Quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày nay
(LLCT) - Cuối thế kỷ thứ XX, sau khi mơ hình chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở
Liên Xơ và Đông Âu sụp đổ, Việt Nam và một số nước XHCN tiếp tục tiến
hành đổi mới, khơng ít vấn đề liên quan đến CNXH được xem xét lại, trong đó
có vấn đề về thời kỳ quá độ (TKQĐ) lên CNXH. Sự thay đổi nhanh chóng của
thế giới trong mấy thập niên qua đã làm cho những quan điểm tiếp cận về
TKQĐ lên CNXH thay đổi. Đây là vấn đề mà bài viết này sẽ góp phần bàn
luận.
1. Về tính tất yếu và lâu dài của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Khi xây dựng học thuyết của mình, C.Mác và những nhà kinh điển mácxít đã chỉ
rõ rằng, cuộc cách mạng XHCN khác với tất cả các cuộc cách mạng trước đó ở
chỗ: đây là cuộc cách mạng sâu sắc nhất, triệt để nhất. Nó đem lại quyền lực chính
trị cho giai cấp cơng nhân và lợi ích cho tất cả những người lao động khác. Khi
cách mạng XHCN nổ ra, việc chuyển chính quyền vào tay giai cấp cơng nhân cách
mạng chỉ là sự bắt đầu. Vì nền tảng kinh tế, kỹ thuật của CNXH chưa hình thành
đầy đủ trong lòng chủ nghĩa tư bản (CNTB), do vậy, giành chính quyền chưa phải
là sự kết thúc của cách mạng. Giai cấp cơng nhân phải dùng chính quyền chun
chính của mình để tiếp tục trấn áp giai cấp tư sản vừa bị đánh đổ, song chưa bị tiêu
diệt và thủ tiêu sự chống phá của liên minh giai cấp tư sản trong nước với giai cấp
tư sản quốc tế, ngăn chặn sự phục hồi của CNTB.
Hơn thế nữa, để xoá bỏ nền tảng kinh tế - xã hội của CNTB, giai cấp công nhân
phải tiến hành công cuộc cải tạo cách mạng sâu rộng cả về kinh tế và xã hội. Đây
là cuộc đấu tranh giai cấp phức tạp và lâu dài. Trong đó, biến tư liệu sản xuất thuộc
sở hữu tư nhân, tư sản thành sở hữu tồn dân mà giai cấp cơng nhân là đại diện;
đồng thời cải tạo nền sản xuất nhỏ, kỹ thuật thủ công, hàng ngày, hàng giờ đẻ ra
quan hệ tư bản và giai cấp tư sản. Nhiệm vụ này không thể hoàn thành trong một
sớm, một chiều. Do vậy, thời kỳ quá độ trở thành một tất yếu lịch sử.
Với Cách mạng Tháng Mười năm 1917, V.I.Lênin và đảng Bônsêvic Nga đã tiến
hành cuộc Cách mạng XHCN đầu tiên trên thế giới. Chính quyền Xơ viết đã thực
hiện chính sách cộng sản thời chiến từ năm 1918 đến năm 1920 trong thời kỳ đặc
biệt của cuộc nội chiến cách mạng và đấu tranh chống sự bao vây, phá hoại của chủ
nghĩa đế quốc quốc tế. Nhưng chính sách này đã khơng cịn thích hợp với nước
Nga sau nội chiến. Chính sách kinh tế mới được V.I Lênin thực hiện ngay sau đó,
đã đưa nước Nga Xơ viết trở lại với những quy luật phát triển kinh tế tự nhiên mà
điều kiện, hồn cảnh của nước Nga địi hỏi. Điều này đã khẳng định tính đúng đắn
của những tư tưởng mác xít về cách mạng XHCN và TKQĐ lên CNXH. Đây phải
là một TKQĐ dài.
