chiến lược kinh doanh,
trong sản xuất, tài chính, đào tạo nhân viên và trong các mối quan hệ với khách hàng
nói chung.
Trên cơ sở luận giải những vấn đề về đạo đức trong kinh doanh, tác giả cho
rằng để thực hiện đạo đức kinh doanh ở Việt Nam hiện nay thì việc xây dựng một hệ
thống pháp luật hồn chỉnh và các văn bản dưới luật rõ ràng là cần thiết nhưng chưa
đủ, mà phải đưa ra được những quy tắc, những chuẩn mực đạo đức kinh doanh đủ sức
để hướng dẫn những hành vi kinh doanh của các doanh nghiệp. Việc giáo dục phải
làm thế nào để các doanh nghiệp tự ý thức được rằng, thực hiện đạo đức kinh doanh
chính là đầu tư cho tương lai và cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lewis, P. V. (1985). Defining ‘business ethics’: Like nailing jello to a wall,
Journal of Business Ethics, Volume 4, Issue 5, pp 377–383
2. Nguyễn Mạnh Quân (2015), Giáo trình đạo đức kinh doanh và văn hóa cơng
ty. Hà Nội: NXB ĐH Kinh tế quốc dân.
20