Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.7 KB, 12 trang )

BÀI TẬP LỚN
Đề tài: Giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ


Mục lục
1




Mở đầu..............................................................................................3
Nội dung............................................................................................3
Chương 1: Khái quát chung.............................................................3
1.1 Cơ sở lý thuyết...........................................................................3
1.1.1 Khái niệm về giá trị hiện thực.................................................3
1.1.2 Đặc trưng của chủ nghĩa hiện thực..........................................4
1.2 Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Đỗ Phủ............................4
1.2.1 Bối cảnh lịch sử......................................................................4
1.2.2 Cuộc đời Đỗ Phủ.....................................................................5
1.2.3 Sự nghiệp văn chương Đỗ Phủ................................................6
Chương 2: Giá trị hiện thực của nội dung thơ Đỗ Phủ.....................6
Chương 3: Giá trị nghệ thuật của hiện thực thơ Đỗ Phủ.................11
Kết luận...........................................................................................11
Tài liệu tham khảo.........................................................................12

Mở đầu
Trung Quốc là đất nước có bề dày lịch sử hàng ngàn năm do vậy mà đất

2



nước này sở hữu cho mình một kho tàng văn học đồ sộ, phong phú. Bao gồm
tất cả các thể loại: Thơ, Tiểu thuyết, Văn xuôi, Kịch. Mà mỗi một giai đoạn
lịch sử lại có một nét đặc sắc văn học riêng. Thơ ca được xem như một thanh
âm đặc sắc góp phần làm nên bản hịa tấu văn chương Trung Hoa, gắn liền
với nhiều cái tên tiêu biểu như: Lý Bạch, Bạch Cư Dị, Vương Duy và đặc biệt
là Đỗ Phủ - người được mệnh danh là thi thánh trong tứ đại thi nhân. Thơ ông
là một bức tranh sống động về lịch sử của Trung Quốc mà người đời gọi là thi
sử. Khi tìm hiểu về thơ ca Đỗ Phủ, giá trị hiện thực trong thơ ca của ông được
thể hiện sâu sắc qua từng áng thơ. Nhà thơ Đỗ Phủ đã khắc họa chân thật về
cuộc sống con người ở mọi tầng lớp, hình ảnh xã hội thời nhà Đường.
Những sáng tác của Đỗ Phủ là những hiện thực về cuộc sống và con
người dưới thời nhà Đường, do vậy tôi chọn “giá trị hiện thực trong thơ Đỗ
Phủ” làm đề tài để tìm hiểu, làm rõ hơn những giá trị hiện thực trong một số
bài thơ của Đỗ Phủ, cho thấy được xã hội hiện thực của Trung Quốc lúc bấy
giờ. Đồng thời qua đó tơi muốn đóng góp một phần nhỏ vào việc khẳng định
vị thế trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn. Góp phần nâng cao chất lượng
trong việc giảng dạy về tác phẩm văn học và tác giả Đỗ Phủ.
Nội dung
Chương 1: Khái quát chung
1.1 Cơ sở lý thuyết
1.1.1 Khái niệm về giá trị hiện thực
Giá trị hiện thực của một tác phẩm văn học là toàn bộ hiện thực đời sống
được nhà văn phản ánh thông qua tác phẩm văn học. Nhắc đến giá trị hiện
thực, trong các tác phẩm văn chương thường đề cập đến ba các vấn đề chính:
phản ánh trung thực đời sống xã hội lịch sử, khắc họa trung thực đời sống và
nội tâm của con người và có sức mạnh to lớn tố cáo xã hội, chế độ của một
thời kỳ.
Hiện thực xã hội chính là nền tảng, là cơ sở giúp các nhà thơ, nhà văn lấy
nó làm chủ đề chính trong các sáng tác của mình. Thế giới hiện thực trong
văn chương chính là cái bóng của thực tại trong cuộc sống. Thế giới hiện thực

trong các tác phẩm văn chương được sáng tạo thơng qua lăng kính thực tại
khách quan và miêu tả qua cái nhìn chủ quan của người nghệ sĩ.
1.1.2 Đặc trưng của chủ nghĩa hiện thực