Những cuộc cách mạng nổ ra sau đó ở Việt Nam, Trung Quốc, Cu Ba... và nhiều
nước khác đã chứng thực rằng, những nước càng lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật
càng thấp, thì quá độ lên CNXH càng phải trải qua thời gian dài. Tuy nhiên, TKQĐ
phải kéo dài bao lâu? Nó phải trải qua những giai đoạn nào, với những bước đi
nào? Nội dung kinh tế xã hội và hình thức tổ chức hệ thống chính trị của từng giai
đoạn phát triển ra sao? Từ chính lịch sử xây dựng và phát triển mơ hình CNXH ở
Liên Xơ, Đơng Âu và các nước kém phát triển hơn như: Trung Quốc, Việt Nam,
Cu Ba,... đã cho những lời giải khác nhau. Ở Liên Xô, vào cuối những năm 30 của
thế kỷ XX, Đảng Cộng sản Liên Xô đã tuyên bố chuyển sang thời kỳ xây dựng
CNXH. Thậm chí vào những năm 70 của thế kỷ XX, Liên Xô đã chuyển sang thời
kỳ xây dựng CNXH phát triển - giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản. Nhưng thực
chất Liên Xô cũng chỉ mới bước những bước đầu tiên của thời kỳ xây dựng cơ sở
vật chất, kỹ thuật của CNXH.
Đảng Cộng sản Trung Quốc, vào cuối thập kỷ 80 thế kỷ trước tuyên bố, thời kỳ
quá độ ở nước này phải kéo dài hàng trăm năm.
Như vậy, điều cần khẳng định trước tiên về nhận thức mới về TKQĐ lên CNXH là:
đây là thời kỳ lâu dài và trải qua nhiều giai đoạn, với nhiều bước đi thích hợp với
quá trình xây dựng và phát triển nền tảng kinh tế - xã hội cần thiết. Điều này đã
được Đảng ta khẳng định trong Cương lĩnh 1991. Song nền tảng kinh tế - xã hội
cần thiết cho CNXH là gì thì phải tùy thuộc vào thời đại. Với thời đại cơng nghiệp
cơ khí của Mác - Lênin thì đó là nền tảng cơng nghiệp cơ khí. Cịn ngày nay, cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ lần thứ hai phát triển, thì cơ sở vật chất kỹ thuật
cho CNXH là nền kinh tế tri thức với trình độ phát triển cao của công nghệ thông
tin và các thành tựu mới của các cuộc cách mạng trong hóa học, lý học, sinh học,
vật liệu mới... Đây là điều cần bổ sung thứ hai vào nhận thức về TKQĐ lên CNXH
Như vậy, nếu cuộc cách mạng XHCN nổ ra ở những nước đã có nền kinh tế tri
thức thì giai cấp cơng nhân - trí thức chỉ việc giành lấy chính quyền từ tay giai cấp
tư sản, tiếp thu và tổ chức lại nền kinh tế tri thức theo cách của mình. Cuộc cách
mạng XHCN sẽ nhanh chóng kết thúc. Thời kỳ quá độ sẽ ngắn.
Ở những nước chưa có nền kinh tế tri thức, nếu nổ ra cách mạng XHCN, thời kỳ
quá độ chắc chắn sẽ kéo dài. Ở đây, giai cấp cơng nhân khơng chỉ phải giành lấy
chính quyền mà cịn phải dùng chính quyền ấy làm cuộc cải biến cách mạng sâu
rộng để xây dựng nền kinh tế tri thức. Thời gian kéo dài đến mức nào phụ thuộc
vào điều kiện, quyết tâm và khả năng của giai cấp cơng nhân - trí thức trong nước
và quốc tế. Đây chính là bổ sung thứ ba vào nhận thức của chúng ta về TKQĐ lên
CNXH.
2. Về tính chất, đặc điểm của thời kỳ quá độ
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin và nhiều nhà lãnh đạo khác của các
đảng cộng sản và công nhân quốc tế đều đã khẳng định rằng: nội dung cơ bản của
TKQĐ lên CNXH chính là giải quyết cuộc đấu tranh giữa hai con đường - TBCN
và XHCN. Trong đó, về chính trị, phải thiết lập nền chuyên chính của giai cấp
công nhân - giai cấp vô sản. Về kinh tế, phải tiến hành cuộc cách mạng về quan hệ
sản xuất và cách mạng khoa học - kỹ thuật, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của
CNXH và về tư tưởng - văn hóa là tiến hành cách mạng văn hóa, tư tưởng, xác lập
hệ tư tưởng Mác - Lênin, xây dựng hệ giá trị, chuẩn mực và lối sống của giai cấp
công nhân hiện đại.
