Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Trải nghiệm sáng tạo trong biểu diễn ca khúc của học sinh THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (384.67 KB, 22 trang )

CHUYÊN ĐỀ ÂM NHẠC
“ TRẢI NGHIỆM SÁNG TẠO TRONG BIỂU DIỄN CA KHÚC
CỦA HỌC SINH THCS”
A. LÝ DO CHỌN CHUYÊN ĐỀ
I. Cơ sở lý luận
Năm học 2019-2020, với chủ đề là "Nâng cao trách nhiệm, đạo đức nhà giáo,
tăng cường công tác giáo dục đạo đức, lối sống, kĩ năng sống cho học sinh". Một
trong những định hướng cơ bản của việc đổi mới giáo dục là chuyển từ nền giáo dục
mang tính hàn lâm, kinh viện, xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục chú trọng việc
hình thành năng lực hành động, phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học.
Định hướng quan trọng trong đổi mới PPDH là phát huy tính tích cực, tự lực và
sáng tạo, phát triển năng lực hành động, năng lực cộng tác làm việc của người học.
Với chủ đề đó, thực hiện công văn số 11/KH-PGDĐT ngày 09 tháng 9 năm
2019 của Phòng GD&ĐT Thành Phố Đông Hà về hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm
học 2019 - 2020 cấp THCS và hướng dẫn số 393/PGDĐT-CM của Phòng GD&ĐT
Thành phố Đông Hà về việc hướng dẫn thực hiện chuyên đề chuyên môn cấp THCS
năm học 2019-2020, trong điều kiện thực tế của nhà trường và tình hình của học
sinh, Tổ Anh văn - Năng Khiếu Trường TH&THCS Phường 2 xây dựng chuyên đề
“Trải nghiệm sáng tạo trong biểu diễn ca khúc của học sinh THCS”.
II. Cơ sở thực tiễn
Âm nhạc là một bộ môn nghệ thuật dùng chất giọng, âm thanh để diễn đạt các
cung bậc cảm xúc, tình cảm của con người. Nó là một trong những nguồn giải trí tối
ưu và không thể thiếu trong cuộc sống của chúng ta. Đặc biệt, âm nhạc còn có thể
tác động lớn đến quá trình hình thành phát triển của con người. Nếu khơng có âm
nhạc, cuộc sống sẽ rất buồn tẻ. Âm nhạc giúp xua tan nỗi đau khổ, mang lại niềm
vui sướng, sự tươi trẻ, tràn đầy sức sống. Thưởng thức những ca khúc yêu thích giúp
con người thư thái và có rất nhiều trải nghiệm thú vị.
Chính vì những điều đó mà mơn Âm nhạc trong nhà trường là một mơn học
rất quan trọng, nó đóng một vai trò lớn trong sự phát triển về thẩm mỹ, đạo đức, trí
tuệ, thể chất của các em.
Hiện nay, với xu hướng đổi mới giáo dục tiếp cận năng lực, trải nghiệm sáng


tạo trở thành một yêu cầu hữu ích và bắt buộc. Phương pháp này giúp học sinh có
nền tảng tư duy độc lập, học sinh có thể chủ động tìm nhiều lời giải khác nhau cho
một vấn đề của môn học nói riêng và các vấn đề trong cuộc sống nói chung. Và đặc
biệt, vai trò lớn nhất của phương pháp trải nghiệm chính là mang đến niềm yêu thích
– yếu tố quan trọng nhất để học sinh tự học và học tốt.

1


Môn Âm nhạc ở trường THCS là môn học lấy hoạt động luyện tập và thực
hành của học sinh là chủ yếu. Vì vậy trong phương pháp tổ chức dạy học, học sinh
là đối tượng của hoạt động “dạy”, đồng thời cũng là chủ thể của hoạt động “học”,
được cuốn hút vào hoạt động học tập do giáo viên tổ chức, hướng dẫn, thơng qua
đó, học sinh tự lực khám phá, thể hiện khả năng cảm thụ thẩm mĩ của bản thân, trên
cơ sở hiểu biết kiến thức đó học sinh được trao đổi, thảo luận và thể hiện, giả quyết
vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ đó trau dồi kiến thức, kĩ năng mới,
khơng rập khn những khn mẫu sẵn có, được tạo điều kiện bộc lộ và phát huy
tiềm năng sáng tạo của mình.
Dạy học Âm nhạc ở THCS không chỉ là dạy cho các em biết hát, biết đọc
nhạc mà lấy “hoạt động Âm nhạc” để nâng cao hiểu biết cho học sinh, giúp các em
có thêm kiến thức, kĩ năng trong quá trình phát triển tồn diện Đức - Trí - Thể - Mĩ.
Để đạt được mục tiêu trên chúng ta cần phải có được sự tham gia tích cực của học
sinh trong mỗi hoạt động học với cảm giác thoải mái. Đó là hai yếu tố cốt lõi của
dạy học tích cực nói chung và dạy học Âm nhạc nói riêng, để nó có thể trở thành
tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá chất lượng của q trình giáo dục.
Với mơn Âm nhạc ở trường THCS có rất nhiều phân mơn nhưng với phân
môn Học hát là phân môn được các em hào hứng đón nhận nhất. Bởi trong trong
phân mơn này các em được hát, được thể hiện ca khúc theo cách riêng của mình.
Trước đây, trong những giờ học hát và luyện tập, sau khi đã hát thuộc lời ca, đúng
cao độ, trường độ… các em thường được lên trình bày ca khúc ở hình thức đơn ca

hoặc thể hiện theo nhóm. Nhưng giờ đây, để đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp
dạy học hiện đại thì sau mỗi bài học các em còn rèn luyện kĩ năng trình bày ca khúc
theo nhiều cách khác nhau sau cho phù hợp và hiệu quả. Qua đó, các em được tăng
cường thêm các hoạt động trải nghiệm sáng tạo và nâng cao hiệu quả của mỗi bài
học.
Các em có thể sáng tạo cho mình rất nhiều hình thức thể hiện khác nhau trong
cùng một bài hát… để làm được điều đó đòi hỏi các em dầu tiên phải có đam mê
trong ca hát, đam mê luyện tập và mong muốn được biễu diễn, thể hiện mình trong
ca khúc mới tạo nên một “sản phẩm Âm nhạc” được trình bày hồn hảo theo cách
riêng của mình. Với tư cách là một giáo viên Âm nhạc trực tiếp giảng dạy cho các
em, tơi thấy đó là một điều bổ ích, thú vị và tự hào. Do đó tơi ln đồng hành cùng
các em trong công đoạn dạy hát, dàn dựng tác phẩm và biểu diễn. Để làm được điều
đó đòi hỏi người giáo viên cũng cần rất tâm huyết, nhiệt tình và hòa đồng cùng các
em: Tìm hiểu kỉ về bài hát: Xuất xứ, giai điệu, ca từ, cách trình bày ca khúc theo
nhiều cách khác nhau… để từ đó tìm ra được nguồn cảm xúc, cách trình bày hay,
hiệu quả… Qua q trình tiếp xúc, làm việc với các em tơi nhận thấy rằng đây là
một đề tài hay cần phát huy rộng rãi nên tôi đã mạnh dạn đề xuất trong tổ và nhà
trường để cùng thực hiện chuyên đề “Trải nghiệm sáng tạo trong biểu diễn ca
khúc của học sinh THCS”.
III. Thực trạng vấn đề tại cơ sở
2


1. Thuận lợi
Trong thời đại của CNTT, cơ sở vật chất, phương tiện dạy học của nhà trường
ngày càng phong phú, hiện đại: máy tính, ti vi, bảng tương tác thơng minh,... dể
dàng cho giáo viên và học sinh có thể tìm kiếm tư liệu, tài liệu tham khảo, giúp giáo
viên rút ngắn được thời gian khi tổ chức thực hiện các hoạt động dạy học, nội dung
bài dạy thêm phong phú.Nhờ có điều kiện sưu tầm tư liệu, tranh ảnh minh họa cho
nội dung bài dạy đã góp phần tạo nên sự hứng thú học tập cho học sinh.