3


Ở thời kỳ nhà Đường, văn hóa Trung Quốc phát triển mạnh mẽ và đây
được coi là đỉnh cao của thi ca Trung Quốc. Hai thi sĩ nổi tiếng nhất Trung
Hoa là Lý Bạch và Đỗ Phủ: “thi sĩ chỉ vẽ phác lên một cảnh, diễn một nỗi
lòng thương cảm rồi để cho độc giả tưởng tượng” [1]. Đặc biệt, các tác giả sử
dụng những thủ pháp nghệ thuật đặc sắc nhất để khai thác các vấn đề một
cách tinh tế nhất để thể hiện chiều sâu cả về sự việc và con người.
Giá trị hiện thực trong văn học thường có hai đặc điểm chính:
Đặc điểm thứ nhất: Đặc điểm của hiện thực được tác giả đưa vào tác phẩm.
Hiện thực khách quan được phản ánh trong tác phẩm là những hiện thực đời
sống thật trong một thời điểm lịch sử nhất định.
Đặc điểm thứ hai: Mỗi thời kì lịch sử sẽ gắn liền với mẫu người điển hìnhđại diện cho một giai cấp, tầng lớp xã hội đó. Chính vì vậy những con người
ấy được các nhà văn khắc họa và xây dựng thành các hình tượng nhân vật
điển hình trong chính tác phẩm của mình.
1.2 Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Đỗ Phủ
1.2.1 Bối cảnh lịch sử
Dưới thời nhà Đường, văn hóa và văn học Trung Quốc phát triển mạnh
mẽ. Nhưng do cuộc nổi loạn của An Lộc Sơn đã khiến đất nước rơi vào cảnh
điêu đứng, suy tàn. Các tầng lớp tranh dành lẫn nhau. Bởi sự lãnh đạo của vua
Đường Huyền Tông đã làm cho xã hội xảy ra nhiều biến cố như chiến tranh
xảy ra liên tục, nhân dân thì sống trong cảnh đau thương, lầm than, khổ cực vì
đói nghèo, bệnh tật. Chính vì sự suy yếu đó đã ảnh hưởng tới tư tưởng của các
nhà văn, nhà thơ yêu nước, điển hình là Đỗ Phủ.
Cơ sở hình thành giá trị hiện thực trong thơ Đỗ Phủ đó là hồn cảnh lịch sử

xã hội. Sự mâu thuẫn giữa tầng lớp thống trị và bị trị khi vua quan ăn chơi sa
đọa cịn nhân dân đói khổ lầm than. Đó chính là lí do khiến nhà thơ đi theo
con đường hiện thực, đặt bút tại hiện thực mà cất lời thơ. Thứ hai, cuộc đời
ông đã từng trải qua nhiều biến cố, gặp nhiều tầng lớp trong xã hội. Cuộc
sống khốn khó được ơng quan sát ở vị trí gần nhất cho nên yếu tố đó đã giúp
thơ ơng đậm màu sắc hiện thực. Tiếp thu tinh hoa truyền thống từ kinh thi, sở
từ, nhạc phủ… và phát triển nó một cách độc đáo, mới lạ.
1.2.2 Cuộc đời Đỗ Phủ
Nếu Lý Bạch được người đời gọi là Thi Tiên thì Đỗ Phủ được gọi là Thi

4


Thánh. Nguyễn Du từng nói về ơng:
“Thiên
cổ
văn
chương
thiên
cổ

Bình sinh bội phục bất thường li” [2]
Đỗ Phủ (712 - 770) hiệu Tử Mỹ, tự Đỗ Thiếu Lăng, là một trong những nhà
thơ lớn, vĩ đại nhất của lịch sử văn học Trung Quốc. Quê của Đỗ Phủ ở huyện
Củng, tỉnh Hà Nam (Trung Quốc). Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình
q tộc, và có truyền thống Nho học và thơ ca lâu đời. Cha là Đỗ Nhàn, mẹ là
Thôi thị xuất thân trong gia đình danh giá. Năm 20 tuổi, ông ngao du hơn
chục năm trời suốt vùng Ngô, Việt, Tề Thiệu. Năm 746, ông ra kinh đô
Trường An để ứng thí nhưng khơng được triều định lấy. Ơng sống ở Trường
An đến năm 40 tuổi thì dân ba bài phú cho Đường Huyền Tông lúc ông đang

