Ngô Quang Đê (Chủ biên)
Nguyễn Xuân Quát, Nguyễn Hữu Vĩnh
TRỒNG RỪNG
Năm 2001
1
MỞ ĐẦU
Rừng là tài nguyên phong phú và vô cùng quý giá của đất nước.
Nói đến tác dụng của rừng thì ai cũng biết nhưng ít người nhận thức đúng giá trị của rừng.
Nói đến giá trị của rừng người ta hay nghĩ đến giá trị về gỗ với sản phẩm theo thói quen là gỗ có
đường kính lớn, chu kỳ dài. Các lâm sản khác bị coi nhẹ và gọi là lâm sản phụ. Các loại hoa rừng,
cây làm cảnh, cây dược liệu, động vật rừng, thức ăn và nguồn năng lượng từ rừng. Tác dụng thanh
lọc không khí, sản xuất dưỡng khí, tác dụng giữ đất giữ nước, cảnh quan môi trường .v. v và rất
nhiều lợi ích có thể sử dụng nhiều lần lại bị coi nhẹ hiện chưa được sử dụng đúng mức.
Tác dụng của rừng nước ta đối với kinh tế xã, hội rất đa dạng, tóm tắt như sau:
1. Tác dụng cung cấp sản phẩm và nguyên liệu: Rừng, thực vật rừng là tài nguyên cung cấp
gỗ, củi, sợi, ta nanh, hương liệu, dược liệu, thực phẩm .v.v Theo cách tính của các nhà khoa học
nước ngoài thì ở một số nước có nền công nghiệp phát triển trung bình cần 0,5m
3
gỗ mỗi năm, mỗi
người. Hiệ nay chúng ta chưa đáp ứng được nhu cầu về gỗ, củi cho xây dựng và sinh hoạt nhất là
khu vực nông thôn, chưa đáp ứng được nguyên liệu cho các khu công nghiệp và các nhà máy lớn.
Để thoả mãn yêu cầu phải đẩy nhanh tốc độ trồng rừng.
Tuy vây, giá trị về gỗ của rừng chỉ chiếm tỉ lệ rất nhỏ. Người ta tính toán thấy rằng giá trị
về gỗ của rừng chỉ chiếm từ 10-20% giá trị của rừng (tuỳ theo loài cây, từng vùng địa lý), còn lại
80-90% giá trị của rừng là giá trị phòng hộ, nuôi dưỡng nguồn nước, bảo vệ đất và bảo vệ môi
trường sống cho con người và động vật hoang dã.
2. Tác dụng sinh thái của rừng: là tác dụng to lớn không thể tính được giá trị bằng tiền.
Rừng giữ vai trò điều tiết chủ yếu trong cân bằng thành phần đại khí quyển trên địa cầu. Những
năm gần đâu, nhiều hiện tượng thời tiết thay đổi thất thường, tầng ôzôn bị phá huỷ, người ta cho
rằng trong nhiều nguyên nhân, có nguyên nhân quan trọng là do rừng bị thu hẹp, diện tích đồi núi
trọc quá lớn trên lục địa.
- Rừng có tác dụng cung cấp dưỡng khí, hấp thụ khí thải độc hại đặc biệt là CO
2
.
- Rừng và cây rừng có tác dụng chắn bụi, diệt khuẩn, làm sạch không khí.
- Rừng có tác dụng làm giảm tiếng ồn ở thành phố và các khu công nghiệp. Người ta đã đo
cho kết quả là với đai rừng rộng 40m có thể làm giảm tiếng ồn từ 10-15 đề xi ben.
3. Tác dụng nuôi dưỡng nguồn nước, bảo vệ đất, chống xói mòn. Tác dụng này vừa là tác
dụng sinh thái nhưng trên khía cạnh kinh tế thì nó phục vụ đắc lực cho các ngành nông nghiệp,
thuỷ lợi, giao thông.
Với các phương pháp khả thi, hợp lý, các nhà khoa học ở nhiều nước đã tính được giá trị
từng tác dụng của rừng. Ngoài tác dụng sinh thái của rừng thì tác dụng giữ đất, giữ nước của rừng
bao giờ cũng có giá trị lớn nhất, giữ địa vị chủ yếu. ở những nước có nhiều đồi núi, mưa nhiều thì
giá trị tác dụng này lại càng lớn.
Chúng ta chưa có những nghiên cứu, tính toán cụ thể. Song điều kiện nhiệt đới, mưa mùa,
diện tích đồi núi chiếm chủ yếu thì giá trị giữ đất giữ nước của rừng không phải nhỏ. Do mất rừng
mà gây ra xói mòi, lũ lụt, cây trồng giảm năng suất, phù sa bồi lấp các hồ nước, lòng sông, cửa
biển đã gây khó khăn và thiệt hại lớn cho nền kinh tế. Một thực tế ai cũng thấy là hàng năm ta đều
phải đắp đê cao lên, gia cố chắc chắn hơn, không phải vì năm sau mưa nhiều hơn năm trước mà là
vì lòng sông ngày càng đầy lên do phù sa lắng đọng; do diện tích rừng ngày càng bị mất đi, tác
dụng giữ nước kém, hễ mưa là nước chảy xuống gây ra lũ lụt.
Rừng là kho tàng dược liệu vô giá. Tân dược rất tiện lợi, có nhiều loại tác dụng nhanh,
nhưng tân dược thường có tác dụng phụ.