Gần một thế kỷ xây dựng mơ hình CNXH ở Liên Xơ, Đơng Âu và nhiều nước
khác, xã hội XHCN đã được xây dựng theo những chỉ dẫn có tính định hướng này.
Tuy nhiên, kết quả có được từ thực tế lại đặt trước chúng ta nhiều vấn đề lý luận và
thực tiễn cần phải suy ngẫm.
Sau khi CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, những kinh nghiệm thực tiễn của
cải cách và đổi mới ở một số nước cho thấy: trong thời kỳ q độ lên CNXH, chính
đảng của giai cấp cơng nhân khi đã nắm được chính quyền, muốn xây dựng
CNXH, phải khuyến khích, sử dụng và phát huy nguồn lực vật chất và năng lực trí
tuệ của giai cấp tư sản nhằm CNH, HĐH phát triển sản xuất, tăng năng suất lao
động, phát triển nền kinh tế tri thức. Nhiều đảng viên cộng sản đã trở thành nhà “tư
bản đỏ”. Trong q trình này, ở một mức độ nào đó, sự bóc lột và những hệ quả
tiêu cực khác như phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội vẫn tồn tại. Quá độ
lên CNXH khác với phát triển CNTB chỉ ở chỗ, với quyền lực của giai cấp công
nhân - trí thức, những mặt tiêu cực mà việc phát triển kinh tế thị trường gây ra
được hạn chế. Phân tầng xã hội không đưa đến phân cực và xung đột xã hội. Sự bất
bình đẳng xã hội được nhà nước XHCN điều tiết thơng qua hàng loạt những chính
sách xã hội, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất tác động tiêu cực của kinh tế thị
trường. Những quan hệ nhân văn giữa con người với con người như là mục đích tối
cao của CNXH được định hướng phát triển. Mâu thuẫn xã hội được điều chỉnh,
giảm bớt. Trong quá trình xây dựng nền tảng kinh tế - xã hội của CNXH phù hợp
trình độ lực lượng sản xuất mới, giai cấp cơng nhân và chính đảng của nó phải thực
hiện những nhiệm vụ mà CNTB phải làm và đang làm; những người cộng sản có
lúc phải trở thành nhà tư bản. Đây chính là những thay đổi đáng chú ý trong quan
niệm về thời kỳ q độ lên CNXH mà nhiều mơ hình định hướng phát triển CNXH
trong nửa cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI đã thực hiện.
Về xây dựng hệ thống chính trị. Vấn đề đặt ra là, trong TKQĐ, chính quyền chun
chính là của ai? Nó được xây dựng trên những ngun tắc và mơ hình tổ chức
quyền lực nào? Đây là điều đã có khơng ít ý kiến bàn luận và giải quyết thực tế.
Theo các nhà kinh điển mácxít, sau cách mạng XHCN, nền chun chính chỉ có
thể là của giai cấp cơng nhân - chun chính vơ sản. Nhiệm vụ chủ yếu của nền
chuyên chính này là tước đoạt tư liệu sản xuất của giai cấp tư sản và cải tạo nền
kinh tế sản xuất nhỏ, hàng ngày, hàng giờ đẻ ra quan hệ tư bản. Nhưng thực tiễn
diễn ra ở nhiều nước lại khơng hồn tồn như vậy. Ngay chính ở nước Nga - quê
hương của Cách mạng Tháng Mười, sau cách mạng, Nhà nước công nhân không
thể trực tiếp xây dựng CNXH chỉ bằng tước đoạt và cải tạo thơng qua chính sách
cộng sản thời chiến mà phải tiến hành các cuộc cải biến từ từ thơng qua Chính sách
kinh tế mới. Chính V.I.Lênin đã từng dạy rằng, để tiến tới CNXH cần phải “bắc
những chiếc cầu nhỏ, vững chắc đi xuyên qua CNTB”; sử dụng các chun gia tư
sản, áp dụng các mơ hình tổ chức kinh tế - xã hội tư bản để phát triển sức sản xuất,
tăng năng suất lao động, nâng cao đời sống nhân dân.