cử hành đại lễ, vì vậy ơng được đưa vào hiền viện chờ thi để chờ tuyển dụng
nhưng bị cản trở. Sống cơ cực ở Trường An thêm 10 năm, ông được nhậ chức
quan nhỏ quản lý kho quân giới. Khi về thăm gia đình đúng lúc cuộc nổi loạn
của An Lộc Sơn diễn ra ở Trường An, ơng cùng gia đình nếm đủ mùi vị cay
đắng. Ơng để gia đình ở tại Phu Châu, trong khi quay về thì bị quân phản
nghịch bắt giam ở Trường An. Sau khi liều mạng vượt qua chiến tuyến của
địch để đến gặp nhà vua Đường Túc Tơng. Ơng được phong thành Tả Thập
Di và sau đó đưa vợ con về thành Trường An. Sau hai năm trải qua chiến
tranh, thơ của ông đã được tơi luyện và từ đó ơng trở thành nhà thơ vĩ đại của
dân tộc Trung Quốc. Đến năm 759, ông từ quan, trở về Tần Châu – Đồng
Cốc, ông dựng lều cỏ bên bờ suối Cán Hoa. Năm 762, Từ Tri Đạo làm loạn,
ông định bỏ chạy sang nước Thục nhưng bị ngăn lại và được cất nhắc làm
Tiết độ tham mưu kiểm hiệu công bộ viên ngoại lang nhưng chỉ được một
thời gian, ông tiếp tục đến Quỳ Châu sinh sống. Năm 768, ông rời Qùy Châu
đến Giang Lăng, Công An, Nhạc Châu, Hành Châu. Trong 5 năm cuối cuộc
đời ông sống trong bệnh tật và chút hơi thở cuối vào năm 59 tuổi.
1.2.3 Sự nghiệp văn chương Đỗ Phủ
Thơ của Đỗ Phủ là sự kế thừa và phát huy truyền thống hiện thực từ thơ ca
Trung Quốc mà từ Kinh Thi tới hiện đại chưa có ai vượt qua ông. Nhà thơ để
lại với đời một số lượng tác phẩm đồ sộ gồm có 1400 tác phẩm, được chia
làm hai loại: cận thể thi và cổ thể thi. Trong đó, cổ thể thi có 416 bài thơ và
cận thể thi có 1037.

5


Về nội dung thơ của Đỗ Phủ: thơ ông chủ yếu nghiêng theo đề tài như:
lòng yêu nước, thương dân, giai đoạn suy vong hiện thực của nhà Đường, tội
ác tàn nhẫn của giai cấp thống trị và tinh thần kiên cường đứng lên đấu tranh.
Đặc tả về hiện thực nhưng tràn ngập màu sắc trữ tình lãng mạn, lịng nhân đạo