Ngày nay, nhiều nước công nghiệp tiên tiến cũng chú trọng thảo dược. Nhiều cây rừng và
cây dưới tán rừng có tác dụng làm thuốc chữa bệnh, thuốc kháng sinh và thuốc bổ rất quí và hiệu
nghiệm. Các loài cây dùng làm thuốc ai cũng biết như Hoài sơn, Đỗ trọng, Quế, Hồi, Sâm, Qui,
2
Tam thất, Sinh địa, Ba kích, Sa nhân .v.v Ngoài ra còn rất nhiều bài thuốc gia truyền khác đang
được các dân tộc sử dụng. Các bài thuốc chữa cảm sốt, ho gà, cầm máu, tiêu chảy .v.v. rất hiệu
nghiệm đã được sử dụng phổ biến.
Phấn hoa là nguồn dinh dưỡng tốt chống suy nhược. Các nhà khoa học xác định cho thấy
phấn hoa chứa 20-35% Protein, 14 loại khoáng, rất nhiều Vitamin nhóm B và các Vitamin A, C,
D, E, K .v.v
4. Rừng còn có tác dụng với quốc phòng; là chướng ngại vật tự nhiên đặc sắc. Tác dụng
với quốc phòng được nhà thơ Tố Hữu tổng kết rất đầy đủ, sâu sắc: "Rừng che bộ đội, rừng vây
quân thù".
Tài nguyên rừng và thực vật rừng có những đặc điểm riêng, đó là:
- Tính khu vực: Do hoàn cảnh địa lý khác nhau dẫn đến sự phân bố của rừng và thực vật
rừng khác nhau. Phân bố rừng và qui luật sinh trưởng của rừng khác nhau theo vĩ độ địa lý, theo
độ cao. Cần nhận rõ để lựa chọn cây trồng cho đúng.
- Tính tái tạo: Rừng là nguồn tài nguyên có thể tái sinh, nếu con người biết sử dụng hợp lý,
canh tác hợp lý thì rừng và thực vật rừng tái sinh, có thể sử dụng nhiều lần, dùng không hết.
- Tính đa dạng: Rừng có rất nhiều tác dụng như đã nói ở trên. Khi lợi dụng cần có cái nhìn
toàn diện, không nên chạy theo lợi ích nhỏ trước mắt, lợi ích cục bộ mà làm tổn thất đến lợi ích
chung, lợi ích lâu dài. Từ góc độ lợi ích xã hội, lợi ích kinh tế, lợi ích sinh thái của rừng, thống
nhất trên cái nhìn tổng thể, phân tích có hệ thống để chọn ra phương án trồng rừng, khoanh nuôi
rừng và sử dụng rừng hợp lý nhất.
Nguyên liệu
cho công nghiệp, gỗ,
củi, dầu nhựa và các
thứ khác, thực phẩm trực
tiếp hoặc gián tiếp cho
người và động vật.
Điều tiết và bảo vệ và môi trường.
Nuôi dưỡng nguồn nước, bảo vệ
đất, chắn gió, thanh lọc không khí,
giảm tiếng ồn, lưu giữ nguồn gen.
Chuyển hoá
năng lượng
chung và năng
lượng mặt trời
thành năng lượng
hoá học.
Rừng và thực vật rừng
Nơi cư trú của các loài
động vật hoang dã.
Làm đẹp cảnh quan, thư giãn nghỉ
ngơi, dã ngoại, du lịch.
Lợi dụng đất nông nghiệp,
chăn nuôi, kiến trúc và
các mặt khác.
Sơ đồ tóm tắt tính đa dạng của rừng
(Tính biến đổi theo Liu sheng Yang 1994)
Nhìn từ tác dụng trực tiếp và gián tiếp của rừng thì rừng giữ vai trò chủ đạo trong việc phát
triển kinh tế xã hội miền núi. Năm 1994 nhân kỷ niệm ngày sinh thứ 2545 năm Khổng Tử, một
cuộc hội thảo quốc tế về nho học đã được tổ chức tại Bắc Kinh Trung Quốc. Hội thảo tập trung
thảo luận 4 vấn đề lớn, trong đó có vấn đề từ tưởng nho gia và hiện đại hoá. Điều đầu tiên trong tư
tưởng đó là thế giới quan "Thiên nhân hợp nhất" của Khổng Tử, có lợi cho việc điều tiết mối quan
hệ giữa con người và tự nhiên. Con người cần sống hài hoà với thiên nhiên, mà hiện nay chúng ta
gọi là môi trường.
3
Rừng là môi trường thiên nhiên chủ yếu bậc nhất nhưng con người đã khai thác quá mức
làm cho diện tích rừng thu hẹp dẫn đến tác hại nghiêm trọng mà chúng ta đã thấy. Nhiệm vụ trồng
rừng, bảo vệ rừng là nhiệm vụ cấp bách không những của nước ta mà trên phạm vi toàn cầu.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 8 chỉ rõ: "Phát triển nghề rừng gần với việc ổn định và cải
thiện đời sống của cư dân miền núi, tăng tốc độ phủ xanh đất trống đồi núi trọc, khoanh nuôi tái
sinh bảo vệ rừng, tạo điều kiện cho miền núi phát huy thế mạnh về lâm nghiệp"
Chính phủ đã có chương trình trồng 5 triệu ha rừng cải thiện điều kiện sống cho hàng chục
triệu cư dân miền núi, đặc biệt là hàng triệu người còn du canh.
Công tác tạo rừng của chúng ta đã đạt được nhưng thành tựu to lớn rất đáng tự hào. Tuy
vậy, cũng đang đặt ra những yêu cầu mới ngày càng cao, càng phải nỗ nực hơn nữa nhất là tăng
cường đầu tư khoa học kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý để tạo ra những khu rừng trồng có năng
suất cao, phẩm chất tốt, tác dụng phòng hộ lớn, để phủ xanh đất trống đồi núi trọc và để góp phần
thúc đẩy kinh tế miền núi.
