Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.1 KB, 15 trang )

MỤC LỤC:
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Khái niệm.
II. Vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc
đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước.
1. Kiểm nghiệm được tính hợp lí, hợp pháp của các văn bản pháp luật do
chính mình ban hành nhằm đảm bảo các văn bản pháp luật do cơ quan
quyền lực nhà nước đặt ra phù hợp với thực tiễn quản lý hành chính nhà
nước, được xác lập và duy trì quản lý nhà nước hiệu quả.
2. Hoạt động giám sát thấy được khó khăn phức tạp của hoạt động quản
lý hành chính, từ đó đưa ra được những quyết sách, chiến lược kịp thời làm
nền tảng cho hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
3. Phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật trong quản
lý hành chính để bảo vệ trật tự quản lý hành chính nhà nước đã đươc xác
lập. Thông qua hoạt động giám sát, Quốc hội và Hội đồng nhân dân các
cấp phát hiện ra những vi phạm pháp luật xâm phạm tới trật tự và lợi ích
nhà nước, xã hội và công dân của cán bộ nhà nước, từ đó mà kịp thời xử lí
hoặc yêu cầu các cấp, các ngành xử lí nghiêm minh những vi phạm đó để
củng cố pháp chế.
4. Hoạt động giám sát là cơ chế kiểm soát, quản lý hành chính hữu
hiệu đảm bảo sự công bằng giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý
thông qua hoạt động giám sát.
III Thực trạng hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước.
IV. Một số kiến nghị tiếp tục hoàn thiện cơ chế giám sát của cơ quan quyền
lực nhà nước
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
A.ĐẶT VẤN ĐỀ.
Quản lí hành chính nhà nước là một hình thức hoạt động của Nhà nước được
thực hiện trước hết và chủ yếu bởi các cơ quan hành chính nhà nước. Cơ quan này có
chức năng chấp hành và điều hành (chức năng quản lí hành chính nhà nước). Quản lí


hành chính được tiến hành trên cơ sở những nguyên tắc nhất định, nguyên tắc pháp chế
xã hội chủ nghĩa là một nguyên tắc cơ bản trong quản lí hành chính nhà nước. Để bảo
đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước cần có các biện pháp pháp lí. Trong
đó, hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước giữ một vai trò quan trọng.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I. KHÁI NIỆM.
1. Đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính Nhà nước.
Pháp chế là sự tôn trọng và tuân thủ triệt để pháp luật của các cơ quan nhà nước,
nhân viên nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân.
Bảo đảm pháp chế là tổng thể các biện pháp, phương tiện, tổ chức – pháp lí do
các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, công dân áp dụng nhằm thực hiện chức năng,
quyền hạn, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước ấy cũng như việc thực hiện quyền và
nghĩa vụ của công dân.
Bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước là bằng những cơ chế và
hoạt động pháp lí làm cho pháp luật được thực hiện có hiệu quả trong thực tế và hoạt
động của bộ máy nhà nước trước hết là hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước phải
thực sự vì dân.
2. Hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước.
Giám sát là một phương thức mang tính tổ chức páp luật, do cơ quan quyền lực
( gồm Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp) thực hiện, nhằm theo dõi, xem xét hoạt
động, kiểm tra hoạt động quản lý hành chính nhà nước và nhận định về một hoạt động
quản lý hành chính nhà nước nào đó là đúng hay trái pháp luật. Hoạt động giám sát phải
được tiến hành trên cơ sở các quy định của pháp luật, tuân theo những nguyên tắc, thủ
tục nhất định, đồng thời cũng phải được bảo đảm thực hiện bằng những biện pháp cần
thiết.
Về phạm vi giám sát : Quốc hội giám sát hoạt động quản lý hành chính nhà nước ở cấp
Trung ương; Hội đồng nhân dân giám sát hoạt động quản lý hành chính ở địa phương.
Về hình thức giám sát dưới nhiều hình thức khác nhau : nghe, xem xét, đánh giá các báo
cáo; chất vấn các chủ thể quản lý; tiếp xúc cử tri, kiểm tra đặc biệt.
Về quyền hạn của cơ quan quyền lực khi giám sát: Có quyền đình chỉ hoặc hủy bỏ các