sâu sắc. Những bài thơ ông viết đều hướng tới phản ánh hiện thực xã hội
đương thời, xót thương, đồng cảm và ngợi ca tình cảnh của nhân dân, còn phê
phán, châm biếm những tội ác của giai cấp thống trị.
Về nghệ thuật trong thơ của Đỗ Phủ: đó là một sự tinh tế trong tiếp nhận và
kế tục những giá trị văn chương truyền thống để đổi mới sáng tác của ơng.
Ơng sáng tác ở mọi thể loại thơ nhưng tiêu biết nhất phải nói đến thể luật thi.
Nhà thơ sử dụng các phép đối song song trong thơ của mình.
Chương 2: Giá trị hiện thực của nội dung thơ Đỗ Phủ
2.1 Phản ánh chân thực hiện thực và đời sống con người
Đỗ Phủ quan niệm về thơ ca: “Văn chương thiên cổ sự
Đắc thất thốn tâm tri”
Văn chương là sự nghiệp muôn đời được hay mất chỉ tấc lịng biết thơi - thơ
ca là lẽ sống cuộc đời ông. Những áng thơ của ông chan chứa không khí hiện
thực mãnh liệt. Ơng được gọi là “nhà viết sử bằng thơ” bởi vì trong thơ của
ơng là hiện thực lịch sử của một xã hội loạn lạc vì chiến tranh, quan lại thì
mải mê ăn chơi, hưởng thụ mặc cho dân đen đói khát, cơ cực. Từ đó mâu
thuẫn giai cấp nổi lên, cuộc nổi loạn do An Lộc Sơn cầm đầu. Hình ảnh tang
thương ấy được tác giả khắc họa một cách rõ nét nhất trong các tác phẩm:
Hậu xuất tái, Vô gia biệt, Bi Thanh Bản, Xuân vọng, Thu hứng…
Dưới ngòi bút của nhà thơ hiện thực, ông miêu tả người nông dân trong xã
hội thời đó vơ cùng khắc khổ. Cái đói cái nghèo ln thường trực trong đời
sống
của
họ:
“Hành
lữ
tương
phan
viên
Xuyên quảng bất khả việt.

Lão
thê

dị
huyện,
Thập
khẩu
cách
phong
tuyết.
Thuỷ
năng
cửu
bất
cố?
Thứ vãng công cơ khát” [3]
(Tự kinh phó Phụng Tiên huyện vịnh hồi ngũ bách
tự)

6


Cuộc sống của nhân dân vô cùng lầm than, cơ cực bởi đói nghèo. Trước mắt
ơng là sự tiêu điều, khơng khí tang thương chết chóc, gia đình thì li tán bởi
chiến tranh. Nỗi đau xót xa trước cảnh vợ xa chồng, con xa cha, anh em thì
thất lạc:
“Cảnh tiêu điều sau năm Thiên Bảo
Nhà vườn tồn là cỏ dại
Xóm
mình


hơn
trăm
nhà
Gặp đời loạn, mỗi người đi một phương
Người
cịn
khơng
tin
tức

Người chết biến thành bụi đất”
(Vô gia biệt)
Đứng trước khung cảnh này làm ta nhớ đến hình ảnh tình cảnh lẻ loi của
người chinh phụ trong “Chinh phụ ngâm” khiến ta càng căm thù chiến tranh
phi nghĩa này. Một màu ảm đạm thê lương bao trùm lấy cảnh vật nơi đây.
Khung cảnh con người thì cơ cực, cây cỏ xác xơ, chim mng đói khát, bức
trảnh ấy được chính tác giả miêu tả lại một cách chân thực nhất.
Ông hiểu thấu nỗi đau của mn vàn người dân hay nỗi đau của mn kiếp
vì chính bản thân của tác giả cũng đã phải trải qua những nỗi đau thương ấy.
Tác giả cịn có sự đồng cảm sâu sắc của mình với những số phận của nhân
dân, những bất hạnh trong cuộc sống thường ngày. Từ đó trong các tác phẩm,
ơng đã lên tiếng tố cáo cái xấu, cái ác, cái bất công và bênh vực những con
người nhỏ bé. “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá” giá trị hiện thực của
bài thơ này chính là cuộc sống khốn khổ, khổ cực của nhà thơ nói riêng và
nhân dân Trung Quốc nói chung dưới chế độ phong kiến nhà Đường:
“Tháng tám, thu cao, gió thét già,
Cuộn mất ba lớp tranh nhà ta.
Tranh bay sang sơng rải khắp bờ,
Mảnh cao treo tót ngọn rừng xa,