Những vấn đề khoa học kỹ thuật của công tác tạo rừng cần làm trong giai đoạn hiện nay là:
- Chọn giống và sản xuất giống tốt đã chọn lọc, lĩnh vực này có tính trước mắt và lâu dài,
đòi hỏi đầu tư cao, nội dung đa dang bởi mục tiêu của ta cũng đa dạng như cây lấy gỗ, cây đặc sản,
cây phòng hộ.v.v
- Tạo rừng để sản xuất cây gỗ lớn, ngoài việc chọn giống ra còn cần các khâu kỹ thuật giải
quyết đúng theo yêu cầu sinh thái của cây rừng.
- Chọn loài cây trồng theo hướng nghiên cứu mở rộng các loài cây bản địa bằng cách thuần
hoá, di thực để đáp ứng yêu cầu đa dạng của con người; lại phù hợp khí hậu từng địa phương
- Nghiên cứu phương thức và phương pháp tạo rừng cho công nghiệp.
- Nghiên cứu mở rộng và đẩy mạnh công tác tạo rừng hỗn loài, nhiều tầng để tăng giá trị
phòng hộ và môi sinh .
- Nghiên cứu trồng rừng trên núi đá.
- Nghiên cứu trồng rừng và xây dựng hệ canh tác nông, lâm, ngư kết hợp ở rừng ngập mặn
ven biển, đồng thời với tác dụng chắn sóng, hướng dẫn dòng chảy, lắng đọng phù sa.
Về mặt công nghiệp cần nghiên cứu sử dụng gỗ rừng trồng, mở ra hướng đa dạng hoá sản
phẩm cũng là biện pháp thúc đẩy trồng rừng.
Môn học tạo rừng (Trồng rừng) là môn khoa học ứng dụng, gắn liền với thực tiễn sản xuất
và liên quan đến nhiều lĩnh vực khoa học khác.
Khi học tập môn tạo rừng, cần có kiến thức rộng rãi như thực vật, khí hậu, đất đai, sinh lý,
sinh hoá, di truyền chọn giống, sinh thái rừng .v.v. Đi sâu vào sinh hoá thực vật sẽ là cơ sở cho
nhiều biện pháp canh tác như bón phân, tưới nước, sử dụng chất điều tiết sinh trưởng và các biện
pháp khác.
Muốn học tốt môn tạo rừng cần vừa học, vừa hành, liên hệ thực tiễn, từ thực tiễn sẽ minh
hoạ và bổ sung cho lý luận, rồi lại từ lý luận chỉ đạo thực tiễn./.
4
Chương 1
NGUỒN GIỐNG VÀ KỸ THUẬT GIỐNG CÂY RỪNG
Trong Lâm nghiệp, trước đây nguồn giống thường được lấy từ rừng tự nhiên. Việc lấy
giống từ rừng tự nhiên ngoài các ưu điểm ra, cũng còn một số mặt hạn chế như: không chủ động
được nguồn hạt giống, phẩm chất hạt giống (nhất là phẩm chất di truyền) không đảm bảo chắc
chắn. Vì vậy, từ sau thế chiến lần thứ 2 người ta đã chú ý đến công tác chọn giống trong lâm
nghiệp và xây dựng các rừng giống vườn giống để có thể chủ động trong công tác khoa học kỹ
thuật về giống, chủ động nguồn giống đảm bảo về số lượng và chất lượng theo yêu cầu. Trong
bước quá độ khi các rừng giống, vườn giống chưa thoả mãn yêu cầu thì người ta tuyển chọn từ
rừng tự nhiên hoặc rừng trồng sẵn có để thành khu rừng giống.
Nguồn giống cung cấp cho lâm nghiệp hiện nay chủ yếu bằng hai con đường là sản xuất
giống theo con đường hữu tính ( cây mọc từ hạt) và sản xuất giống theo con đường vô tính ( cây
mọc từ hom hoặc từ mô). Trong con đường vô tính thì giâm hom vẫn là chủ yếu hiện nay.
Trong chương này chủ yếu nói tới việc xây dựng, quản lý rừng giống vườn giống và ký
thuật nhân giống.
1.1. Xây dựng quản lý rừng giống, vườn giống
1.1.1. Ý nghĩa
Công tác trồng rừng ngày càng phát triển đòi hỏi số lượng hạt giống ngày càng nhiều,
phẩm chất hạt càng cao. Nếu chỉ dựa vào tự nhiên để thu hái giống thì không những không đảm
bảo yêu cầu về số lượng để phục vụ cho kế hoạch trồng rừng ( vì cây rừng có năm được mùa, có
năm mất mùa hạt giống) mà còn không đảm bảo phẩm chất. Phẩm chất hạt giống không tốt sẽ ảnh
hưởng đến sinh trưởng và phát triển của rừng trồng, rừng trồng phát triển không đều gây khó khăn
cho việc quản lý chănm sóc và năng suất của rừng sẽ không cao vì thế mà giá thành sản phẩm sẽ
đắt. Năng suất rừng trồng cây mọc nhanh của ta mới đạt 8-10m
3
/năm, như vậy là thấp.