Để trả lời câu hỏi trong TKQĐ lên CNXH, chúng ta cần thiết lập nền chuyên chính
của ai xuất phát từ việc làm rõ câu hỏi lực lượng cách mạng và đối tượng cách
mạng trong TKQĐ là ai? Với những nước đã kinh qua giai đoạn phát triển TBCN,
nền cơng nghiệp đại cơ khí đã được thiết lập, nền kinh tế tri thức đang dần được
hình thành, nền chuyên chính cách mạng phải là nền chuyên chính của giai cấp
cơng nhân - trí thức. Tư liệu sản xuất chính yếu lúc này khơng chỉ đơn thuần là
máy móc của nền đại cơng nghiệp cơ khí mà là khoa học, cơng nghệ với trí tuệ bậc
cao hàm chứa trong hệ thống máy móc ấy. Nền chun chính của giai cấp cơng
nhân - trí thức khơng chỉ làm cơng việc tước đoạt mà chủ yếu là tìm kiếm những
hình thức tổ chức thích hợp cho việc phát triển kinh tế - xã hội trong thời đại tồn
cầu hóa và kinh tế tri thức. Trong quá trình này, một bộ phận của giai cấp tư sản sẽ
chuyển hóa dần thành trí thức quản lý bậc cao. TKQĐ lên CNXH sẽ gắn bó chặt
chẽ với quá trình hình thành và phát triển của giai cấp cơng nhân - trí thức. Trong
đó, sự chuyển biến dần của các trí thức tư sản, tư sản trí thức và cơng nhân, nơng
dân thành giai cấp cơng nhân - trí thức sẽ được bắt đầu. Q trình này gắn chặt với
việc phát triển khoa học - công nghệ hiện đại. Đó chính là nội dung kinh tế cơ bản
của TKQĐ lên CNXH ở những nước đã phát triển. Như vậy, nền chuyên chính cần
phải thiết lập trong TKQĐ lên CNXH ở những nước này chính là nền dân chủ của
giai cấp cơng nhân trí thức - giai cấp đã được phát triển từ những phần tử trí thức
tiên tiến nhất trong tất cả các giai tầng xã hội.
Ở những nước chưa qua giai đoạn phát triển TBCN, giai cấp cơng nhân thường cịn
ít về số lượng. Đảng công nhân tuy xây dựng trên nền tảng tư tưởng mácxít song
thành phần chủ yếu là trí thức và tầng lớp tiểu tư sản cùng với công nhân và nông
dân được giác ngộ. Nhiệm vụ của Đảng là thực hiện cách mạng dân tộc, dân chủ
nhân dân, đánh đổ phong kiến, đánh đuổi thực dân, đế quốc, định hướng đến
CNXH. Nội dung chính yếu của TKQĐ ở những nước này là giải quyết cuộc đấu
tranh giữa hai con đường phát triển: XHCN hay TBCN. Về nguyên tắc, nền chuyên
chính được thiết lập là nền chun chính của giai cấp cơng nhân với hai nhiệm vụ
cải tạo và xây dựng. Ở Trung Quốc, Việt Nam, dưới chun chính “vơ sản”, cơng
cuộc cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới đã mắc khơng ít những sai lầm
nghiêm trọng như: chủ quan, duy ý chí, bất chấp quy luật khách quan và hành
chính quan liêu trong tổ chức, điều hành nền kinh tế, xã hội. Điều này được thể
hiện rõ nhất trong các cuộc cải cách ruộng đất, trong cải tạo nông nghiệp, cải tạo
công, thương nghiệp và trong q trình cơng nghiệp hóa. Động lực cá nhân bị triệt
tiêu, năng suất lao động cao - yếu tố cơ bản, quyết định thắng lợi của chế độ xã hội
mới với chế độ xã hội cũ đã không được tạo ra. Nền dân chủ mới - dân chủ cho đa
số chưa được thực hiện đầy đủ trên thực tế. Hạ tầng kinh tế - xã hội thấp kém ở
những nước chưa kinh qua giai đoạn phát triển TBCN chậm được cải thiện.