văn bản trái pháp luật; Quyền miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh trong quản lý hành
chính nhà nước, Xử lý và kiến nghị xử lý.
II. VAI TRÒ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA CƠ QUAN QUYỀN LỰC
NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC ĐẢM BẢO PHẤP CHẾ TRONG QUẢN LÍ
HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC.
1. Kiểm nghiệm được tính hợp lí, hợp pháp của các văn bản pháp luật do chính
mình ban hành nhằm đảm bảo các văn bản pháp luật do cơ quan quyền lực nhà
nước đặt ra phù hợp với thực tiễn quản lý hành chính nhà nước, được xác lập và
duy trì quản lý nhà nước hiệu quả.
Cơ quan quyền lực nhà nước, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ
của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Do đó, Quốc hội
là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất có quyền quyết
định những chính sách cơ bản, quan trọng của đất nước. Quốc hội có thẩm quyền ban
hành hiến pháp, luật, nghị quyết.
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, có quyền quyết
định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương.
Việc ban hành luật của Quốc hội, nghị quyết của Hội đồng nhân dân theo cơ chế
thảo luận tập trung tập thể, quyết định theo đa số tại các kì họp, phiên họp không đủ đáp
ứng yêu cầu điều chỉnh các quan hệ quản lí hành chính nhà nước một cách năng động và
kịp thời. Mặt khác, do Quốc hội, Hội đồng nhân dân không có chức năng quản lí hành
chính nhà nước do đó khó có thể ban hành các quy phạm pháp luật hành chính một cách
cụ thể và phù hợp với thực tiễn quản lí của từng nghành, từng lĩnh vực và địa phương.
Với chức năng chấp hành và điều hành: đảm bảo trên thực hiện trên thực tế các văn bản
pháp luật của cơ quan quyền lực nhà nước, mọi hoạt động quản lí hành chính nhà nước
đều được tiến hành trên cơ sở pháp luật và để thực hiện pháp luật (chức năng chấp hành);
cơ quan hành chính nhà nước có nhiệm vụ tổ chức đưa pháp luật một cách trực tiếp,
thường xuyên liên tục vào đời sống xã hội và khi thực hiện hoạt động này cơ quan
hànvào đời sống ( chức năng điều hành). Cơ quan hành chính nhà nước ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật hành chính để cụ thể hóa, chi tiết hóa luật và pháp lệnh. Ban
hành những văn bản áp dụng pháp lệnh để đưa các cá nhân, tổ chức trong xã hội bằng

cách đó pháp luật được thực hiện một cách trực tiếp thường xuyên và liên tục. Như vậy,
để luật, nghị quyết của Quốc, Hội đồng nhân dân thực sự đi vào thực tiễn, đời sống cần
phải có hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật hành chính của cơ quan hành
chính nhà nước để định ra khuôn mẫu xử sự chung cho nhiều cá nhân, tổ chức trong
những tình huống được dự liệu trước và có thể lặp lại nhiều lần trong thực tiễn, sau đó
thông qua hình thức chấp hành và áp dụng để pháp luật được đi vào thực tiễn. Đây là hai
hình thức rất quan trọng vì đây là giai đoạn không thể thiếu và vô cùng quan trọng của
cơ chế điều chỉnh pháp luật. Thông qua hai hình thức thực hiện quy phạm pháp luật hành
chính một mặt nhằm đạt được những mục đích xã hội vì chúng đã được nhà nước phải
ban hành mặt khác còn cho phép làm rõ những hạn chế, bất cập của hệ thống pháp luật
thực định để từ đó có thể đưa ra các giải pháp hữu hiệu cho việc sửa đổi, bổ sung hoàn
thiện hệ thống pháp luật hiện hành và cơ chế đưa pháp luật đi vào cuộc sống. Thực hiện
tốt hoạt động này sẽ tạo ra trật tự cần thiết để các quan hệ xã hội tồn tại và phát triển theo
những định hướng mong muốn có lợi cho xã hội, cho nhà nước cũng như cho các cá
nhân. Như vậy, thông qua hoạt động giám sát các cơ quan quyền lực nhà nước có thể
phát hiện những yếu kém, những khuyết điểm trong công tác tổ chức và hoạt động cũng
như những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện đối với cơ quan hành chính
nhà nước. Trên cơ sở đó, cơ quan quyền lực nhà nước kịp thời đề ra những thời gian cụ
thể và biện pháp thích hợp khắc phục những khó khăn và tồn tại ấy.
Thông qua hoạt động giám sát cơ quan quyền lực nhà nước sẽ kiểm nghiệm được tính
thực tiễn của các quy phạm pháp luật do cơ quan mình ban hành; từ đó có thể thấy được
những nội dung được quy định trong luật, nghị quyết đã phù hợp với thực tiễn quản lý
hành chính nhà nước hay chưa? Nếu phát hiện thấy khiếm khuyết về hình thức hay nội
dung chưa phù hợp thì cơ quan quyền lực nhà nước cần phải tiến hành bổ sung nhanh
chóng, kịp thời điều chỉnh vấn đề sát với thực tiễn, đưa ra những biện pháp, giải pháp
khắc phục để cơ quan quản lí hành chính thực hiện tốt chức năng chấp hành và điều
hành, xác lập, duy trì quản lý nhà nước hiệu quả. Thông qua đó, những cơ quan này đưa
ra những yêu cầu và những biện pháp cải tiến chế độ, quy trình lập pháp, lập quy nâng
cao hiệu lực quản lí nhà nước.
Ví dụ: Luật giao thông đường bộ được quốc hội ban hành năm 2008. Luật này chỉ