Thông qua việc chọn giống, xây dựng các khu rừng giống, vườn giống cố định để khắc
phục tình trạng bất hợp lý nêu trên. Qua việc chọn giống và bồi dưỡng giống tốt nhằm nâng cao
năng suất rừng trồng, bồi dưỡng định hướng cho rừng trồng phát triển sau này. Ưu điểm của việc
xây dựng các khu rừng giống vườn giống như sau:
- Đảm bảo phẩm chất di truyền được nâng cao, đảm bảo cho chất lượng rừng trồng tốt hơn;
có điều kiện nâng cao và ổn định sản lượng hạt giống bằng các biện pháp xúc tiến cây giống ra hoa
kết quả, đồng thời qua việc thâm canh trong rừng giống, vườn giống mà không ngừng cải thiện và
nâng cao phẩm chất gieo ươm của hạt giống.
- Trong các rừng giống, vườn giống cố định ta có thể xác định chính xác hơn thời vụ hạt
chín. Điều này sẽ giúp cho việc dự báo sản lượng hạt giống được tốt hơn và chủ động trong việc tổ
chức thu hái hạt giống.
- Có điều kiện tập trung kinh doanh có điều kiện cơ giới hoá một số khâu công việc như
làm đất, bón phân, chăm sóc .v.v. và áp dụng các biện pháp khác nhằm không ngừng nâng sản
lượng, chất lượng hạt giống qua đó mà hạ giá thành.
1.1.2. Xây dựng rừng giống, vườn giống.
1.1.2.1. Nguyên tắc chung
- Rừng giống, vườn giống nên lập ở những nơi lập địa tốt, phù hợp với sự phát triển của
loài cây đó, chọn lập địa thích hợp là biện pháp kinh tế nhất. Nơi điều kiện lập địa phù hợp với đặc
tính loài cây thì không những sẽ thu được sản lượng hạt giống cao mà phẩm chất hạt giống cũng
tốt, giá thành hạ.
- Giao thông thuận tiện
- Độ dốc không quá 10% để tiện cho cơ giới hoá và cho thao tác.
- Có khả năng bảo vệ tốt, không có nguy cơ cháy rừng đe doạ.
5
- Nơi chưa xảy dịch bệnh và không có nguy cơ sâu bệnh hại phát triển thành dịch.
- Phải cách ly với rừng trồng kinh tế cùng loài cây ít nhất 150m (qui phạm ngành 1993)
- Với rừng giống chọn từ vùng có sẵn thì thì tuổi rừng nên ở giai đoạn còn non, tuổi rừng
sào để có lợi cho kinh doanh hạt giống sau này.
1.1.2.2. Xây dựng rừng giống
Việc xây dựng rừng giống có thể tiến hành theo 2 cách là gây trồng từ đầu hoặc tuyển chọn
từ rừng tự nhiên hoặc rừng trồng có sẵn để làm rừng giống.
1.1.2.2.1. Trồng mới
Việc gây trồng rừng giống cần chú ý từ khâu chọn cây mẹ lấy giống cần có hình thái phù
hợp yêu cầu. Sau khi gieo ươm có thể tiến hành chọn sớm ở vườn ươm bằng cách chọn những cây
con mọc tốt nhất trong vườn ươm để trồng rừng giống. Kỹ thuật gieo ươm và kỹ thuật trồng cụ thể
không khác gì việc trồng rừng. Có điều trồng rừng giống thì cần làm đất kỹ, bón lót bằng phân hữu
cơ. Khi trồng cần trồng mỗi cụm ba cây (qui phạm ngành) sau này tỉa thưa để lại một cây. Trồng
thưa ngay từ đầu, sau khi rừng trưởng thành thì giữa các cây không bị giao tán. Tuỳ theo loài cây
cụ thể mà trồng 200-500 cụm (cây)/ha.
Sau khi trồng cần chăm sóc tỉ mỉ như làm cỏ xới đất, bón phân vun gốc, phòng trừ sâu
bệnh hại kịp thời. Các cây trong cụm cần được tỉa bỏ bớt sau khi trồng 2-3 năm, chỉ giữ lại những
cây hợp yêu cầu nhất. Cũng có thể làm nông lâm kết hợp trong những năm đầu để tăng thu nhập,
triệt để sử dụng đất.
1.1.2.2.2. Tuyển chọn từ rừng có sẵn
a. Yêu cầu với một lâm phần tuyển chọn:
- Những lâm phần được dự tuyển (rừng tự nhiên hoặc rừng trồng) phải nằm trong vùng phân bố tự
nhiên của loài cây đó.
- Lâm phần dự tuyển phải có các đặc điểm sau:
+ Có sức sinh trưởng tốt, các cây mọc đều khoẻ mạnh, có sức đề kháng cao, có hình tán
cân đối. Số cây xấu (cong queo,, nhiều cành, cành nhánh to .v.v ) chiếm tỷ lệ rất ít trong lâm phần,
số cây đạt yêu cầu lấy giống phải chiếm 60% trở lên và phân bố đều trong lâm phần.
+ Có thể chọn từ lâm phần thuần loài hoặc hỗn loài. Nếu là rừng hỗn loài thì số cây lấy
giống chiếm trên 60% và phân bố đều.
+ Lâm phần dự tuyển phải ở nơi đất tốt nhất (qui phạm ngành). Song cũng có thể lấy từ nơi
đất trung bình trở lên, sau này ta có thể bón phân (nếu nơi không có đất tốt nhất)
+ Có tuổi gần đồng nhất. Nếu khác tuổi thì cần làm hồ sơ báo cáo bộ. Rừng đang ở tuổi
non hoặc giai đoạn rừng sào.
+ Lâm phần dự tuyển không nằm trong vùng có ổ sâu bệnh hại lớn. Nếu là rừng là thông
thì chưa qua chích nhựa.