Cần phải xây dựng mơ hình quyền lực nào trong TKQĐ lên CNXH? Đây là vấn đề
mà cả hệ thống XHCN thế giới đã tìm tịi hướng giải quyết trong suốt thế kỷ XX.
Song lời giải vẫn chưa thật hiệu quả. Thực hiện chun chính vơ sản trong điều
kiện kinh tế nhiều thành phần, xã hội đa giai cấp và tầng lớp, nhất là tầng lớp tư
sản còn vai trò quan trọng trong cả kinh tế và xã hội là rất khó khăn. Thực tế lịch
sử phát triển xã hội trong thế kỷ XX cho thấy rằng, kinh tế đa thành phần, xã hội
đa giai cấp và tầng lớp, thì nền dân chủ cần thiết lập phải là nền dân chủ nhân dân.
Ở đây, mơ hình tổ chức nhà nước khơng thể hồn tồn theo mơ hình dân chủ tư
sản, song cũng chưa thể là nền dân chủ XHCN như mong muốn của các nhà kinh
điển mác xít. Để phát triển xã hội, phải tìm một hình thức tổ chức nhà nước đặc
thù, trung gian. Trong đó, những gì cịn tiến bộ của nền dân chủ tư sản phải được
kế thừa, những gì là ưu việt của nền dân chủ XHCN đang định hướng xây dựng,
cần được nghiên cứu và thử nghiệm thận trọng, phù hợp với điều kiện và hoàn
cảnh của từng quốc gia, dân tộc. Quyền lực chính trị về danh nghĩa thuộc giai cấp
cơng nhân - trí thức, nhưng giai cấp này chưa hình thành đầy đủ. Đội tiền phong
của nó - Đảng cộng sản - cần phải bao gồm những phần tử ưu tú nhất khơng chỉ
của giai cấp cơng nhân, trí thức mà còn gồm cả những thành phần ưu tú của giai
cấp nông dân, tầng lớp tiểu tư sản và tư sản. Điều này thể hiện tính nhân dân của
quyền lực xã hội mà nguyên tắc tổ chức quyền lực ít nhiều phải mang tính pháp
quyền mà nền dân chủ tư sản đã tạo ra. Chính tính phức hợp của cơ cấu kinh tế và
cơ cấu xã hội tồn tại trong TKQĐ lên CNXH đã quyết định tính phức hợp của cơ
cấu quyền lực xã hội. Nền chuyên chính - như là hình thức tổ chức nhà nước đã
được thiết lập ở hệ thống XHCN cũ trong thế kỷ XX, nên được coi là cần thiết
trong thời kỳ cách mạng và chiến tranh. Kéo dài hình thức tổ chức nhà nước này
trong thời kỳ hịa bình đã tạo ra tình trạng hành chính hóa, quan liêu hóa. Hệ thống
quyền lực này chẳng những không mở đường cho sự phát triển sản xuất, kích thích
tính tích cực lao động và tính tích cực xã hội của con người mà nhiều khi đã thủ
tiêu cả động lực cá nhân. Như vậy là, trong TKQĐ, quyền lực chính trị thuộc về
những lực lượng xã hội tiên tiến của cả giai cấp cơng nhân, trí thức, nông dân và
tầng lớp tư sản - những người đại diện được cho lợi ích dân tộc, quốc gia. Đây thực
chất là nền dân chủ nhân dân - một hình thức tổ chức quyền lực chính trị đặc thù
của TKQĐ lên CNXH.
Về văn hoá, tư tưởng, TKQĐ lên CNXH có đặc trưng gì? Trước hết, cần phải thấy
rằng, ngay sau mỗi cuộc cách mạng xã hội, dù là cách mạng XHCN hay cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, trong xã hội vẫn tồn tại nhiều hệ tư tưởng mâu thuẫn,
đấu tranh nhau. Trong đó có hệ tư tưởng tư sản, hệ tư tưởng vô sản và chủ nghĩa
dân tộc dưới nhiều màu sắc khác nhau. Quá độ lên CNXH là làm cho hệ tư tưởng
vô sản xác lập. Chủ nghĩa yêu nước phải là chủ nghĩa yêu nước mang lập trường
vơ sản - u nước XHCN.