quy định về quy tắc giao thông đường bộ; kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ; phương
tiện và người tham gia giao thông đường bộ; vận tải đường bộ và quản lý nhà nước về
giao thông đường bộ. Để cụ thể hóa luật của Quốc hội , bảo đảm luật của Quốc được áp
dụng trong đời sống, tất cả cá nhân tuân thủ triệt để. Chính phủ đã ban hành nghị định số
34/ 2010 Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ.
Nghị định này quy định về hành vi vi phạm, hình thức và mức xử phạt, thẩm quyền và
thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ; Vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ là những hành vi của cá nhân, tổ chức vi phạm
quy định của pháp luật trong lĩnh vực giao thông đường bộ một cách cố ý hoặc vô ý mà
không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành
chính: Các hành vi vi phạm quy tắc giao thông đường bộ; Các hành vi vi phạm quy định
về kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ; Các hành vi vi phạm quy định về phương tiện
tham gia giao thông đường bộ; Các hành vi vi phạm quy định về người điều khiển
phương tiện tham gia giao thông đường bộ; Các hành vi vi phạm quy định về vận tải
đường bộ; Các hành vi vi phạm khác liên quan đến giao thông đường bộ.
2. Hoạt động giám sát thấy được khó khăn phức tạp của hoạt động quản lý
hành chính, từ đó đưa ra được những quyết sách, chiến lược kịp thời làm nền tảng
cho hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
Hoạt động quản lí hành chính tiến hành trên phạm vi rất rộng, quản lí nhiều
ngành, nhiều lĩnh vực và từng địa phương. Nhiệm vụ quản lí hành chính nhà nước được
thực hiện trên thực tế thông qua những hoạt động cụ thể khác nhau. Những hoạt động cụ
thể này rất phong phú về nội dung và phức tạp về hình thức do nó được các chủ thể có
nhiệm vụ khác nhau ban hành ở các cấp quản lí khác nhau tiến hành. Những quy tắc xử
sự chung trong luật và các văn bản khác của cơ quan quyền lực nhà nước không bao hàm
hết mọi vấn đề của đời sống xã hội. Chúng chỉ là những quy định chung chung cần được
cụ thể hóa trong từng lĩnh vực của quản lí hành chính nhà nước. Cơ quan hành chính là
cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước. Do vậy, nhiệm vụ cụ thể hóa đó
được trao cho các cơ quan hành chính nhà nước tương ứng. Hoạt động này, không nhằm
thay đổi những quy định chung mà nhằm bảo đảm việc chấp hành những quy định chung
bằng cách bổ sung những quy phạm pháp luật hành chính do các cơ quan hành chính nhà