Mảnh thấp quay lộn vào mương sa” [4, tr.131].
Đỗ Phủ mở đầu bằng lời tự sự, độc giả thấy được những nét khắc họa tỉ mỉ
về căn nhà của mình vào một đêm gió thu trở rét. Mở ra trước mắt là cảm
cảnh mái nhà tranh rách nát, tiêu điều của Đỗ Phủ mà thiên nhiên tàn phá.
Trong phút chốc, gió thu tháng tám đã lật tung những mái tranh kia bay khắp
nơi. Với biện pháp đối lập “mảnh thấp” với “mảnh cao”, nhà thơ Đỗ Phủ đã
vẽ nên bức tranh căn nhà của ơng bị gió thu tháng tám phá nát. Ông đành bất

7


lực trước cảm cảnh như vậy và đó cịn là nỗi khổ về vật chất mà tác giả ngậm
ngùi chịu đựng. Mở đầu chỉ bằng bốn câu thơ ngắn gọn, nhà thơ Đỗ Phủ đã
mở ra trước mắt độc giả một hiện thực đầy xót xa.
Với bút pháp hiện thực Đỗ Phủ đã dựng lên một bức tranh về sự áp bức,
bóc lột, coi thường mạng sống của người dân:
“Cửa
son
mặc
chèn
ép
cướp
đoạt
nhau,
Rồi lần lượt bị giết cả ba họ!
Ngựa vua ăn nhẵn thóc đậu,
Gà quan thu hết nếp kê”
(Tráng du)
Nhà thơ Đỗ Phủ khơng chỉ nhìn thấu cuộc sống khó khăn của nhân dân, ơng
cịn lên án mâu thuẫn của xã hội lúc bấy giờ qua bài thơ Từ Kinh Đô Phụng

Tiên để vạch ra sự thật:
“Cửa son rượu thịt ơi
Ngồi đường xương chết buốt
….
Quan lớn trong triều ngáy rượu thịt
Vóc lụa thềm son chia
Do gái nghèo chịu nhọc
Roi vụt nhà cùng đinh
Tom tóp dân bệ ngọc”
(Từ Kinh Đơ đi Phụng Tiên)
Chỉ bằng vài câu thơ, miêu tả bằng vài chi tiết nhưng độc giả thấy được rằng,
tất cả mọi thứ cao sang kia đều do nhân dân vất vả làm nên. Bọn cường
quyền, giai cấp thống trị lại dùng đòn roi để sai, để trừng trị nhân dân và
chính chúng cũng là người lấy đi của cải của dân khi phải đánh đổi bằng mồ
hôi, nước mắt và máu. Nhà thơ Đỗ Phủ khéo léo sử dụng các từ ngữ “roi vụt”,
“ban”, “chia”,…như một lời mỉa mai dành cho giai cấp thống trị. Đỗ Phủ đã
lên án, quất thẳng vào giai cấp thống trị thối nát đương thời.
Lợi dụng nhân dân để lấy tư tưởng xưng danh mở rộng lãnh thổ:
“Biên
đình
lưu
huyết
thành
hải
thuỷ,
Vũ Hoàng khai biên ý vị dĩ”
(Ở biên thuỳ máu chảy thành sông thành biển
Ý muốn mở mang bờ cõi của Vũ Hoàng vẫn chưa ngưng)
Đỗ Phủ từng hỏi: bốn về đất rộng, tại sao còn cướp đất của người khác làm


8


gì? Lời tố cáo đanh thép của ơng trước hiện thực xã hội suy đồi như tiếng
lòng của người dân Trung Hoa khi bị rơi vào cảnh nước mất nhà tan.
Cuộc sống đầy máu, nước mắt, đói khát chết chóc của nhân dân luôn xuất
hiện ở thơ ông. Những từ “máu”, “nước mắt”, “khóc” xuất hiện trong thơ ơng
với tần xuất cao: trong số 997 bài có 190 lần nhắc tới “nước mắt” và “khóc”,
33 lần nhắc tới “máu”. Như vậy có thể nói chiến tranh đã lấy đi bao nhiêu giọt
lệ của những người dân Trung Hoa. Họ phải cam chịu sự chèn ép của giai cấp
thống trị.
Trong bài Lệ nhân hành tác giả đã miêu tả thú ăn chơi hưởng lạc của các
tầng lớp thống trị: “Ngày mồng ba tháng ba tươi đẹp,
Gái Tràng An rộn rịp bên sơng...
Tần Quốc, Qch Quốc trên đời trứ danh!
Bướu
lạc
đà
nồi
xanh
nấu
sẩn,
Mâm
thủy
tinh