+ Diện tích không quá nhỏ, tối thiểu có diện tích 1ha trở lên để tiện quản lý. Tổng diện tích
các lâm phầm giống cần căn cứ vào yêu cầu trồng rừng (yêu cầu lấy giống) sản lượng quả và tỉ lệ
hạt/quả của từng loài cây mà xác định cho hợp lý. Có thể dựa vào công thức dưới đây để tình diện
tích rừng giống cần dùng cho một loài cây ở một vùng nhất định.
S: Diện tích rừng giống
s: Diện tích trồng rừng năm cao nhất
f: Lượng hạt cần dùng cho 1ha trồng rừng.
6
EQ
Dfs
S
.
).(
+
=
D: Lượng hạt dự trữ
Q: Sản lượng quả trên 1ha
E: Tỷ lệ hạt/quả
b. Xây dựng nhiệm vụ thiết kế và thứ tự các bước điều tra lâm phần dự tuyển.
_ Thu thập tài liệu:
Cần thu thập các tài liệu cơ bản về tình hình rừng, điều kiện dân sinh kinh tế, giao thông
trong khu vực. Đặc điểm khí hậu thuỷ văn, địa chất, thổ nhưỡng, những văn bản về qui hoạch
hoặc thiết kế kinh doanh rừng, bản đồ phân bố rừng .v.v. Căn cứ vào các tài liệu thu thập được và
căn cứ vào yêu cầu của lâm phần lấy giống để chọn ra những lâm phần phù hợp nhất trên bản đồ.
- Điều tra thực địa.
+ Khảo sát sơ bộ thực địa để nắm được tình hình địa hình, đất đai, tình hình sinh trưởng
phát triển của rừng, nguồn gốc, mật độ hiện tại .v.v đối chiếu với các tài liệu thu thập được để
chọn ra những lâm phần tương đối thích hợp cho mục đích lấy giống.
Khi thám sát sơ bộ đi theo đường chéo góc (nếu lâm phần có diện tích nhỏ) hoặc đi theo
đường song song cách nhau 50m (nếu lâm phần có diện tích lớn)
+ Điều tra chi tiết: Lập ô tiêu chuẩn 500m
2
hoặc 1000m
2
. Tuỳ theo diện tích rừng rộng
hẹp mà tổng diện tích ô tiêu chuẩn phải phân bố đều trong rừng.
Trong mỗi ô tiêu chuẩn cần đo đếm từng cây (chiều cao, đường kính ngang ngực, chiều
cao dưới cành, đường kính tán, chiều cao dài tán, tình hình sinh trưởng phát triển v.v ), so sánh
với tiêu chuẩn cây trong rừng giống mà đánh dấu cây chặn, cây chừa.
Số liệu điều tra ngoại nghiệp được chỉnh lý để chọn ra những lâm phần thích hợp cho kinh
doanh rừng giống.
Các lâm phần được chọn thì cần phát dọn quanh lâm phần, đóng mốc., làm đường phòng
lửa (nếu không có điều kiện làm băng xanh thì làm băng trắng), hoạch định đường vận chuyển.
Mỗi lâm phần tuyển chọn cần đóng bảng ghi rõ tên lâm phần giống., diện tích, thời gian tuyển
chọn .v.v
+ Đề xuất các biện pháp kinh doanh cho từng lâm phần, các biện pháp nâng cao sản lượng
hạt giống.
+ Dự trù trang thiết bị, công cụ, nhà xưởng .v.v phục vụ cho việc kinh doanh của toàn
khu vực rừng giống.
+ Lập hồ sơ cho từng lâm phần và cho cả khu rừng giống nằm trong khu vực hành chính
bao gồm: các tài liệu điều tra; đánh giá lâm phần giống và các biện pháp nhằm nâng cao và ổn
định sản lượng hạt giống, bản đồ định vị trí từng lâm phầm giống và toàn khu rừng giống, hệ
thống đường giao thông, đường ranh cản lửa .v.v
- Chặt tỉa để chuyển hoá rừng giống:
Căn cứ vào điều kiện tự nhiên, đặc điểm sinh trưởng, phát triển của từng loài cây ở mỗi
khu vực cụ thể mà tiến hành chặt tỉa thưa từng bước cho hợp lý. Qua chặt tỉa mà chọn giữ lại
những cá thể tốt, phù hợp yêu cầu lấy giống và qua đó mà điều chỉnh mật độ cho hợp lý. Nguyên
tắc chung là chặt cây xấu (không phù hợp yêu cầu lấy giống), giữ cây tốt và không gây ra khoảng
trống trong rừng.
Thông thường, trong khu vực chọn ra nhưng lâm phần tốt nhất, phù hợp nhất theo yêu cầu
lấy giống. Từ những lâm phần này lại chọn ra những cá thể thích hợp. Các cây giống phải phân bố
đều trong lâm phần.
Cây được chọn phải là cây sinh trưởng tốt, thân thẳng, ít cành nhánh, không có cành to, cây
khoẻ mạnh, không cong queo sâu bệnh, cây có tán đều. Nhìn chung những cây được chọn là những
cây cấp I (cấp Kráp), cấp II về sinh trưởng. Loại bỏ những cây cấp III, cấp IV và những cây cấp I,
II nhưng mọc quá dày.
7
Trước khi chặt cần tiến hành bài cây. Tuỳ theo tình hình sinh trưởng của rừng, mật độ hiện
có mà có thể tiến hành tỉa thưa 1-2 lần hoặc nhiều lần để chuyển thành rừng giống. Khi chặt tỉa
không được gây khoảng trống trong rừng. Nếu phải chặt tỉa thừa nhiều lần thì cường độ chặt lần
đầu có thể lớn hơn những lần sau.