nước ban hành nhằm cụ thể hóa, chi tiết hóa những quy phạm luật căn cứ vào những
điều kiện lãnh thổ và thời gian, đảm bảo chấp hành luật một cách đúng đắn, hiệu quả,
phù hợp với những yêu cầu của luật. Ngoài việc ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật, ban hành văn bản áp dụng quy phạm pháp luật cũng là hình thức hoạt động chủ yếu
của cơ quan hành chính nhà nước, áp dụng một hay nhiều quy phạm pháp luật vào một
trường hợp cụ thể, trong những điều kiện cụ thể. Việc ban hành văn bản áp dụng quy
phạm pháp luật làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt những quan hệ pháp luật hành
chính cụ thể. Bằng việc ban hành văn bản áp dụng quy phạm pháp luật, các chủ thể quản
lí hành chính nhà nước giải quyết những việc cụ thể liên quan đến đến cơ quan tổ chức
hay cá nhân trên cơ sở những yêu cầu được quy định trong các văn bản quy phạm pháp
luật. Thông qua việc ban hành văn bản áp dụng quy phạm pháp luật, các chủ thể quản lí
hành chính nhà nước tác động một cách tích cực và trực tiếp đến mọi mặt hoạt động của
các cơ quan cấp dưới, các cơ quan và tổ chức trực thuộc, các tổ chức phi nhà nước và
công dân, cà nhân và tổ chức nước ngoài tham gia vào quan hệ quản lí hành chính nhà
nước. Phạm vi tác động của các văn bản loại này rất rộng. Đó là những vấn đề về tổ
chức, xác định nhiệm vụ, đặt nghĩa vụ cụ thể, thỏa mãn những yêu cầu hợp pháp của
công dân, áp dụng các chế tài hành chính. Thực chất toàn bộ hoạt động hàng ngày của
các chủ thể quản lí hành chính nhà nước thể hiện trong các văn bản áp dụng quy phạm.
Những văn bản loại này tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích của các đối tượng có liên
quan nên đòi hỏi các chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản phải có kiến thức pháp lí
va chuyên mộ cần thiết, thận trọng trong từng trường hợp, xem xét kĩ mọi mặt của vấn
đề cần giải quyết để có thể đưa ra quyết định đúng đắn và hợp lí. Về phương pháp quản
lí hành chính phải đảm bảo tác động lên tất cả các lĩnh vực quản lí, phải đa dạng và thích
hợp tác động lên những đối tượng khác nhau; các phươngpháp phải có tính khả thi, các
phương pháp quản lí phải mềm dẻo, linh hoạt đảm bảo tác động quản lí lên các đối tượng
quản lí phù hợp với đặc điểm và thực trạng của đối tượng quản lí ở những thời điểm
nhất định, trong những hoàn cảnh nhất định.
Như vậy, hoạt động quản lí hành chính nhà nước rất phức gặp rất nhiều khó khăn và
phức tạp. Qua hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước thấy được khó khăn
phức tạp của hoạt động quản lý hành chính, từ đó đưa ra được những quyết sách, chiến

lược kịp thời làm nền tảng cho hoạt động quản lí hành chính nhà nước.
3. Phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý
hành chính để bảo vệ trật tự quản lý hành chính nhà nước đã đươc xác lập. Thông
qua hoạt động giám sát, Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp phát hiện ra
những vi phạm pháp luật xâm phạm tới trật tự và lợi ích nhà nước, xã hội và công
dân của cán bộ nhà nước, từ đó mà kịp thời xử lí hoặc yêu cầu các cấp, các ngành
xử lí nghiêm minh những vi phạm đó để củng cố pháp chế.
Quốc hội giám sát hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và
các thành viên khác của Chính phủ trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của
Quốc hội; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Khi phát hiện văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ có dấu
hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội thì Uỷ ban thường vụ Quốc hội sẽ
xem xét, đình chỉ việc thi hành và trình Quốc hội xem xét, quyết định việc bãi bỏ một
phần hoặc toàn bộ văn bản đó tại kỳ họp gần nhất.
Ngoài ra thông qua hoạt động của các tổ đại biểu, và các đại biểu Quốc hội ở các
địa phương và cơ sở đặc biệt thông qua việc tiếp xúc của họ với các cử tri, nghe đề nghị
cũng như yêu cầu và khiếu nại của cư tri về về việc thực nhiệm vụ của cơ quan hành
chính nhà nước và các cán bộ có thẩm quyền ở những cơ quan ấy. Uỷ ban thường vụ
Quốc hội giám sát việc thi hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo; xem xét báo cáo của
Chính phủ về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; tổ chức Đoàn giám sát hoặc giao Hội
đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Khi phát
hiện có hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì Uỷ ban thường vụ Quốc hội yêu cầu cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp để kịp thời chấm dứt hành vi vi
phạm pháp luật, xem xét trách nhiệm, xử lý người vi phạm, khôi phục lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân bị vi phạm, đồng thời yêu cầu
người có thẩm quyền xem xét, giải quyết; nếu không đồng ý với việc giải quyết của
người đó thì yêu cầu người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp xem xét, giải
quyết. Cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan có trách nhiệm thực hiện yêu cầu của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội và phải báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong thời hạn bảy