Tuy nhiên, vì CNXH đang là mục tiêu cần hướng tới, do vậy, thực chất của chủ
nghĩa yêu nước trong TKQĐ lên CNXH là tinh thần dân tộc chân chính. Đây là
nền tảng tư tưởng, tinh thần để đoàn kết dân tộc, tạo điều kiện để phục hưng dân
tộc. Thực tế xây dựng các mơ hình CNXH trong thế kỷ XX đã chứng minh rằng,
trong tất cả các giai đoạn phát triển của TKQĐ lên CNXH, dù muốn hay không,
vấn đề dân tộc, quốc gia vẫn phải đặt lên hàng đầu. Ở các nước đang phát triển và
chậm phát triển, đây càng là vấn đề phải quan tâm, chú ý hơn. Lợi ích giai cấp phải
phụ thuộc vào lợi ích tối cao của dân tộc. Đây chính là một trong những đặc trưng
có tính quy luật về văn hóa - tư tưởng trong TKQĐ ở các nước định hướng XHCN
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá
trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, là một hệ
thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; về xây dựng nhà nước của
dân, do dân, vì dân; về chống tham ơ, lãng phí, quan liêu, thực hành tiết kiệm; về
nền văn hóa dân tộc và hiện đại; về đạo đức cách mạng; về đoàn kết trong Đảng,
đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh ... Tư tưởng Hồ Chí Minh đã và
đang soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi. Đó là tài sản
tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một học thuyết cách mạng, cùng với chủ nghĩa
Mác - Lê nin, là nền tảng tư tưởng của Đảng, kim chỉ nam cho hành động của cách
mạng Việt Nam. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh khơng theo lối tầm chương
trích cú mà nghiên cứu một cách hệ thống, nắm vững và vận dụng sáng tạo vào
thực tiễn những tư tưởng, quan điểm cốt lõi nhất về những vấn đề cơ bản nhất. Đó
cũng là định hướng và yêu cầu quan trọng khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh
về cơng tác thanh tra
1. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết phải nghiên cứu nguồn gốc, cái
tạo nên bản chất cốt lõi, xuyên suốt hình thành trong con người Hồ Chí Minh trong
suốt chiều dài của sự nghiệp. Về phương diện lý luận, nhiều nhà nghiên cứu coi
nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh xuất phát từ 3 điểm cơ bản là: Chủ nghĩa yêu
nước và truyền thống văn hóa nhân ái của dân tộc Việt Nam; tinh hoa văn hóa
phương Đơng và phương Tây; Chủ nghĩa Mác – Lênin. Ba yếu tố trên kết hợp với
Chuyên đề: Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta
nhân cách cá nhân kiệt xuất của Người được đúc rút từ quá trình hoạt động thực
tiễn của Người tạo nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
* Tư tưởng Hồ Chí Minh, sự kế thừa và phát triển chủ nghĩa yêu nước,
truyền thống văn hóa nhân ái của dân tộc Việt Nam
Có thể khẳng định rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi tìm con đường cho cách
mạng Việt Nam với tấm lòng của một người Việt Nam yêu nước. Chủ nghĩa yêu
nước của Người được tiếp thu từ truyền thống yêu nước từ ngàn đời của cha ơng.
Đó là một truyền thống u nước, thương nòi, tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự
cường. Truyền thống đó đã khiến Người khơng cam tâm nhìn cảnh nước mất nhà
tan, đồng bào mình lầm than trong kiếp nơ lệ. Truyền thống đó đã hun đúc người
thanh niên Nguyễn Tất Thành quyết tâm ra đi tìm con đường cứu nước, cứu dân.