trắng
bày
ra.
Đũa


chẳng
gắp

no,
Dao đeo chng nhạc, thái mà uổng công!”
Và của bọn vua quan triều đình:
“Cờ

rợp
trời
giăng,
Lũng
đồi
đạp
tuyết
trượt,
Suối
ấm
khí
ùn
ùn,
Qn
hầu
đơng
nghịt
nghịt.
Vua
tơi
mải


chơi,
Vui nhộn ầm trời đất”
(Tự kinh phó Phụng Tiên huyện hoài vịnh ngũ bách
tự)
Cuộc sống đối lập giữa quan trên xa hoa hưởng thụ cịn nhân dân đói khổ lầm
than, càng làm tác giả vơ cùng phẫn uất hơn:
“Nghe nói vùng này mất mùa, hạn liên tiếp

cấy
khơng
gặt,
mất
sạch
sanh
Hồ
Nam,

Nam
ười
nắng
mãi
Ruộng khơng cày được, bỏ quanh năm
Trai
lớn,
gái
nhỏ
đói
xanh
mặt

Cám
nấu
thay
cơm,
cỏ
nấu
canh

9


Mắt
thấy
người
đói
bên
đường
chết,
Hột
táo
trong
bọc
lăn
bên
mình
Mấy trăm hộ đói sống lênh đênh”
(Binh
xa
hành)
Nếu như trong thơ Lý Bạch có dịng sơng hát ca, chim mng ríu rít, vầng

trăng dun dáng thì trong thơ Đỗ Phủ dịng sông nức nở, vầng trăng thổn
thức và chim muông, cỏ cây câm lặng, úa vàng. Những bài thơ của ông cho
người đọc thấy rõ những hiện thực xã hội thời Đường của Trung Quốc. Qua
những giá trị hiện thực trong các tác phẩm của ông, người đọc càng cảm thấy
ngưỡng mộ trái tim yêu thương, đồng cảm với mọi người, và đồng thời lên án
xã hội chiến tranh phi nghĩa đã làm cuộc sống nhân dân rơi vào cảnh nước
mất nhà tan, đời sống vô cùng khổ cực.
2.2 Thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc
Tư tưởng nhân đạo trong thơ Đỗ Phủ được thể hiện ở sự thương cảm, thấu
hiểu cho số phận con người nói chung nhân dân Trung Hoa nói riêng. Những
trang thơ lên án hành động bỉ ổi, vơ nhân tính của tầng lớp vua quan. Sự đối
lập giữa cuộc sống nghèo khổ với hoan lạc, bị bóc lột với cầm quyền được
nhà thơ phê phán một cách mạnh mẽ. Qua những đối lập đó thể hiện những
mâu thuẫn giữa cái mộng và cái hiện thực. Đó là một trong những đặc trưng
thi pháp nghệ thuật của ơng. Tấm lịng nhân đạo đã tạo nên một Đỗ Phủ với
tình u thương vơ bờ bến. Kể cả khi bản thân rơi vào cảnh ngộ khốn cùng,
ông vẫn luôn nghĩ đến người khác. Ý nguyện hi sinh bản thân mình để cầu
ước cho những kẻ sĩ khác được hạnh phúc hơn, rất đáng ngưỡng mộ.
Chương 3: Giá trị nghệ thuật của hiện thực thơ Đỗ Phủ
Cái nhìn chân thực, cụ thể và chi tiết từ chiến tranh đến đói nghèo và cả số
phận bất hạnh của con người đều được Đỗ Phủ phác họa một cách rõ nét nhất.
Tất cả tác phẩm đó đều mang tính thời sự, những sự kiện lịch sử quan trọng.
Ngoài ra, Đỗ Phủ còn mở đầu cho cả thơ Nhạc phủ của Vương Tịch, Trương
Kiến; “Chính Nhạc phủ” của Bì Nhật Hưu, “Lệ nhân hành”,“Binh xa hành”,
“Tam lại”,“Tam biệt”…Cùng với cái nhìn hiện thực của mình, vận dụng
nhuần nhuyễn thể thức Nhạc Phủ đã tạo nên sự đặc sắc trong sáng tác của
mình, góp phần mở đầu một phong trào thơ ca hiện thực ở thời Vãn Đường.
Dưới sự kết hợp với một số phương thức biểu đạt “Tự sự” “Miêu tả”,