ngày, kể từ ngày ra quyết định giải quyết.
Hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân góp phần tích cực vào việc phát
hiện những sai trái của cơ quan, tổ chức cơ sở trong việc chấp hành pháp luật, trên cơ sở
đó kiến nghị cấp có thẩm quyền giải quyết, xử lí kịp thời những sai phạm đó; đôn đốc
các cơ quan, tổ chức hữu quan thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và của cấp
trên cũng như giải quyết các vấn đề bức xúc ở địa phương, bảo đảm thi hành có hiệu quả
các quy định cảu pháp luật và nghị quyết của hội đồng nhân dân địa phương.
Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu ra, là cơ quan chấp hành, là cơ quan
hành chính nhà nước ở địa phương chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân cùng cấp.
Uỷ ban nhân dân chấp hành hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên
và nghị quyết của hội đồng nhân dân cùng cấp. Thông qua hoạt động giám sát, Hội đồng
nhân dân xem xét văn bản quy phạm pháp luật của ủy ban nhân dân cùng cấp khi phát
hiện có dấu hiệu trái với hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội ; pháp lệnh, nghị quyết
của ủy ban thường vụ Quốc hội, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết
của hội đồng nhân dân cùng cấp. Căn cứ vào kết quả giám sát hội đồng nhân dân có
quyền bãi bỏ một phần hay toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật của ủy ban nhân dân
cùng cấp; miễn nhiệm, bãi nhiệm chủ tịch, phó chủ tịch và các thành viên khác cảu ủy
ban nhân dân. Hội đồng giám sát việc thi hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo; giám sát
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo tại địa phương.s Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp
luật, gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân thì Đoàn giám sát có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan áp dụng
các biện pháp để kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm và khôi phục lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân bị vi phạm ; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền xem xét trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi
phạm theo quy định của pháp luật.
4. Hoạt động giám sát là cơ chế kiểm soát, quản lý hành chính hữu hiệu
đảm bảo sự công bằng giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý thông qua hoạt
động giám sát.
Do đặc trưng của quan hệ quản lí hành chính nhà nước là “quan hệ quyền lực –
phục tùng” giữa một bên có quyền nhân danh nhà nước ra những mệnh lệnh bắt buộc đối

với bên kia là cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có nghĩa vụ phục tùng các mệnh lệnh đó.
Chính mối quan hệ “ quyền lực - phục tùng” thể hiện sự không bình đẳng giữa các bên
tham gia quan hệ quản lí hành chính nhà nước. Sự không bình đẳng đó là sự không bình
đẳng về ý chí: chủ thể quản lí có quyền nhân danh nhà nước để áp đặt ý chí của mình
lên đối tượng quản lí; một bên có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhằm buộc đối
tượng quản lí phải thực hiện mệnh lệnh của mình; được thể hiện rõ nét trong tính chất
đơn phương và bắt buộc của các quyết định hành chính. Do đó cần có hoạt động giám sát
là cơ chế kiểm soát quản lý hành chính hữu hiệu đảm bảo sự công bằng giữa chủ thể
quản lý và đối tượng quản lý thông qua hoạt động giám sát. Nếu không có sự giám sát
chặt chẽ sẽ tạo điều kiện cho các hành vi lạm quyền, tệ quan liêu, hách dịch cửa quyền,
tham nhũng, giảm sút long tin của nhân dân vào Đảng, nhà nước.
III. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA CƠ QUAN
QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC.
1. Mặt tích cực.
Nhìn chung, hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân thực hiện
đúng theo chương trình đã đề ra, bám sát chương trình giám sát hàng năm của Quốc hộ
và Hội đồng nhân dân và tổ chức thêm được nhiều cuộc giám sát về các nội dung bức
xúc từ tình hình thực tiễn . Nội dung giám sát không dàn trải mà tập trung một số vấn đề
trọng tâm, các vấn đề bức xúc của đời sống kinh tế-xã hội, trong quản lí hành chính nhà
nước. Nhận thức về hoạt động giám sát của Quốc hội, của Hội đông nhân dân không
ngừng được nâng lên, từ cơ quan tiến hành giám sát đến cơ quan chịu sự giám sát. Các
cơ quan chịu sự giám sát đã tích cực cộng tác, đáp ứng yêu cầu của cơ quan giám sát.
Tổ chức và hoạt động giám sát ngày càng được thể chế hoá, từ những qui định
trong Hiến pháp đến các đạo luật và văn bản dưới luật. Điều đó tạo ra những cơ sở pháp
lý hết sức quan trọng cho quá trình hình thành và phát triển của hệ thống các cơ quan có
chức giám sát ở nước ta. Trên thực tế, hoạt động giám sát được thực hiện khá đồng bộ và
toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội, tạo lập được một sự kiểm soát
thường xuyên, liên tục và chặt chẽ ngay từ bản thân hoạt động của bộ mày nhà nước đến
mọi hành vi của các tổ chức và cá nhân. Làm được như vậy là vì, bản thân hoạt động
giám sát được thực hiện trên cơ sở các qui định của một hệ thống các văn bản pháp luật