Lần đầu tiên tiến hành phát dọn cây bụi, dây leo, cành nhánh khô, những cây bị chèn ép
dưới tán rừng, những cây làm hại đất và làm hại cây giống. Lần chặt này còn gọi là chặt vi sinh.
Từ lần chặt thứ 2 trở đi thì chặt bỏ những cây cong queo, già cỗi, nhiều chạc ba, cây bị tổn
thương cơ giới và những cây không đủ tiêu chuẩn chọn làm cây giống.
Tuỳ theo mật độ của rừng và tình hình sinh trưởng mà có thể chặt tỉa thưa từ 2-4 lần, cuối
cùng để lại mật độ phù hợp với việc kinh doanh rừng giống. Độ tàn che cuối cùng giữ lại 0,4-0,5
với rừng giống thông nhựa có thể giữ lại 400-500 cây/ha với các cây lá rộng thể giữ lại ít hơn (qui
phạm ngành chung cho các loài cây là 200-600 cây/ha.).
Nên tiến hành chặt tỉa thưa vào thời gian cây sinh trưởng yếu hoặc ngừng sinh trưởng. Ở
các tỉnh miền Bắc có thể tiến hành vào mùa đông, có thể kết hợp chặt tỉa vào mùa quả chín để tận
dụng thu hái quả khi cần thiết. Trong quá trình tác động để chuyển thành khu rừng giống vẫn có
thể tiến hành thu hoạch quả hạt bình thường. Còn chặt tỉa thì tiến hành vào sau lúc thu hoạch qủa
đến trước mùa sinh trưởng.
1.1.2.3. Xây dựng vườn giống
1.1.2.3.1. Khái niệm
Công việc chọn giống trong lâm nghiệp còn tương đối mới mẻ. Việc xây dựng các vườn
giống trên thế giới được tiến hành sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Khái niệm vườn giống dần
dần được định nghĩa đầy đủ. Năm 1956 C. Syrach Lacsen định nghĩa như sau: "Thuật ngữ vườn
giống chỉ nên dùng cho những cơ sở được xây dựng cơ sở được xây dựng với mục đích cải tiến
sản xuất hạt giống. Nói rộng ra nghĩa là những nơi trồng cây sinh sản vô tính hoặc cây thực sinh
mà những cây đó qua chọn lọc và thụ phấn có kiểm soát". Như vậy, khái niệm này không bao gồm
những rừng giống tạm thời vì nó không qua chọn lọc và thụ phấn có kiểm soát.
Năm 1958 Bruce Zebel định nghĩa như sau: "Vườn giống là vườn trồng toàn cây có tính di
truyền tốt, được cách ly để tránh sự thụ phấn của các cây bên ngoài, được quản lý chăm sóc chu
đáo nhằm thu được nhiều hạt giống thường xuyên và sớm. Nó được xây dựng bằng cách ghép
hoặc bằng cây con thực sinh đã được lựa chọn". Định nghĩa này cho đến nay vẫn được sử dụng.
Điều quan trọng của định nghĩa này là sản phẩm cuối cùng lấy ra từ vườn giống có tính di truyền
tốt.
Năm 1970 Sarvas đã nhấn mạnh tác dụng của vườn giống là nơi cung cấp hạt giống không
có sẵn.
Từ khái niệm trên ta có thể nói như sau:
Vườn giống là nơi tập hợp kết quả chọn lọc những cá thể hoặc quần thể ưu trội để sản xuất
hàng loạt những hạt giống hoặc hom giống theo yêu cầu mong muốn.
1.1.2.3.2. Các loại vườn giống:
Nhìn chung các bước từ khi chọn giống đến xây dựng vườn giống có thể tóm tắt như sau:
Quần xã
ban đầu
8
Chọn cây trội nhất
chiếm tầng cao
của lâm phần
Xây dựng vườn giữ
giống (bảo vệ
nguồn gen)
Chọn cây
có kiểu
hình ưu trội
Vườn
giống ưu
đẳng
Tổ hợp ưu
trội của các
dòng thuần
Kiểm tra hậu
thế các dòng
ưu trội
Xây dựng
vườn cây
trội
Tuỳ theo việc phân chia theo mục đích hoặc phân chia theo tính chất xây dựng mà có tên
gọi khác nhau. Có thể có các loại (kiểu) vườn giống dưới đây.
- Vườn sản xuất giống theo dòng vô tính:
Ở loại vườn này, các cây giống được trồng thưa ngay từ đầu, theo khoảng cách cuối cùng,
không tỉa thưa. Vườn này có thể xây dựng bằng cách ghép hay giâm hom. Sau một thời gian nếu
có cá thể nào chết cần trồng dặm kịp thời. Với thông có thể trồng từ 400-500cây/ha.
Loại vườn giống này tương đối phổ biến, cách thành lập không khó khăn, đáp ứng được
yêu cầu cấp bách về hạt giống. Song song với việc sản xuất hạt giống cần thử nghiệm đánh giá giá
trị kiểu hình và kiểu gen, loại trừ những kiểu hình không thực sự phản ánh kiểu gen.
Việc chọn cây trội cần chọn những cây cùng tuổi, cùng hoàn cảnh mà có tính trạng tốt
nhất. Việc chọn cây trội không phải làm một lần là xong, mà có thể tiến hành theo hai cách dưới
đây:
+ Lấy con cái ở một số cây ưu trội, thử nghiệm về dòng giống rồi giữ lại những dòng con
cái tốt nhất, tập hợp chúng vào vườn giống.
+ Tuyển chọn các cá thể ở trong các thử nghiệm về con cái để đánh giá kiểu gen, sử dụng
thông tin về các số bình quân các giai đoạn và mức biến động bình quân giữa các giai đoạn, tiến
hành tuyển chọn phối hợp các đặc tính nhằm rút ra những cá thể tốt, tập hợp lại thành vườn giống.