Đối với nhà trường: Đã đầu tư phòng học bộ môn, đầu tư cơ sở vật chất
thuận lợi cho việc dạy học bộ môn Âm nhạc. Lãnh đạo nhà trường luôn tạo điều
kiện cho GV được tham gia đầy đủ các lớp bồi dưỡng thường xuyên do PGD tổ
chức.
Về phía học sinh, điều kiện CNTT tiên tiến cũng giúp các em tìm kiếm, tham
khảo thơng tin, hổ trợ nhiều cho cơng tác học tập.
Trong việc thực hiện hoạt động dạy học, đánh giá theo chuẩn kiến thức, kĩ
năng, giáo viên đã xác định được những nội dung cơ bản, cần thiết trong mỗi bài
học, mức độ cần đạt cho tất cả đối tượng học sinh làm sao để bài học không khó,
khơng nặng nề đối với các em. Chú trọng đến cảm nhận được cái đẹp trong âm nhạc
và trong cuộc sống, làm cho tiết học trở nên nhẹ nhàng, hấp dẫn lơi cuốn nhiều học
sinh tích cực tham gia vào q trình học tập.
2. Khó khăn
Số lượng học sinh trong một lớp tương đối đơng , có một số lớp trên 40 em
nên rất khó khăn trong tổ chức các hoạt động học tập tích cực: nhóm học tập, trò
chơi học tập, trải nghiệm sáng tạo…Bên cạnh đó còn có rất nhiều gia đình có hồn
cảnh khó khăn nên việc gia đình quan tâm đến việc học của các em còn ít, chưa đầu
tư, vẫn còn một số em khơng có đủ dụng cụ học tập.
Đối với học sinh, rất nhiều em còn bị chi phối, ảnh hưởng của gia đình, xã
hội về các mơn chính, mơn phụ trong nhà trường. Các em phải tập trung cho các
mơn chính, lo cho thi, lo đánh giá, phần nào bỏ qua, sao lãng môn Âm nhạc. Thời
lượng của một tiết Âm nhạc 45 phút nhưng lại chứa nhiều phân môn nên thời gian
đầu tư cho luyện tập để biễu diễn ca khúc rất ít hoặc khơng có nên các em thường
hát, biễu diễn qua loa. Mặt khác, Âm nhạc là một môn thuộc năng khiếu nên rất dễ
dàng đối với các em có năng khiếu bẩm sinh hoặc đam mê và lại tạo cảm giác uể
oải, chán nản đối với những em khơng có năng khiếu hoặc khơng thích học. Hơn
nữa, một phần do bị chi phối bởi mơn chính, mơn phụ cũng gây cho các em chưa
chịu khó học tập, luyện tập, sưu tầm tư liệu tham khảo cho bài học, làm cho “ tác
phẩm Âm nhạc” thiếu đi sự phong phú, sinh động, thiếu đi yếu tố riêng biệt và sáng
tạo.

B. NỘI DUNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
3


I. Tìm hiểu về giáo dục trải nghiệm sáng tạo
1. Khái niệm về giáo dục trải nghiệm sáng tạo
Trải nghiệm là kiến thức kinh nghiệm thực tế, là thể thống nhất bao gồm kiến
thức và kỹ năng, khám phá đối tượng bằng việc tương tác với đối tượng thông qua
các thao tác vật chất bên ngồi (nhìn, sờ, nếm, ngửi...) và các quá trình tâm lý bên
trong (chú ý, ghi nhớ, tư duy, tưởng tượng). Thơng qua đó, chủ thể có thể học hỏi,
tìm tòi, sáng tạo, tiếp thu, tích lũy được những kinh nghiệm cho bản thân và hoàn
thiện các kĩ năng trong cuộc sống. Nó là kết quả của sự tương tác giữa con người và
thế giới, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Sáng tạo còn gọi là năng lực sáng tạo, tư duy hay óc sáng tạo…và mang một
nghĩa chung là sự sản xuất, tạo ra, sinh ra một cái gì đó mà trước đây chưa có, chưa
tồn tại.
Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục, trong đó, dưới sự
hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, từng cá nhân học sinh được tham gia trực
tiếp vào các hoạt động thực tiễn khác nhau của đời sống gia đình, nhà trường cũng
như ngoài xã hội với tư cách là chủ thể của hoạt động, qua đó phát triển năng lực
thực tiễn, phẩm chất nhân cách và phát huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân mình. Vì
vậy, qua hoạt động trải nghiệm người học được sử dụng tồn diện: Trí tuệ, cảm xúc,
thể chất, kỹ năng và các quan hệ xã hội trong quá trình tham gia, phải sáng tạo, tự
chủ, tự ra quyết định và thỏa mãn với kết quả đạt được.
Qua dạy học “trải nghiệm sáng tạo”, người học được tham gia tích cực vào
việc: đặt câu hỏi, tìm tòi, trải nghiệm, giải quyết vấn đề… Tự chịu trách nhiệm kết
quả của trải nghiệm không quan trọng bằng quá trình thực hiện và những điều học
được từ trải nghiệm đó, tạo cơ sở nền tảng cho việc học và trải nghiệm của cá nhân
đó trong tương lai. Qua đó khám phá kiến thức hình thành năng lực cho bản thân.
2. Một số phương pháp kỹ thuật dạy - học qua trải nghiệm

2.1. Phương pháp giải quyết vấn đề (GQVĐ)
GQVĐ là một phương pháp giáo dục nhằm phát triển năng lực tư duy, sáng
tạo, GQVĐ của HS. Các em được đặt trong tình huống có vấn đề, thơng qua việc
GQVĐ giúp HS lĩnh hội tri thức, kỉ năng và phương pháp.
Phương pháp trên được tiến hành theo các bước cụ thể như sau:
Bước 1: Nhận biết vấn đề
Trong bước này GV cần phân tích tình huống đặt ra giúp HS nhận biết được
vấn đề để đạt yêu cầu, mục đích đặt ra. Do đó, vấn đề ở đây cần được trình bày rõ
ràng, dễ hiểu đối với HS.
Bước 2: Tìm phương án giải quyết
Để tìm ra các phương án GQVĐ, HS cần so sánh, liên hệ với cách GQVĐ
tương tự hay kinh nghiệm đã có cũng như tìm phương án giải quyết mới. Các
4


phương án giải quyết đã tìm ra cần được sắp xếp, hệ thống hóa để xử lí ở giai đoạn
tiếp theo. Khi có khó khăn hoặc khơng tìm được phương án giải quyết thì cần quay
trở lại việc nhận biết vấn đề để kiểm tra lại và hiểu vấn đề.
Bước 3: Quyết định phương án giải quyết
GV cần quyết định phương án GQVĐ, khi tìm được phải phân tích, so sánh,
đánh giá xem có thực hiện được việc GQVĐ hay khơng. Nếu có nhiều phương án
giải quyết thì cần so sánh để xác định phương án tối ưu. Nếu các phương án đã đề
xuất mà không giải quyết được vấn đề thì tìm kiếm phương án giải quyết khác. Khi
quyết định được phương án thích hợp là đã kết thúc việc GQVĐ.
2.2 Phương pháp sắm vai
Sắm vai là phương pháp giáo dục giúp HS thực hành cách ứng xử, bày tỏ thái
độ trong những tình huống giả định hoặc trên cơ sở óc tưởng tượng và ý nghĩ sáng
tạo của các em. Sắm vai thường khơng có kịch bản cho trước mà HS tự xây dựng
trong quá trình hoạt động. Đây là phương pháp giúp HS suy nghĩ sâu sắc về một vấn
đề bằng cách tập trung vào cách ứng xử cụ thể mà các em quan sát được. Việc