thường xuyên được bổ sung hoàn thiện. Ở một mức độ nhất định, ranh giới hoạt động và
sự phân định cũng như tính chất và phương pháp tiến hành của mỗi hình thức giám sát
đã được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động
của mỗi cơ quan. Sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan đã được hình thành và phát
huy được hiệu quả hoạt động của từng cơ quan.
Nhìn chung, các hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân đã phát
hiện, xử lý được một số mặt khiếm khuyết, yếu kém về tổ chức, hoạt động của bộ máy và
những hành vi tiêu cực, tham nhũng trong cán bộ, viên chức nhà nước.
Trong phạm vi địa phương, hoạt động giám sát của Hội đông nhân dân ngày càng
có ý nghĩa thiết thực, sâu sắc; vừa giúp cho chỉ đạo, điều hành của các cấp chính quyền
tốt hơn, kịp thời chấn chỉnh những thiếu sót trong quá trình hoạt động, vừa góp phần phổ
biến, tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức của công dân tích cực thực hiện các
chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
2. Khó khăn, hạn chế.
- Số cuộc giám sát tại cơ sở tuy có tăng lên nhưng nhìn chung vẫn chưa sâu; một số cuộc
giám sát chỉ mới tiếp cận ở cơ quan, đơn vị nghe báo cáo, chưa nghiên cứu làm rõ từng
vấn đề.
- Việc huy động chuyên gia, cơ quan chuyên môn nghiệp vụ có liên quan để giúp thông
tin cho Đoàn giám sát vẫn còn rất ít, chưa thành một chế độ phổ biến do cơ chế và những
quy định về thẩm quyền tham vấn và chi bồi dưỡng cho chuyên gia chưa có.
- Đoàn ĐBQH chỉ mới chú trọng đến việc chất vấn trực tiếp tại kỳ họp, công tác chất vấn
giữa hai kỳ họp thực hiện không đều, không thường xuyên. Việc giám sát văn bản quy
phạm pháp luật nhìn chung chưa thực hiện được.
- Nhiều kiến nghị sau giám sát của Đoàn ĐBQH, ĐB HĐND được các cơ quan hữu quan
thừa nhận và có điều chỉnh nhưng vẫn chưa có văn bản chính thức trả lời. Một số kiến
nghị còn dàn trải, chưa thật sâu sắc và chỉ mới đưa ra khuyến nghị có tính chất chung.
Việc đôn đốc và theo dõi kết quả việc thực hiện các kiến nghị sau giám sát có được đặt
ra, nhưng chỉ dừng ở mức theo dõi và phản ánh tình hình chung. Do đó chưa thể tổng
hợp chính xác số lượng kiến nghị sau giám sát đã thực hiện.
- Trong giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, kết quả đạt được còn