Theo qui phạm ngành, "cây trội là cây có chỉ tiêu chọn giống trực tiếp theo mục đích kinh tế
vượt trị số trung bình của đám rừng hoặc lâm phần ít nhất là 1.5 - 2 lần độ lệch chuẩn (tức là X +
2 hoặc X + 1.5Sx đến X + 2Sx)".
Ở các nước ôn đới thực vật sinh trưởng rất chậm, theo kinh nghiệm của họ phải đợi sau 15
-20 năm mới có kết luận về con cái . Do đó cân không gian rộng và phải đợi cho các cá thể này
tương đối lớn, lại phải đợi cho có thể đó ra quả ( vân sam câu 25 năm), rồi chọn cây tốt đem ghép
và trồng vào vườn giống phải mất 10-15 năm sau mới ra quả. ( ở Pháp đã thất bại khi chọn cây vân
sam non (2 tuổi) vào vườn giống, chúng không cho hạt về cành ghép lấy ở những cây quá non
(Nepven, 1980)).
- Vườn giống theo giai đoạn:
Là vườn thử nghiệm con cái để đánh giá giá trị di truyền, sau đó tiến hành tuyển chọn, loại
trừ những cá thể có những đặc tính không phù hợp bằng cách tỉa thưa 2-3 lần ( còn gọi là tỉa thưa
di truyền). Tỷ suất tuyển chọn ở loại vườn này không cao lắm vì không thể tỉa thưa quá mạnh sẽ
dẫn đến khoảng trống trong vườn giống.
Thu lợi ở loại vườn này không lớn cho phép những thử nghiệm con cái để đánh giá cá tham
số di truyền. Qua thử nghiệm rút ra những cá thể tốt nhất của con cái để tạo ra vườn giống bằng
dòng vô tính. Cũng có thể dùng để đánh giá giá trị di truyền của cây mẹ. Ở các nước ôn đới thường
phải mất nhiều thời gian khá dài (khoảng trên dưới 30 năm).
Cái lợi của tỉa thưa di truyền trong vườn giống giai đoạn không lớn lắm, song có thể sản
xuất được hạt giống sớm, vì lấy giống đồng thời ô chính cây được tuyển chọn, không phải chỗ từ
cây ghép.
Qua thử nghiệm về con cái có thể ước tính giá trị di truyền của cây mẹ, rồi lập vườn giống.
Từ dòng vô tính cây mẹ tuyển chọn những cá thể tốt nhất của thử nghiệm để làm vườn vô tính.
Loại vườn ươm này vừa có thể thử nghiệm để thu thập các tài liệu khoa học, vừa sản xuất
được hạt giống.
9
Với những cây đã tuyển chọn ta có thể tiến hành lập vườn giống (như trên đã nói ) hoặc có
thể tiếp tục tuyển chọn ở các thế hệ sau ta sẽ được hạt siêu tuyển chọn và có thể tiếp tục mãi mãi.
Vườn giống giai đoạn được trồng bình thường với mật độ 2500-4000 cây/ha, càng dày thì càng có
cường độ tuyển chọn cao.
- Vườn giống cây lai
Là vườn giống sản xuất ra những cây lai thế hệ F1, có thể lai giữa các cá thể bố mẹ khác
nhau hoặc giữa các xuất xứ. Loại vườn chỉ có thể thực hiện được ở một số loài cây thích hợp.
Chúng ta biết rằng cá thể lai có nhiều ưu điểm. Song để sản xuất đại trà hạt giống lai thì bị hạn chế
bởi điều kiện tự nhiên và nhân lực nếu làm theo phương pháp thụ phấn nhân tạo. Vì vậy với một
số loài cây có thể thử nghiệm ta lập vườn giống sản xuất hạt lai. Trước hết phải tiến hành nhân vô
tính (ghép hoặc hom) để có các cây bố mẹ đã chọn rồi đem trồng các cây bố mẹ đó vào vườn
giống, tiến hành thụ phấn có kiểm soát bằng cách khử đực, cách ly .v.v ta sẽ được hạt lai.
Song phương pháp dùng túi cách lý vẫn còn có nhiều phiền phức, tốn công. Để khắc phục điều
này, người ta lập vườn giống bằng cách trồng các cây có nguồn gốc khác nhau, các chủng khác
nhau theo cách bố trí xen kẽ để qua việc thụ phấn nhờ gió hoặc nhờ côn trùng ta sẽ có hạt giống
lai.
Tuy vậy, trong thực tế vẫn xảy ra hiện tượng tự thụ phấn hoặc hạt phấn cùng dòng với
nhau. Hoặc như đối với thông và thông rụng lá Châu Âu còn có hiện tượng hoa đực hoa cái chín
không đều nhau, sự khác nhau về mức độ phát triển hoa đực, hoa cái giữa các dòng các chủng có
khi thay đổi theo thời tiết, mùa. Vì vậy, cần bố trí các chủng, các dòng trong vườn giống có sự
phát triển hoa của cây bố, cây mẹ phù hợp để cho việc thụ phấn và lai một cách dễ dàng, thuận lợi.
Trong vườn giống này nên bố trí nhiều dòng của một loài hoặc một chủng và phân bố đều cá thể
từng dòng trên toàn bộ diện tích để đạt mục đích. Tuy vậy, vẫn không tránh khỏi sự kết đôi giữa
các dòng của cùng một loài. Song cây lai có thể nhận biết dễ dàng qua màu sắc, hình dạng .v.v.
so với cây thuần chủng và ta có thể tách riêng ra trên luống gieo ở vườn ươm.