"diễn" không phải là phần quan trọng nhất của phương pháp này mà là xử lí tình
huống khi diễn và thảo luận sau phần diễn đó.
Phương pháp sắm vai được tiến hành theo các bước nhất định bao gồm:
Bước 1: Nêu tình huống sắm vai (phù hợp với chủ đề hoạt động; phải là tình
huống mở; phù hợp với trình độ HS).
Bước 2: Cử nhóm chuẩn bị vai diễn (có thể chuẩn bị trước khi tiến hành họat
động): yêu cầu nhóm sắm vai xây dựng kịch bản thể hiện tình huống sao cho sinh
động, hấp dẫn, mang tính sân khấu nhưng khơng đưa ra lời giải hay cách giải quyết
tình huống. Kết thúc sắm vai là một kết cục mở để mọi người thảo luận.
Bước 3: Thảo luận sau khi sắm vai: khi sắm vai kết thúc, người dẫn chương
trình đưa ra các câu hỏi có liên quan để HS thảo luận.
Bước 4: Thống nhất và chốt lại các ý kiến sau khi thảo luận.
2.3 Phương pháp trò chơi
Trò chơi là tổ chức cho HS tìm hiểu một vấn đề hay thực hiện những hành
động, việc làm hoặc hình thành thái độ thơng qua một trò chơi nào đó.Trò chơi được
giới hạn bởi khơng gian và thời gian, có qui tắc tổ chức (luật chơi do nội dung chơi
quy định
Trò chơi là một hoạt động mang tính sáng tạo cao, thể hiện ở việc lựa chọn
chủ đề chơi, phân vai tạo ra tình huống, hồn cảnh chơi, sử dụng phương tiện thay
thế trong các trò chơi sáng tạo, lựa chọn các phương thức hành động và phân chia
tình huống chơi để giải quyết nhiệm vụ chơi trong những trò chơi có luật.
Về mặt tâm lý học, trong quá trình diễn ra trò chơi tất cả các thành viên của
nhóm đều tham gia hết mình và từ đó các em sẽ được trải nghiệm, bởi vì mỗi cá
5


nhân cũng như cả nhóm đang sống trong một tình huống khác với những gì các em
đã sống trong cuộc sống thực.
Việc tổ chức trò chơi được GV tiến hành theo các bước sau:
Bước 1: Chuẩn bị trò chơi

- Xác định đối tượng và mục đích của trò chơi: thơng thường, trò chơi nào
cũng có tính giáo dục, phụ thuộc vào các góc độ tiếp cận khác nhau đối với loại,
dạng trò chơi và người sử dụng, tổ chức trò chơi. Vì thế xác định đối tượng và mục
đích trò chơi phù hợp là công việc cần thiết khi tổ chức trò chơi.
- Cử người hướng dẫn chơi (GV).
- Thông báo kế hoạch, thời gian, nội dung trò chơi đến HS.
- Phân cơng nhiệm vụ cho các lớp, tổ nhóm, đội chơi để chuẩn bị điều kiện
phương tiện (lực lượng; phục trang như quần áo, khăn, cờ; còi; phần thưởng) cho
cuộc chơi.
Bước 2: Tiến hành trò chơi
- Ổn định tổ chức, bố trí đội hình: tùy từng trò chơi, địa điểm tổ chức, số
lượng người chơi mà GV bố trí đội hình, phương tiện cho phù hợp, có thể theo hàng
dọc, hàng ngang, vòng tròn hay chữ U,....
- GV xác định vị trí cố định hoặc di động sao cho mọi khẩu lệnh các em đều
nghe thấy, các động tác HS quan sát, thực hiện được, ngược lại bản thân GV phải
phát hiện được đúng, sai khi các em chơi.
- GV giới thiệu trò chơi phải ngắn gọn, hấp dẫn, dễ hiểu, dễ tiếp thu, dễ thực
hiện, bao gồm các nội dung sau: Thông báo tên trò chơi, chủ đề chơi; Nêu mục đích
và các yêu cầu của trò chơi; Nói rõ cách chơi và luật chơi. Cho HS chơi nháp/chơi
thử 1 -2 lần.
Sau đó HS bắt đầu chơi thật.
- Dùng khẩu lệnh bằng lời, còi, kẻng, chuông, trống để điều khiển cuộc chơi.
- GV hay nhóm trọng tài cần quan sát, theo dõi kỹ, chính xác để đánh giá
thắng thua và rút kinh nghiệm....
Bước 3: Kết thúc trò chơi
- Đánh giá kết quả trò chơi: GV công bố kết quả cuộc chơi khách quan, cơng
bằng, chính xác giúp HS nhận thức được ưu điểm và tồn tại để cố gắng ở những trò
chơi tiếp theo.
- Động viên, khích lệ ý thức, tinh thần cố gắng của các em, tuyên dương, khen
ngợi hay khen thưởng bằng vật chất, tạo không khí vui vẻ, phấn khởi và để lại

những ấn tượng tốt đẹp trong tập thể HS về cuộc chơi.

6


- Dặn dò các em những điều cần thiết (thu dọn phương tiện, vệ sinh nơi
chơi…)
2.4 Phương pháp làm việc nhóm
Làm việc theo nhóm nhỏ là phương pháp tổ chức dạy học - giáo dục, trong
đó, GV sắp xếp HS thành những nhóm nhỏ theo hướng tạo ra sự tương tác trực tiếp
giữa các thành viên, từ đó HS trong nhóm trao đổi, giúp đỡ và cùng nhau phối hợp
làm việc để hồn thành nhiệm vụ chung của nhóm.
Để phương pháp làm việc nhóm thực sự phát huy hiệu quả, GV cần lưu ý một
số vấn đề sau:
a) Thiết kế các nhiệm vụ địi hỏi sự phụ thuộc lẫn nhau
Có một số cách sau đây để tạo ra sự phụ thuộc giữa HS trong nhóm với nhau
như:
- Yêu cầu HS chia sẻ tài liệu; - Tạo ra mục tiêu nhóm; - Cho điểm chung cả
nhóm;
- Cấu trúc nhiệm vụ như thế nào để HS phụ thuộc vào thông tin của nhau;
- Phân cơng các vai trò bổ trợ và có liên quan lẫn nhau để thực hiện nhiệm vụ
chung của nhóm, từ đó tạo ra sự phụ thuộc tích cực.
b) Tạo ra những nhiệm vụ phù hợp với KN và khả năng làm việc nhóm của
HS
Khi thiết kế nhiệm vụ cho nhóm GV cần lưu ý các vấn đề sau:
- Đưa ra nhiệm vụ phù hợp với khả năng và đảm bảo thời gian cho HS tham
gia đầy đủ nhưng không bắt chúng chờ đợi quá lâu để được khuyến khích hay nhiệm
vụ quá nặng nhọc; điều tiết sự đi lại của HS xung quanh lớp học.
c) Phân công nhiệm vụ cơng bằng giữa các nhóm và các thành viên
GV cố gắng xây dựng nhiệm vụ như thế nào để mỗi thành viên trong nhóm

đều có cơng việc và trách nhiệm cụ thể, từ đó tạo ra vị thế của họ trong nhóm, lớp.
Muốn vậy, các nhiệm vụ phải được thiết kế cụ thể, giao việc rõ ràng và mỗi
thành viên phải tiếp nhận nhiệm vụ đó, có trách nhiệm giải quyết vì tập thể, nhóm.
d) Đảm bảo trách nhiệm của cá nhân
Để cá nhân có trách nhiệm với cơng việc của mình GV cần:
- Giao nhiệm vụ rõ ràng cho từng thành viên trong nhóm;
- Thường xuyên thay đổi nhóm trưởng cũng như người đại diện nhóm báo cáo
- Phân cơng HS trong nhóm đảm nhận các vai trò khác nhau như phân tích ở
trên (chấm)