nhiều hạn chế. Tỷ lệ trả lời của các cơ quan hữu quan chưa cao, trong đó còn khá nhiều
văn bản trả lời với nội dung chung chung, nhiều vụ việc tồn đọng kéo dài chưa được giải
quyết dứt điểm. Đơn thư khiếu nại, tố cáo do ĐBQH, ĐB HĐND chuyển và có ý kiến,
kiến nghị chưa thật sự được các ngành hữu quan giải quyết thấu đáo. Việc tổ chức các
cuộc giám sát các vụ khiếu nại tồn đọng lâu ngày tuy được xem là tích cực, nhưng không
nhiều và có vụ cũng chưa dứt điểm.
3. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế:
+ Số lượng ĐBQH, ĐBHĐND tham gia từng cuộc giám sát không nhiều(khoảng từ 3-4
đại biểu, có cuộc từ 2-3 đại biểu) và cũng có rất ít thời gian để nghiên cứu sâu về vấn đề
tham gia giám sát. Đặc biệt, việc giám sát văn bản quy phạm pháp luật đòi hỏi đại biểu
phải có kiến thức khá toàn diện về pháp luật, về lĩnh vực mà văn bản pháp luật đó điều
chỉnh và cần có cơ chế huy động chuyên gia giúp việc, song với điều kiện và cơ chế hiện
nay thì rất khó thực hiện được chức năng này.
+ Cơ quan, tổ chức có chức năng, giám sát chưa thực hiện đầy đủ, đúng đắn vai trò, trách
nhiệm, quyền hạn của mình theo các quy định của pháp luật. Hệ thống tổ chức, các
phương thức giám sát chậm đổi mới, không thích ứng kịp với yêu cầu và sự phát triển đa
dạng, phức tạp trong đời sống xã hội. Đội ngũ cán bộ làm công tác giám sát chưa đáp
ứng yêu cầu cả về số lượng và trình độ, năng lực, bản lĩnh, trong đó có một bộ phận suy
giảm, tha hoá phẩm chất đạo đức.
+ Các thể chế, quy chế, quy trình làm cơ sở pháp lý cho hoạt động giám sát còn thiếu
hoàn chỉnh, cụ thể, một số quy định về chức năng của các cơ quan, tổ chức không hợp lý
nhưng chậm được sửa đổi dẫn đến sự chồng chéo về thẩm quyền và hoạt động ở một số
lĩnh vực, khu vực gây khó khăn, phiền hà cho các cơ quan, đơn vị là đối tượng của giám
sát, mặt khác có một số lĩnh vực, khu vực bỏ trống, thiếu sự giám sát.
+ Một số cơ quan có chức năng giám sát song quyền hạn rất hạn chế (Hội đồng nhân dân
có quyền chất vấn, kiến nghị), thực tế cho thấy hiệu quả các chất vấn, kiến nghị thường
rất thấp vì nó phụ thuộc vào thái độ tiếp thu và biện pháp thực hiện các kiến nghị của thủ
trưởng các cơ quan, đơn vị được Hội đồng nhân dân kiến nghị.
+ Hoạt động giám sát dựa trên cơ sở bảo đảm tính thống nhất của quyền lực nhà nước từ
Trung ương đến địa phương, cơ sở, nhưng do sự phân tán của nền hành chính nên các tổ

chức giám sát ở các cấp gần như lệ thuộc hoàn toàn vào cơ quan quản lý nhà nước cùng
cấp.
+ Nhiều văn bản quy phạm pháp luật hiện nay xung đột pháp lý nên lúng túng trong xử
lý từng vụ việc. Tình trạng các văn bản pháp luật, nhất là các văn bản hướng dẫn thi hành
luật thiếu ổn định, thay đổi khá nhanh trong một thời gian ngắn làm cho hoạt động giám
sát khó thực hiện được việc xem xét, đánh giá một cách có hệ thống và có chất lượng.
+ Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đông nhân dân chưa quy định cụ thể về chế
tài trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức hữu quan trong xem xét, giải quyết các kiến
nghị sau giám sát của ĐBQH và Đoàn ĐBQH.
IV. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ TIẾP TỤC HOÀN THIỆN CƠ CHẾ GIÁM SÁT
CỦA CƠ QUAN QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC.
Một là, hoạt động giám sát của ĐBQH, ĐBHĐND phải xuất phát từ đời sống của
dân, từ những yêu cầu bức xúc trong phát triển kinh tế xã hội. Muốn nâng cao hiệu quả
giám sát, thì phải chủ động cải tiến phương thức tổ chức hoạt động giám sát, tập trung
giám sát những vấn đề theo chương trình và những vấn đề cử tri đang bức xúc, có chú ý
hình thức giám sát trực tiếp tại cơ sở. Nội dung giám sát càng cụ thể, hiệu quả thu lại sẽ
càng thiết thực.
Hai là, tăng cường mối quan hệ phối hợp hoạt động giữa Đoàn ĐBQH với Thường
trực HĐND, Uỷ ban MTTQVN Thành phố là yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh tổng
hợp nâng cao chất lượng, hiệu quả giám sát, khắc phục chồng chéo trong giám sát.
Ba là, để ĐBQH nắm rõ nội dung của vấn đề cần giám sát, cần phải có bộ phận
giúp việc đủ mạnh để tham mưu, thu thập thông tin về những nội dung giám sát, kiểm tra
tính xác thực của thông tin. Trước mỗi cuộc giám sát, tiến hành thu thập thông tin từ
nhiều nguồn khác nhau để cung cấp cho ĐBQH, ĐB HĐND những nội dung chủ yếu có
liên quan đến vấn đề cần giám sát. Từ đó xác định những nội dung trọng tâm, những vấn
đề bức xúc cần được đặt ra để yêu cầu cơ quan được giám sát giải trình, làm rõ. Trong
điều kiện bộ máy chuyên viên giúp việc còn ít, năng lực còn hạn chế, thì việc mời thêm
các chuyên gia có kiến thức, có năng lực tham gia tư vấn nội dung hoạt động giám sát
của Đoàn ĐBQH, ĐBHĐND là rất cần thiết để nâng cao hiệu quả và chất lượng giám
sát.