10



“Biểu cảm”. Vần thơ và nhịp rất linh hoạt, hàm súc cùng với sự công phu tinh
xảo trong ngôn ngữ thơ ông chất chứa bao niềm suy tư, giọng điệu thâm trầm
về hiện thực cuộc sống.
Các giá trị hiện thực của ông được thể hiện trên tất cả các phương diện về
nội dung cũng như nghệ thuật. Nội dung trong thơ ông là sự phản ánh xã hội
thời Đường mục nát, cũng như ơng muốn thể hiện tấm lịng nhân đạo của
mình để đất nước bình n người dân có được một cuộc sống hạnh phúc, bình
n. Cịn với nghệ thuật thì được ơng sự dụng một cách rất suất sắc với cái
nhìn đa dạng nhiều chiều, khách quan mà Đỗ Phủ luôn thể hiền trong những
bài thơ.
Kết luận
Như Lâm Ngữ Đường đã nhận xét: “Thực cũng may cho dân tộc Trung
Hoa có được những thi hào như Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị, khéo dùng nghệ
thuật mà tô điểm những ưu uất của ta, gợi cho ta tấm lòng thương cảm, đồng
tình với nhân loại” [5, tr.114]. Qua những trang thơ của Đỗ Phủ, độc giả thấy
được ông thường hướng ngịi bút của mình vào cuộc sống, chiến tranh loạn ly,
cảnh đời, cảnh người vất vả. Thơ Đỗ Phủ chất chứa tính hiện thực sâu sắc,
hiện thực ấy vừa phũ phàng, vừa trầm uất về thực tại. Một thời đại hết sức
tang thương và đầy biến loạn, xã hội thì lầm than, con người cùng cực đã
được khắc họa trong những trang thơ của Thi Thánh Đỗ Phủ. Những yếu tố
chủ quan và khách quan đó đã làm nên chất riêng của “Giá trị hiện thực trong
thơ Đỗ Phủ”. Đạt được thành công như vậy, Đỗ Phủ không chỉ sáng tác bằng
cái “tài” mà hịa quyện vào đó cịn là cái “tâm” cao đẹp, thiện lương. Cùng
với nhiều yếu tố khác, trong đó tiêu biểu là giá trị hiện thực trong mỗi tác
phẩm đã làm nên sức sống mãnh liệt và tên tuổi của Đỗ Phủ.

Tài liệu tham khảo
[1] N. Konrat(1997), Phương Đông và Phương Tây (Những vấn đề triết


11


học, triết học lịch sử, văn học Đông và Tây), Nhà xuất bản Giáo dục,
Hà Nội.
[2] Nhiều tác giả(1996), Nguyễn Du toàn tập, Nhà xuất bản Văn học, Hà
Nội.
[3] />%E1%BB%B1-kinh-ph%C3%B3-Ph%E1%BB%A5ng-Ti%C3%AAnhuy%E1%BB%87n-v%E1%BB%8Bnh-ho%C3%A0i-ng%C5%A9-b
%C3%A1ch-t%E1%BB%B1/poem-qHlDll4qtUH2nCJy2-kR4Q
[4] Nguyễn Khắc Phi(2012), Ngữ văn 7, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.
[5] Lâm Ngữ Đường, Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa, Sài Gòn,
1970.

12



×