7


- Đánh giá mức độ tham gia của cá nhân đối với kết quả cơng việc của nhóm
hoặc u cầu mỗi HS hồn thành cơng việc trước khi làm việc nhóm.
e) Sử dụng nhiều cách sắp xếp nhóm làm việc khác nhau
Có nhiều cách sắp xếp nhóm làm việc như:
- Hình thành nhóm theo nhiệm vụ;
- Hình thành nhóm học tập theo quy tắc ngẫu nhiên (đếm theo số thứ tự tương
đương với số nhóm muốn hình thành. Có thể thay đổi bằng cách đếm theo tên các
loài hoa, con vật,... cho thêm vui nhộn;
- Phân chia nhóm theo bàn hay một số bàn học gần nhau, hoặc dùng đơn vị
tổ của HS để làm một hay một số nhóm, theo giới, mức độ, thói quen làm việc, khả
năng của HS;
- Một vài người lại thích để HS tự chọn, tuy nhiên, điều này thích hợp nhất đối
với những lớp ít HS, những lớp mà các em đã biết rõ về nhau.
g) Hướng dẫn HS phương pháp, KN làm việc nhóm (KNLVN)
KNLVN là yếu tố quyết định thành cơng của học theo nhóm. Với lợi thế linh hoạt và
chủ động về thời gian, nội dung, HĐGD sẽ rất tốt cho việc rèn luyện KNLVN và
thực hành các KN xã hội khác. Vì vậy, để rèn luyện KNLVN cho HS có hiệu quả,

khi tiến hành làm việc theo nhóm trong HĐ TNST, GV cần tiến hành theo các bước
sau:
Bước 1. Chuẩn bị và giao nhiệm vụ cho hoạt động:
- GV hướng dẫn HS trao đổi, đề xuất vấn đề, xác định mục tiêu, nhiệm vụ,
cách thực hiện và lập kế hoạch; tự lựa chọn nhóm theo từng nội dung; phân cơng
nhóm trưởng và các vai trò khác cho từng thành viên;
- Hướng dẫn từng nhóm phân cơng cơng việc hợp lí, có liên quan, phụ thuộc
nhau
- Chú trọng HS vào một số KNLVN cần thiết cho hoạt động (chọn 2 - 3 KN
để nhấn mạnh): giải thích sự cần thiết; làm rõ khái niệm và cách thể hiện; tạo ra tình
huống để luyện tập; tổ chức cho HS tự nhận xét, đánh giá; yêu cầu HS thể hiện các
KN đó trong hoạt động.
Bước 2. Thực hiện:
- GV quan sát, nắm bắt thơng tin ngược từ HS xem các nhóm có hiểu rõ
nhiệm vụ khơng? có thể hiện KNLVN đúng khơng? các vai trò thể hiện như thế nào
- Giúp đỡ những nhóm vận hành đúng hướng và duy trì mối quan hệ phụ
thuộc lẫn nhau một cách tích cực
- Khuyến khích, động viên các nhóm hoặc cá nhân làm việc tốt
- Can thiệp, điều chỉnh hoạt động của nhóm khi thấy cần thiết,...
8


Bước 3. Đánh giá hoạt động: Ở bước này GV cần:
- Lôi cuốn sự chú ý của HS về nhận xét, đánh giá kết quả hoạt động của
nhóm, mức độ tham gia của từng thành viên;
- Gợi mở cho HS phân tích sự phối hợp hoạt động giữa các thành viên trong
nhóm, thể hiện các KNLVN;
- Điều chỉnh, bổ sung trên cơ sở đánh giá đúng sự cố gắng của từng nhóm,
chú trọng phân tích những KNLVN mà HS đã thể hiện;
- Đưa ra kết luận gồm kết quả hoạt động và mức độ thể hiện các KNLVN (cái

gì đã làm tốt, cần rèn luyện thêm và rèn luyện như thế nào).
Tùy theo tính chất và mục đích của từng hoạt động cụ thể cũng như điều kiện,
khả năng của các em mà GV có thể lựa chọn một hay nhiều phương pháp phù hợp.
Điều quan trọng là phương pháp được lựa chọn cần phát huy cao độ vai trò chủ
động, tích cực, sáng tạo của HS và khai thác tối đa kinh nghiệm các em đã có.
- Hoạt động TNST hướng đến những phẩm chất và năng lực chung như đã
được đưa ra trong Dự thảo Chương trình mới, ngồi ra hoạt động TNST còn có ưu
thế trong việc thúc đẩy hình thành ở người học các năng lực đặc thù sau:
+ Năng lực hoạt động và tổ chức hoạt động;
+ Năng lực tổ chức và quản lý cuộc sống;
+ Năng lực tự nhận thức và tích cực hóa bản thân;
+ Năng lực định hướng nghề nghiệp;
+ Năng lực khám phá và sáng tạo;
Chính vì vậy đầu ra của hoạt động TNST khá đa dạng và khó xác định mức
độ chung, nhất là khi nó lại ln gắn với cảm xúc – lĩnh vực mang tính chủ quan
cao, cũng là cơ sở quan trọng của sự hình thành sáng tạo và phân hóa.
"Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giữ vai trò rất quan trọng trong
chương trình giáo dục phổ thông mới. Hoạt động này giúp cho học sinh có nhiều cơ
hội trải nghiệm để vận dụng những kiến thức học được vào thực tiễn từ đó hình
thành năng lực thực tiễn cũng như phát huy tiềm năng sáng tạo của bản thân".
3. Kỹ thuật dạy - học qua trải nghiệm
Quy trình dạy - học qua trải nghiệm được thể hiện bằng “Vòng tuần hồn”
theo mơ hình 5 bước khép kín như dưới đây:
1. Giáo viên điều hành lớp.
2. HS thảo luận nhóm, làm bài tập, đóng vai, trò chơi mô phỏng...;
3. HS thông báo kết quả, cảm tưởng, phản ứng và phát hiện ra cách giải quyết
vấn đề.
9



4. HS và GV cùng nhau phân tích theo hướng: ai, cái gì, ở đâu, khi nào, tại
sao…
5. GV khái quát hóa kiến thức và đúc kết bài học và những hướng vận dụng
kiến thức vào thực tế.
4. Những điều kiện cần thiết để tổ chức dạy - học theo hướng trải nghiệm
Thứ nhất, cần có đủ điều kiện và phương tiện giảng dạy tiến tiến trang thiết bị
hiện đại như phòng bộ mơn, phương tiện nghe nhìn, học cụ, thư viện với đầy đủ tài
liệu
Thứ hai, qui mô lớp học phải hợp lý, không quá đông học sinh, đảm bảo để
giáo viên có thể quán xuyến, theo dõi, hỗ trợ học sinh một cách tốt nhất.
Thứ ba, cần có sự thay đổi của giáo viên. bản thân mỗi giáo viên phải thường
xun học tập, nâng cao trình độ, có vốn hiểu biết và kỹ năng giải quyết các thắc
mắc của học sinh này sinh trong quá trình học tập thực tế.
II. Thiết kế dạy học trải nghiệm sáng tạo để phát huy hiệu quả bài học
1. Nghiên cứu kĩ nội dung bài dạy
Việc nghiên cứu kĩ bài trước khi lên lớp là việc làm hết sức cần thiết. Tìm
hiểu bài ở SGK, SGV, tài liệu hướng dẫn chuẩn kiến thức kĩ năng các môn học để
nắm được nội dung kiến thức của tiết dạy cần cung cấp tới các đối tượng học sinh,
nắm yêu cầu cần đạt ở các mức độ (đạt chuẩn và trên chuẩn). Với nội dung kiến
thức cần đạt đó dạy học trải nghiệm như thế nào cho phù hợp?. Có thể dạy được nội
dung kiến thức đó thơng qua hoạt động trải nghiệm sáng tạo không?
2. Thực hiện các bước thiết kế
- Bước 1: Phân tích học sinh. Phân tích học sinh theo các câu hỏi: Học sinh đã
biết những kiến thức gì liên quan đến bài học? Học sinh gặp khó khăn gì hay mắc
lỗi những chỗ nào? Học sinh được học những gì từ bài học này.
- Bước 2: Xác định mục tiêu bài học
Khác với trước đây là chép mục tiêu như SGV ở đây cần xác định mục tiêu
cho từng nhóm học sinh cụ thể. Sau bài học học sinh làm được những gì (HSTB,Y),
HSKG làm được những gì?
- Bước 3: Trải nghiệm