Bốn là, việc giám sát không chỉ dựa trên những chỉ tiêu cụ thể mà quan trọng hơn
là phải giám sát từ những giải pháp, giám sát quá trình tổ chức thực hiện để làm cơ sở
tham gia cùng Quốc hội, Hội đông nhân dân thảo luận và ban hành Nghị quyết, đề xuất
việc xây dựng hay điều chỉnh những văn bản luật phù hợp, đi vào cuộc sống. Các khâu
này phải đồng bộ, chặt chẽ.
Năm là, kiến nghị sau giám sát cần cụ thể, tránh chung chung, chỉ ra được những
mặt tồn tại, hạn chế, nguyên nhân và yêu cầu khắc phục. Trong giám sát giải quyết khiếu
nại, tố cáo, đại biểu Quốc hội, Hội đông nhân dân phải thể hiện rõ chính kiến của mình
khi chuyển đơn thư của công dân đến cơ quan chức năng giải quyết.
Sáu là, vấn đề hậu giám sát có ý nghĩa rất quan trọng. Việc thường xuyên xem xét
tiến trình giải quyết sau giám sát là yêu cầu rất quan trọng để nâng cao hiệu lực, hiệu quả
giám sát.
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ.
Cùng với các chức năng lập hiến, lập pháp và quyết định những vấn đề quan trọng
của đất nước, giám sát là một trong những chức năng chủ yếu của Quốc hội. Từ những
phân tích ở trên cho thấy hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với
việc đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước giữ một vai trò rất quan trọng.
Cơ quan quyền lực nhà nước cần phải tiếp tục hoàn thiện hơn nữa cơ chế giám sát, phát
huy những mặt tích cực đã đạt được để thực hiện tốt chức năng giám sát của mình.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, giáo trình Luật hành chính Việt Nam,
Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội 2007, 2008.
2. Trường Đại học Luật Hà Nội, giáo trình Lý luận nhà nước và pháp
luật, Nxb, Công an nhân dân, Hà Nội 2010.
3. Trường Đại học Luật Hà Nội, giáo trình Hiến pháp, Nxb, Công an
nhân dân, Hà Nội 2010.
4. Hiến pháp của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam năm 1992
( sửa đổi bổ sung năm 2001).
5. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008.
6. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của hội đông nhân dân, ủy

ban nhân dân năm 2004.
7. Luật khiếu nại tố cáo năm 1998 ( sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008 ).
8. Luật giao thông đường bộ 2008.
9. Nghị định của Chính Phủ số 134/ 2010/ NĐ – CP Quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ.
10. Luật tổ chức Quốc hội năm 2003.
11. Luật tổ chức Chính Phủ năm 2001.
12. Luật tổ chức hội đông nhân dân và ủy ban nhân dân năm 2003.
13. Trang wep: http://www. google.com
http://www. luatvietnam.com.vn
http://www. westlaw.com.
http:// www. vietlaw.gov.vn.


×