Lịch sử đã chứng minh rằng, dân tộc Việt Nam là dân tộc hình thành rất
sớm. Nước chúng ta có từ thời Vua Hùng, có quốc gia dân tộc từ thời đại Văn
Lang, Âu Lạc. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc văn hiến, có một nền văn hóa
truyền thống lâu đời, đó là truyền thống nhân nghĩa, độc lập, tự lực tự cường của
một dân tộc được hình thành sớm, truyền thống này được hình thành từ cuộc đấu
tranh khuất phục thiên nhiên và chống kẻ thù xâm lược giữ gìn đất nước. Tinh thần
nhân nghĩa, đoàn kết, tương thân tương ái được thể hiện thông qua thực tiễn các
cuộc đấu tranh làm chủ thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm. Vì vậy, trách nhiệm
của con cháu là phải giữ gìn và bảo vệ bờ cõi non sông như lời Bác Hồ đã căn dặn
“Các Vua Hùng đã có cơng dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Trong những truyền thống tốt đẹp đó, chủ nghĩa yêu nước là dòng chảy
xuyên suốt lịch sử dân tộc ta. Lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh dân tộc ta
là một dân tộc có lịng u nước nồng nàn, và trên hết đó là một dân tộc có ý chí
kiên cường, bất khuất, khơng chịu làm nơ lệ, kiên quyết bảo vệ nền độc lập, tự do
của Tổ quốc mình. Truyền thống đó đã thấm đẫm trong Chủ tịch Hồ Chí Minh mà
Người đã mang theo trong suốt cuộc đời mình. Chính chủ nghĩa u nước đã thơi
thúc Người ra đi tìm đường cứu nước. Có thể coi đó là hành trang giá trị nhất của
người thanh niên Nguyễn Tất Thành, nó là cơ sở, là động lực trong suốt cuộc đời
hoạt động cách mạng của Người. Nhận thức về lòng yêu nước của con người Việt
GVHD: TS Nguyễn Xuân Phong
Học viên thực hiện: Tăng Thành Chi
9
tailieuonthi
Chuyên đề: Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta
Nam, Người nói: “Dân ta có một lịng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống
quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại
sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự
nguy hiểm, khó khăn, nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.
Tư tưởng yêu nước, thương dân của Người được hình thành từ rất sớm. Từ
nhỏ cậu bé Nguyễn Sinh Cung đã được nuôi dưỡng trong truyền thống yêu nước và
đấu tranh bất khuất của quê hương sông Lam núi Hồng, một mảnh đất địa linh,
nhân kiệt. Người được thừa hưởng trí tuệ uyên bác của người cha là cụ Phó bảng
Nguyễn Sinh Sắc và ảnh hưởng, hấp thụ những bài học về lòng nhân ái, đức hy
sinh cao cả của mẹ là bà Hoàng Thị Loan. Những năm tháng thơ ấu, Người đã
chứng kiến cảnh nước mất, nhà tan, đời sống nhân dân lầm than, cơ cực, sự thống
trị của thực dân Pháp vô cùng hà khắc và bạo tàn. Các cuộc đấu tranh do các tầng
lớp sĩ phu yêu nước lãnh đạo đều đi đến thất bại. Cách mạng Việt Nam khi đó
khủng hoảng về đường lối.
Tiếp thu truyền thống yêu nước, với tư duy độc lập sáng tạo, Hồ Chí Minh
đã sớm hình thành chí hướng và tìm con đường đi cho cho riêng mình. Hồ Chí
Minh rất trân trọng và khâm phục tinh thần đấu tranh bất khuất của những chí sĩ
u nước trước đó, nhưng Người có suy nghĩ khác với con đường cứu nước của
các bậc tiền bối. Người cho rằng con đường Đông du của cụ Phan Bội Châu chẳng
khác nào “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, còn cụ Phan Chu Trinh thực hiện
các biện pháp cải lương, chẳng khác nào “xin giặc rủ lịng thương”. Năm 1911,
Người ra đi tìm đường cứu nước. Người không đi theo con đường của các bậc tiền
bối đã đi, mà đi theo con đường riêng của mình.
Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước đã mang theo
truyền thống yêu nước, nhân ái, tự lực, tự cường của dân tộc, với một tinh thần yêu
nước sâu sắc, một hoài bão cứu nước, cứu dân và một lòng tin ở sức ta có thể giải
phóng cho ta.