Dạy từng nội dung kiến thức theo 3 bước trải nghiệm, phân tích và áp dụng.
- Bước 4: Phân tích rút ra bài học.
Khơng hỏi các câu hỏi mang tính khái quát mà sử dụng các câu hỏi mang tính
nhớ lại cách làm :
+ Bước đầu tiên ta làm gì?
+ Bước tiếp theo ta làm gì?
10


+ Em làm thế nào để phát hiện ra kiến thức đó?
- Bước 5: Thiết kế các bài tập khác nhau để học sinh vận dụng
3. Vận dụng phối hợp linh hoạt các phương pháp, hình thức tổ chức dạy
học trải nghiệm sáng tạo
Dự kiến các hoạt động, hình thức tổ chức, phương pháp và kĩ thuật dạy học
phù hợp nhằm phát huy tính tích cực học tập của các em, dự kiến các phương tiện
dạy học của giáo viên, học sinh. Lập được hệ thống câu hỏi gợi mở ngắn gọn, trong
sáng, dễ hiểu giúp học sinh phân tích, khái quát và chiếm lĩnh kiến thức. Lường
trước các tình huống có thể xảy ra trong tiết học để từ đó giáo viên chủ động trong
q trình dạy học, khơng phụ thuộc vào sách. Mỗi tiết dạy giáo viên cần chủ động
thay đổi các hình thức tổ chức đồng thời có thể đưa ra các tình huống có vấn đề tạo
cơ hội cho học sinh thắc mắc, tranh luận... nhằm cuốn hút mọi đối tượng học sinh
tham gia … sao cho phù hợp gần gũi với học sinh. Trong dạy học trải nghiệm sáng
tạo đòi hỏi người giáo viên phải lựa chọn phối hợp linh hoạt các phương pháp dạy
học tích cực như Phương pháp hoạt động nhóm, phương pháp thuyết trình, vấn đáp
vv…
III. Các giải pháp để phát huy tính sáng tạo của học sinh qua dạy học
trải nghiệm trong biễu diễn ca khúc
1. Một số kĩ năng học sinh cần đạt được khi biễu diễn ca khúc
1.1. Kĩ năng ca hát
Ca hát là hoạt động không thể thiếu trong đời sống hằng ngày của con

người. Phát triển kĩ năng ca hát cho học sinh là vấn đề quan trọng trong mỗi nhà
trường. Việc dạy hát cho các em học sinh THCS không chỉ giúp các em biết thêm về
nhiều bài hát khác nhau mà còn giúp các em biết thêm về nhiều bài hát khác nhau
mà còn giúp các em phát triển được tài năng của mình. Tài năng của các em đôi khi
còn là sự tiềm ẩn bên trong. Để khai phá được nó thì cần có người thầy có khả năng
nhạy bén. Từ tài năng ấy, người hướng dẫn phải trau dồi thêm những kỹ năng cho
các em, có như vậy thì kỹ năng của các em mới hồn thiện hơn. Để giúp học sinh có
kỹ năng ca hát thầy cô cần nắm được các kỹ năng ca hát ( hát nhanh, hát sắc thái: tonhỏ, hát liền giọng, hát có sự luyến láy…) và các phương pháp luyện tập đơn giản
nhất.
Để có những kỹ năng tốt giáo viên cần có phần hát mẫu chuẩn xác, có như
vậy các em mới có thể học theo, phát triển và thể hiện bài hát một cách sáng tạo.
Ngoài việc thể hiện đúng nhạc điệu, ca từ, người giáo viên cần phải đặt cảm xúc,
tình cảm của mình vào mỗi bài hát, có như vậy học sinh mới dễ cảm nhận đuọc cái
hat của tác phẩm âm nhạc.
Trong quá trình hướng dẫn các em rèn luyện và tập hát cần hướng dẫn các
em tư thế hát phải đứng thẳng hoặc ngồi thẳng. Tư thế hát đẹp là tư thế đứng thẳng
vì khi đó hơi thở sâu hơn, cơ thể tự do, âm vang lên tốt hơn. Với tư thế này, giáo
viên có thể hướng dẫn học sinh thực hiện khi đã học xong bài hát, qua đó giúo các
11


em hiểu được sự khác biệt của giọng hát khi ở các tư thế khác nhau. Cùng với đó
phải hướng dẫn các em học sinh hát chính xác giai điệu, ca từ, đặc biệt là phải hát rõ
lời, có sự biễu cảm trong mỗi câu hát. Để rèn luyện cho học sinh nắm được kỹ năng
hát rõ lời, nhả chữ chính xác, giáo viên có thể cho học sinh đọc lời bài hát nhiều lần,
sau đó đọc lời ca kết hợp với âm hình tiết tấu âm nhạc của bài. Không lấy hơi, ngát
hơi giữa các cụm từ để đảm bảo trọn vẹn ý nghĩa của lời ca.
Có thể thấy, phương pháp rèn kỉ năng ca hát giúp học sinh phát triển được
giọng hát, tầm cữ giọng hát được mỡ rộng, biết cách sữ dụng hơi thở khi hát. Cách
hát có sự thay đổi theo thể loại bài hát, các bài hát có màu sắc riêng, các em có thể

tự xử lý được các kỹ thuật khó trong bài hát mới.
1.2. Kỹ năng phát triển tai nghe
Để có được kỹ năng ca hát tốt thì cần chú trọng đến việc phát triển khả
năng nghe. Tai nghe là một bộ phận rất quan trọng đối với quá trình tiếp thu của học
sinh trong hoạt động âm nhạc trên lớp cũng như các hoạt động ngoại khóa. Các em
nghe có tốt thì mới có thể học hỏi được những kỹ năng ca hát từ giáo viên hướng
dẫn qua đó mới có thể thể hiện thành công mỗi ca khúc.
Khi tiếp thu âm nhạc, các em cần nghe cả nhạc có lời và khơng có lời. Đó
là khi nghe giáo viên hát, đọc nhạc và khi nghe chính bản thân mình hát, nghe nhạc
để thể hiện vũ đạo,… mỗi em sẽ có những trạng thái cảm xúc khác nhau, điều này
phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau.
Để phát triển khả năng lắng nghe, các em cần có sự kiên trì, chịu khó nghe
đi, nghe lại nhiều lần để phát hiện ra những chi tiết về giai điệu, cách luyến láy từng
từ từng chữ như thế nào cho hay. Cùng với đó các em cần phải được trang bị các
thiết bị có thể phát nhạc. Điều này thực tế tại các trường THCS trên địa bàn vẫn còn
hạn chế.
1.3. Phát triển kỹ năng nhảy múa
Vũ đạo là hình thức thể hiện tâm tư tình cảm của con người rất độc đáo.
Các bộ phận cơ thể con người có sự phối hợp với nhau để tạo nên một màn trinhg
diễn đặc sắc. Với mỗi bài hát có các cách nhảy múa khác nhau, điều này phụ thuộc
vào nội dung, giai điệu bài hát, đặc biệt là sự cảm thụ và phong cách thể hiện của
người biểu diễn.
Để có một tiết mục nhảy múa mang tính nghệ thuật chuyên nghiệp, thể hiện
được cảm xúc , truyền đạt được nội dung tư tưởng của bài hát thì người biểu diễn
phải năm được những kỉ năng múa cơ bản. Đặc biệt ở lứa tuổi học sinh THCS các
em rất hiếu động nhưng lại hay e ngại khi thực hiện các động tác nhảy múa, chính vì
vậy giáo viên phải tiếp thêm sức hút cho các em để các em có thể biễu diễn một
cách tự nhiên nhất.
Một số kỹ năng mà người múa phải năm được: Kỹ năng mô phỏng, kỹ
năng mềm dẻo, kỹ năng mở ( đưa tay, xoay người…), kỹ năng khống chế ( khống

chế nét mặt, cơ thể…), kỹ năng nhảy… Trong đó, kỹ năng nhảy là một kỹ năng khó,
12


nó đòi hỏi người biểu diễn phải có cách xử lý tốt, đặc biệt là khả năng sử dụng đôi
bàn chân khéo léo. Giáo viên cần phải hướng dẫn các em giữ thăng bằng tư thế và
cách điều khiển mũi bàn chân sao cho vừa đảm bảo sự an toàn mà vừa thể hiện được
kỷ năng điêu luyện có những động tác uyển chuyển nhất.
Nhìn chung, để có tiết mục vũ đạo đẹp, người biễu diễn phải biết điều
khiển các bộ phận cơ thể, kết hợp những kỹ năng sao cho khéo léo.
2. Cách dàn dựng biễu diễn ca khúc
2.1. Xây dựng thiết kế tiết mục
Xây dựng thiết kế là bước đầu rất quan trọng trong việc dàn dựng tiết mục
biễu diễn. Bất kì một chương trình biễu diễn nghệ thuật nào cũng cần phải có bản
thiết kế chương trình chi tiết. Việc xây dựng thiết kế chương trình sẽ tạo nên sự
thành cơng trong q trình chạy chương trình. Vì vậy, tuy chỉ là một tiết mục nhỏ
nhưng cơng tác xây dựng, thiết kế cũng rất quan trọng.
2.2. Lựa chọn ý tưởng
Để có một tiết mục biểu diễn hay, thu hút được sự hưởng ứng của mọi người,
thì ca khúc được biểu diễn cần được lựa chọn hình thức phù hợp. Trong mỗi ca khúc
thường có nội dung, ý nghĩa của bài. Giai điệu, tiết tấu cũng đã rất rõ ràng. Vấn đề
là chỉ từ một ca khúc đó các em có thể suy nghỉ, sáng tạo ra nhiều hình thức biểu
diễn khác nhau: Đơn ca, song ca, đồng ca, hát múa phụ họa… Từ những hình thức
đó lựa chọn cho mình hình thức thể hiện hay, hợp lý, độc đáo, sáng tạo mà vẫn hiệu
quả. Có thể cũng một bài nhưng nhiều hình thức biểu diễn khác nhau, tùy thuộc vào
sự sáng tạo của các em.
2.3. Chọn diễn viên và lên kế hoạch tập luyện
Con người là yếu tố trung tâm của mọi hoạt động, trong hoạt động biểu diễn
Âm nhạc người biểu diễn có vai trò vơ cùng quan trọng. Tùy thuộc vào nhân tố sẵn
có để lựa chọn hình thức biểu diễn phù hợp. Nếu trong nhóm, tổ có một nhân tố có

giọng hát tốt thì có thể chọn hình thức đơn ca, đơn ca múa phụ họa, hay song ca,
tam ca…, còn nếu trong nhóm, tổ có giọng hát đều nhau, khơng có nhân tố nổi trội
thì nên hát đồng ca, tốp ca… Sau khi xác định được hình thức biễu diễn, chúng ta
nên lên kế hoạch tập luyện cụ thể, nghiêm túc, bố trí thời gian hợp lý, phân công cụ
thể từng công việc cho từng người chịu trách nhiệm.
2.4. Tổng duyện và biểu diễn
Để có chương trình biểu diễn được sn sẽ, cần có buổi tổng duyệt chuơng
trình để thấy được những điều đã làm được và chưa làm được để từ đó đưa ra những
biện pháp kịp thời điều chỉnh những lỗi còn mắc phải.
Sau khi tổng duyện chương trình sẽ được đưa vào biểu diễn. Buổi biểu diễn
là kết quả của một q trình của cả tập thể. Do đó , để có được sức hút cần có màn
mỡ đầu tốt, tạo khơng khí vui tươi cho mọi người. Màn mỡ đầu thường là tiết mục
tập thể sôi động…
13


3. Dạy học theo chủ đề, linh hoạt chương trình và tích hợp liên mơn
trong giáo dục trải nghiệm.
Trong định hướng GD mới nhấn mạnh việc dạy học theo chủ đề sẽ thuận lợi
cho việc phát triển năng lực chuyên biệt cho học sinh. Trong dạy học theo chủ đề,
các bài học có nội dung phù hợp sẽ được nhóm lại với nhau tạo sự liền mạch, tránh
ngắt quãng khi đang khai thác, thực hành một vấn đề cụ thể. Học sinh có thời gian
chuẩn bị từ đó sẽ phát huy được năng lực thực hành sáng tạo dể dàng hơn.
Ví dụ: Mơn Âm nhạc 6 từ tiết 22 đến tiết 24 với chủ đề NIỀM VUI TUỔI
THƠ gồm các bài hát: Niềm vui của em, ngày đầu tiên đi học.
Môn Âm nhạc 7 từ tiết 9 đến tiết 12 với chủ đề HỊA BÌNH gồm bài
hát Chúng em cần hịa bình, ANTT: Nhạc sĩ Đỗ Nhuận và bài hát Hành qn xa.
Ngồi ra linh hoạt chương trình giúp giáo viên dựa trên tình hình thực tế
giảng dạy tại trường cũng như năng lực của học sinh để đưa ra phân phối chương
trình hợp lý, hoặc tổ chức dạy học trải nghiệm một cách phù hợp, tránh tình trạng

quá tải, hay rập khn.
Tích hợp liên mơn và giáo dục kĩ năng sống trong mỗi bài học phù hợp là
nhiệm vụ mà mỗi giáo viên phải lồng ghép vào trong quá trình dạy học, các mơn
học trong trường THCS đều có mối liên hệ nhất định với nhau, kiến thức môn này
sẽ liên quan đến kiến thức môn kia. Với môn Âm nhạc đặc biệt rất dễ tích hợp với
mơn Lịch sử, Ngữ văn, Giáo dục cơng dân, Mĩ thuật... ngồi ra còn có thể tích hợp
với mơn Tốn trong các bài nhạc lí, mơn Địa lý trong các bài thường thức âm nhạc,
giới thiệu xuất xứ, vùng miền bài hát…
Ví dụ: Trong phần biểu diễn ca khúc Khúc ca bốn mùa- Âm nhạc 7- các em
có thể lồng ghép văn học qua câu lục bát.
Bốn mùa xuân hạ thu đông
Mẹ đi ra đồng trồng lúa trồng khoai
Còn em đến lớp học bài
Nắng gài tóc mẹ, mưa cài áo em
Hay để giới thiệu bài hát Đi cấy - Âm nhạc 6 – hay rất nhiều bài hát khác các
em lồng ghép tích hợp mơn Địa lý trong giới thiệu bài hát….
4. Cải tiến các phương pháp dạy học truyền thống
Các phương pháp dạy học truyền thống như thuyết trình, đàm thoại, luyện
tập… là những phương pháp quan trọng trong dạy học. Đổi mới phương pháp dạy
học là cải tiến để nâng cao hiệu quả và hạn chế nhược điểm của chúng.
PPDH truyền thống là phương pháp dạy học lấy hoạt động của người thầy là
trung tâm, là quá trình chuyển tải thông tin từ người thầy sang học trò. Thực hiện lối
dạy này, giáo viên là người thuyết trình, diễn giảng, học sinh là người nghe, nhớ, ghi
chép và suy nghĩ theo. Song do quá đề cao người dạy nên nhược điểm của PPDH
14


truyền thống là học sinh thụ động tiếp thu kiến thức, giờ dạy dễ đơn điệu, buồn tẻ,
kiến thức thiên về lý luận, ít chú ý đến kỹ năng thực hành sáng tạo của người học,
do đó kỹ năng vận dụng vào đời sống thực tế bị hạn chế.

PPDH hiện đại là cách thức dạy học theo lối phát huy tính tích cực, chủ động
của học sinh. Giáo viên là người giữ vai trò hướng dẫn, gợi ý, tổ chức, giúp cho
người học tự tìm kiếm, khám phá những tri thức mới theo kiểu tranh luận, hội thảo
theo nhóm. Người thầy có vai trò là trọng tài, cố vấn điều khiển tiến trình giờ dạy.
Ưu điểm của PPDH tích cực rất chú trọng kỹ năng thực hành, vận dụng giải quyết
các vấn đề thực tiễn, coi trọng rèn luyện và tự học.
Mỗi PPDH truyền thống hay hiện đại cũng đều có những đặc điểm, ưu thế và
nhược điểm riêng. Khơng có phương thuốc nào có thể chữa được bách bệnh, khơng
có PPDH nào là chìa khố vạn năng. Việc nghiên cứu kỹ từng bài dạy, từng đặc
điểm bộ môn và đối tượng người học để có sự phối kết hợp đa dạng các PPDH là
việc cần làm ngay của mỗi giáo viên để nâng cao chất lượng GD-ĐT.
5. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh
5.1. Giáo viên:
Giáo viên là người trực tiếp tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt động trải
nghiệm sáng tạo do đó phải hiểu sâu, hiểu rõ, hiểu kĩ, biết vận dụng hoạt động trải
nghiệm sáng tạo vào tình hình thực tế của đối tượng học sinh mình trực tiếp giảng
dạy một cách chính xác nhất, đạt hiệu quả cao nhất.
Vì vậy để dạy học có hiệu quả cần chuẩn bị một số công việc như sau:
+ Chuẩn bị bài dạy: (giáo án, các tài liệu có liên quan, thiết bị, đồ dùng dạy
học…). GV nên chuẩn bị trước một số nội dung liên quan đến bài học: Thông tin
cần thiết liên quan đến bài học, Một số hình thức biểu diễn ca khúc trên youtobe,
các videoclip văn nghệ của học sinh qua các năm học hoặc qua các buổi sinh hoạt
văn hoa, văn nghệ… để HS có thể tham khảo, rút kinh nghiệm…
+ Đồ dùng dạy - học chất lượng sử dụng hợp lý cho từng nội dung: Đàn, máy
tính, tivi…
+ Dự kiến hoạt động dạy- học hợp lý cho từng bài, hoạt động trải nghiệm cần
phù hợp với bài học
+ Kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học: đan xen một cách hợp lý
giữa các nội dung trong một giờ học, yêu cầu, giao nhiệm vụ rõ ràng cho từng
nhóm. Hướng dẫn các nhóm luyện tập, kiểm tra, đánh giá trong q trình tập luyện

để sữa chữa kịp thời, nhận xét đánh giá khen ngợi hoặc động viên, kích thích sự ham
hiểu biết, làm tăng năng lực hoạt động của HS trong quá trình lĩnh hội kiến thức.
Giáo viên cần tăng cường tinh thần học và tự học, luôn luôn cập nhật thông
tin để tránh cho học sinh nhàm chán và nếu tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo

15


mà giáo viên khơng có kinh nghiệm tổ chức thì sẽ khiến cho tiết học không đạt được
hiệu quả mong muốn, khơng hồn thành mục tiêu dạy học.
Hoạt động trải nghiệm sáng tạo có nội dung phong phú và đa dạng, cần có
kiến thức tổng hợp nhiều lĩnh vực, do đó GV cần nghiên cứu xây dựng kế hoạch,
chương trình tổ chức hoạt động cụ thể cho từng chủ đề.
5.2. Học sinh:
- Để đạt thành công tiết học trải nghiệm sáng tạo thì học sinh cũng phải biết
xây dựng chương trình kế hoạch, luyện tập theo sự hướng dẫn của giáo viên, luyện
tập nghiêm túc, tích cực, chuẩn bị đầy đủ những thông tin bài học, biết phân công
công việc cụ thể cho từng thành viên trong nhóm biết hợp tác để thực hiện được
mục tiêu đã đề ra.
Hoạt động trải nghiệm sáng tạo về cơ bản mang tính chất hoạt động tập thể
trên tinh thần tự chủ nhằm phát triển khả năng sáng tạo và cá tính riêng của mỗi cá
nhân trong tập thể. Thông qua hoạt động trải nghiệm sáng tạo hình thành nên những
năng lực, kĩ năng sống, phẩm chất tốt đẹp của học sinh. Chính vì thế, để tổ chức
hoạt động học trải nghiệm sáng tạo các em nên tranh thủ sự hỗ trợ của giáo viên để
thực hiện đầy đủ các bước cơ bản.
- Trong quá trình dạy học hoạt động trải nghiệm sáng tạo, phương pháp hoạt
động nhóm có nhiều ưu điểm song cũng tồn tại những nhược điểm cần hải khắc
phục. Đó là trong một nhóm bao giờ cũng có người tích cực và tiêu cực, có bạn làm
việc và cũng có bạn ỷ lại không thực hiện hoạt động xây dựng bài. Vì vậy nhóm
trưởng cần có kế hoạch phân cơng nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên trong nhóm,

xây dựng quy chế đánh giá theo hướng dẫn của giáo viên để đánh giá một cách cơng
bằng, cụ thể, chính xác nhằm giúp các bạn khắc phục được khuyết điểm.
- Tiết học trải nghiệm sáng tạo là tiết học vận dụng thực hành, muốn tiết học
có hiệu quả thì khâu chuẩn bị, luyện tập là ở nhà rất quan trọng, giáo viên cần hướng
dẫn chu đáo các bước lập kế hoạch và chuẩn bị phương tiện, thiết bị, đồ dùng học
tập.
Do vậy để học sinh hoàn thành bài học một cách tốt nhất và nâng cao tính tích
cực sáng tạo giáo viên cần chú ý:
- Hướng dẫn học sinh lựa chọn hình thức thể hiện phù hợp với khả năng của
nhóm, hình thức thể hiện sáng tạo phù hợp với lứa tuổi học sinh.
- Hướng dẫn cách phân công nhiệm vụ phù hợp với điều kiện và năng lực sở
trường của từng học sinh để phát huy tối đa khả năng của tất cả các thành viên.
- Hướng dẫn cách tìm kiếm thông tin, cách lập kế hoạch cho hoạt động nhóm,
cách viết bài, cách trình bày, cách thực hiện
IV. Kế hoạch thực hiện bài dạy minh họa các bước thực hiện hoạt động
trải nghiệm sáng tạo môn Âm nhạc.
16


Tiết 17: Ôn tập
* Bước 1: Xây dựng ý tưởng:
Giáo viên nêu nhiệm vụ bài học và nội dung thực hành, gợi ý các nhóm xây
dựng ý tưởng: Biểu diễn theo chủ đề nào, hình thức, thời lượng…..
* Bước 2: Xây dựng kế hoạch:
Các nhóm cùng thống nhất lên ý tưởng. Tìm kiếm thơng tin từ SGK, tham
khảo các hình thức trên Internet, từ thực tế cuộc sống…. Báo cáo kế hoạch về việc
phân công công việc cho từng đối tượng học sinh, Giáo viên kiểm tra đôn đốc để
học sinh cuẩn bị kĩ lưỡng, tránh việc qua loa đại khái.
* Bước 3: Công tác chuẩn bị thực hiện:
Sau khi báo cáo ý tưởng đã thống nhất, học sinh chủ động bàn bạc phân cơng

thực hiện. Sưu tầm hình thức, bài viết, tài liệu liên quan đến bài học, tìm tòi nghiên
cứu ở sách báo, tạp chí, mạng Internet,…chuẩn bị cho buổi biểu diễn.
* Bước 4: Tổ chức thực hiện:
Chọn địa điểm tổ chức phù hợp.
Thực hiện: Cho học sinh biểu diễn dưới sự hướng dẫn của giáo viên qua các
hình thức: Hội thi, buổi biểu diễn…HS trải nghiệm làm MC, làm diễn viên….
* Bước 5: Đánh giá kết quả thực hiện:
Tiêu chí đánh giá:
- Về tác phẩm: cần thể hiện được nội dung bài hát, có tính sáng tạo và mang
lại hiệu quả giáo dục .
- Về hoạt động: Các thành viên tích cực, chủ động, sáng tạo hồn thành cơng
việc được giao.
Q trình kiểm tra - đánh giá để kích thích tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của học sinh và tập thể học sinh nỗ lực vươn lên
trong rèn luyện, trong học tập và hoạt động xã hội nhằm phát triển
nhân cách. Đồng thời giúp học sinh tự đánh giá để nhận ra những
ưu điểm, nhược điểm của mình, từ đó tìm ra các phương hướng,
biện pháp thích hợp để tự điều chỉnh, tự hồn thiện, động viên sự
nỗ lực vươn lên của tập thể, khích lệ sự đoàn kết, hợp tác, phát huy
tinh thần trách nhiệm, vai trị của tập thể. Đó cũng là những căn cứ
để đánh giá trình độ phát triển của tập thể, là cơ sở giúp giáo viên
tìm tịi các biện pháp phù hợp để xây dựng và phát triển tập thể
học sinh...
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Khi áp dụng dạy học trải nghiệm này vào giảng dạy mĩ thuật, tôi thấy rằng:
17


Hoạt động trải nghiệm sáng tạo có tính khả thi, thực tế, áp dụng phù hợp với
học sinh khi học bộ mơn Âm nhạc. Thơng qua hoạt động đã góp phần giáo dục và

hình thành kĩ năng sống cho các em, từ việc chủ động lên ý tưởng, phân công các
thành viên trong nhóm cùng tích cực tham gia hoạt động, sáng tạo để làm nên một
sản phẩm âm nhạc có hiệu quả cao. Đồng thời thể hiện tư tưởng, tình cảm của các
em gửi gắm vào trong tác phẩm tình yêu quê hương, yêu cuộc sống, yêu cái đẹp và
lòng tự hào dân tộc sau mỗi bài học.
Có thể nói với việc thiết kế và tổ chức cho học sinh hoạt động theo hướng đổi
mới phương pháp, tôi thấy học sinh thực sự phát huy tính tích cực, sáng tạo của
mình qua cách các em tham gia các hoạt động học tập và thể hiện lên các sản phẩm.
Với những giải pháp như đã nêu trên, tôi đã áp dụng vào phần ôn tập bài hát,
và thấy chất lượng và mức độ hào hứng tham gia sau khi áp dụng được tăng lên rõ
rệt:
Khối

6
7
8
9

Tiết học

Tổng số

Mức độ hào hứng tham gia

Bình thường

%

%


Trước áp dụng NDCĐ

97

86 - 89%

11 - 11%

Sau áp dụng NDCĐ

97

97 - 100%

0

Trước áp dụng NDCĐ

82

72 -

Sau áp dụng NDCĐ

82

82 - 100%

0


Trước áp dụng NDCĐ

72

64 - 88,9%

8 - 11,1%

Sau áp dụng NDCĐ

72

72 - 100%

0

Trước áp dụng NDCĐ

73

60 - 82,2%

13 - 17,8%

Sau áp dụng NDCĐ

73

73 - 100%


0

87,8%

10 - 12,2%

Môn Âm nhạc ở trường THCS, hoạt động thực hành là chủ yếu. Đặc biệt với
những tiết học có ơn tập bài hát thì phần biểu diễn ca khúc là điều tất yếu. Vì vậy
cần ở học sinh sự siêng năng, thích thú, luyện tập nhiều để trở thành kĩ năng thực
hành sáng tạo, trong khi hướng dẫn học sinh chuẩn bị và luyện tập, giáo viên cần
bao quát lớp để theo dõi, giúp đỡ, gợi ý, điều chỉnh, bổ sung những gì cần thiết cho
các em.
Hoạt động “Trải nghiệm sáng tạo trong biểu diễn ca khúc của học sinh
THCS” nhằm nâng cao tính tích cực, sáng tạo trong thực hành và đồng thời rèn
luyện cho các em kĩ năng thực hành theo nhóm, rèn luyện các kĩ năng biểu diễn phù
hợp với yêu cầu của mỗi bài học, từ đó học sinh u thích khi học bộ mơn. Đó là
điều bản thân tơi ln trăn trở trong suốt q trình giảng dạy của mình vì vậy tơi
thực hiện chun đề này với mong muốn tìm được những giải pháp hiệu quả hơn để
nâng cao hiệu quả dạy và học Âm nhạc nói chung và tạo được sự hứng thú cho học
18


sinh trong phần ôn tập biểu diễn ca khúc. Trong q trình thực hiện chun đề
khơng tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý từ quý thầy cô và
các anh chị đồng nghiệp. Xin trân trọng cảm ơn.
Đông Hà, ngày 25 tháng 12 năm 2019
Người thực hiện

Phạm Thanh Huyền


19


BÀI DẠY MINH HỌA

Tiết 17

Ngày soạn: 20/12/2019

* Ôn tập (t2)
I. MỤC TIÊU:
1- Kiến thức:
- Hát đúng giai điệu và thuộc lời ca hai bài hát Đi cấy, hành khúc tới trường
- Đọc đúng bài TĐN số 4, số 5.
- Tìm hiểu, tham khảo các hình thức biểu diễn để biểu diễn thành công, sáng
tạo hai ca khúc trên
2- Kỹ năng:
- Hát đúng giai điệu, sắc thái của từng bài hát.
- Đọc TĐN số 4, 5 đúng về cao độ, tiết tấu.
- Tìm tòi, luyện tập, phân cơng làm việc theo nhóm.
3- Thái độ:
- Tích cực khi ơn tập luyện tập và biểu diễn.
4- Định hướng phát triển năng lực: Năng lực cảm thụ âm nhạc, năng lực
sáng tạo, biết phân cơng làm việc theo nhóm.
II. PHƯƠNG PHÁP VÀ KĨ THUẬT DẠY HOC:
1- Phương pháp: - Phương pháp luyện tập, Phương pháp hoạt động nhóm,
trình bày …
2- Kỹ thuật: Động não, hoạt động nhóm.
3- Tích hợp:
III. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH:

1. Chuẩn bị của giáo viên:
- Xây dựng kế hoạch bài dạy đầy đủ, chi tiết.
- Hướng dẫn HS luyện tập ở nhà, gợi ý HS một số hình thức trình bày các ca
khúc đó
2. Chuẩn bị của HS:
- Học thuộc, đúng ca khúc, bài TĐN.
- Tìm hiểu, tham khảo cách trình bày, biểu diễn.
- Chọn, phân cơng, luyện tập
IV. TIẾN TRÌNH BÀI HỌC
1. Kiểm tra bài cũ:
( Lồng ghép trong tiết học)
2. Bài mới:
Cho HS nghe một số trích đoạn của các bài : TĐN số 4,5, Đi cấy, Hành khúc
tới trường
HS nêu tên bài TĐN, bài hát có trong đoạn nhạc trên.
Hoạt động 1: Ơn tập Tập đọc nhạc
20


HOẠT ĐỘNG CỦA GV & HS
- HS đọc gam C

NỘI DUNG KIẾN THỨC
1 Ôn tập Tập đọc nhạc:
- TĐN số 4
- TĐN số 5

* TĐN số 4

- Luyện tập theo dảy bàn, nhóm, cá nhân

* TĐN số 5

- Luyện tập theo dảy bàn, nhóm, cá nhân
(GV đàn và bắt nhịp- HS thực hiện )
Hoạt động 2: Ôn tập bài hát: Đi cấy, Hành khúc tới trường

HOẠT ĐỘNG CỦA GV & HS
- GV nêu lý do, nội dung của phần ôn tập –
HS điều hành.
(Nội dung: HS trình bày hai ca khúc:
Đi cấy, Hành khúc tới trường qua các hình
thức khác nhau: Đi Cấy( Tam ca, đơn ca –
Múa phụ họa) Hành khúc tới trường (Đồng
ca, Hát – Động tác phụ họa, Dân vũ). Qua
hình thức: Biểu diễn chương trình “Tiếng
hát tuổi thần tiên”)

NỘI DUNG KIẾN THỨC
2. Ôn tập bài hát
- Ôn tập bài hát: Đi cấy
- Ôn tập bài hát: Hành khúc tới trường

21


- HS điều hành
- GV nhận xét buổi biểu diễn
3. Củng cố bài học:
- GV cho HS nêu lại nội dung ôn tập.
4. Hướng dẫn HS học bài ở nhà:

+ Ôn lại các nội dung vừa ôn tập.
+ Chuẩn bị kiểm tra học kì I
V. RÚT KINH NGHIỆM TIẾT DẠY
............................................................................................................................
..................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
......................................................

22



×