Ở một số loài cây có thể nhân giống vô tính với kỹ thuật không phức tạp lắm như tre trúc,
một số loài bạch đàn, keo và thông .v.v. thì có thể nhân giống cây lai bằng hom. Do vậy, sau khi
có kết quả lai thì đem trồng các cây đó vào một khu nhất định, tăng cường chăm sóc quản lý để có
thể cắt hom hàng năm.
Với vườn giống lấy hom chỉ hạn chế ở những loài cây có khả năng đâm chồi mạnh, có khả
năng phục hồi vết thương nhanh và sinh trưởng cung nhanh thì mới đảm bảo cho việc lấy hom
hàng năm. Hiện nay, ta đang sản xuất keo lai bằng con đường vô tính (hom).
Về mặt biện pháp tác dụng có thể chia ra 3 loại sau đây:
- Vườn giống không chọn tỉa, không kiểm tra tối thiểu có 25 dòng thuần, cự ly trồng đều
nhau và trồng với mật độ cuối cùng, không có tỉa thưa.
- Vườn giống có chọn tỉa thưa, tối thiểu có 100 dòng để khảo nghiệm, mật độ trồng dày
hơn. Cường độ chặt lần đầu 50%, lần 2 là 25%, còn giữ lại 25%. Loại vườn nàycó điều kiện chọn
lọc nên hiệu quả tốt hơn.
Vườn giống có kiểm tra dòng dõi. Trong vườn này gây trồng nhiều gia đình, có điều kiện
chọn tuyển giữa các gia đình với nhau và giữa các cá thể trong một gia đình. Loại vườn này có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn lớn.
1.1.2.3.3. Chọn cây trội lấy cành ghép
Xác định chính xác cây trội là việc làm hết sức quan trọng, nó quyết định sự thành bại của
công tác xây dựng vườn giống.
Tiêu chuẩn chung của cây trội là ở tuổi thành thục công nghệ, khoẻ mạnh, tán lá phát triển
cân đối không bị sâu bệnh, có sản phẩm theo mục đích kinh tế cao.
Tuỳ theo mục tiêu chọn giống mà có tiêu chuẩn cụ thể khác nhau. Với cây lấy gỗ có thể
chia ra như sau:
10
Cây lá kim: Thân thẳng, tròn đầy (độ thon nhỏ) tỉa cành tự nhiên tốt, không có mấu mắt,
cành thanh, tán đẹp, tỉa cành tự nhiên tốt, sinh trưởng tốt, chiều cao, đường kính phải lớn hơn con
số trung bình của rừng (X + 1.5Sx hoặc X + 2Sx), khả năng đề kháng với sâu bệnh hại tốt. Ở
nước ngoài thì các tiêu chuẩn này phải đồng thời không được thiếu.
Cây lá rộng: Thân thẳng đẹp, không có mấu mắt, tỉa cành tự nhiên tốt, tán cây cân đối,
chiều cao dưới cành cao, cành nhỏ, sinh trưởng chiều cao, đường kính đều lớn hơn con số trung
bình của rừng rừng (X + 1.5Sx hoặc X + 2Sx), sức đề kháng tốt. Các tiêu chuẩn trên phải đồng
thời không được thiếu tiêu chuẩn nào.
Với bạch đàn trắng, bạch đàn chanh, bạch đàn liễu còn có thể chia ra tiêu chuẩn chiêu cao
thân chính bằng 1/3 chiều cao toàn thân trở lên (ý kiến cá nhân).
Sau khi đã chọn được cây trội cần ghi số và đánh dấu ngoài thực địa, ghi chép đầy đủ tình
hình của cây trội vào hồ sơ lưu trữ, mỗi cây có một phiếu riêng. Hồ sơ cây trội gồm hai phần, phần
A ghi đặc điểm lâm phần có cây trội sinh trưởng, phần B ghi đặc điểm cây trội.
Chọn cành ghép và bảo quản cành ghép:
Cành ghép cần mập, khoẻ mạnh, đã hoá gỗ, cành có đốt ngăn (nhiều mắt). Không lấy cành
ghép ở những cành quá non, đốt dài (thưa mắt). Vì ở những cành vóng và non cho tỷ lệ sống thấp.
Vị trí để lấy cành nên chọn ở phần trên của tán. Có thể chia tán cây làm ba phần, lấy cành
ghép ở 1/3 phía ngọn tán cây. Khi lấy cành ghép cần chú ý bảo vệ cây mẹ để những năm sau vẫn
tiếp tục thu hái được. Không nên chặt cành to trên thân cây mẹ, cũng không nên cắt cành quá dài
có thể chỉ thừa ra 20-30cm là được, mỗi cây mẹ không nên lấy quá 1/3 tổng số cành.
Tuỳ theo cách ghép mà chọn đường kính cành ghép cho thích hợp. Thông thường đường
kính cành ghép với cây lá kim không lớn quá 1cm. Nếu ghép áp thì đường kính cành ghép cần xấp
xỉ bằng đường kính gốc ghép, nếu ghép nêm thì đường kính cành ghép có thể lớn hơn.
Cành ghép có thể lấy trước 1-2 tháng (với thông). Nếu ghép vụ xuân thì cành ghép có thể
lấy vào cuối đông, khi đọt non chưa phát triển (với cây lá kim), hoặc phát triển chưa quá dài (với
cây lá rộng).
Vết cắt cành ghép cần gọn, sắc, tránh làm dập cành ghép. Cần nhẹ tay để tránh dập nát,
tránh gẫy ngọn nhất là với cây lá kim. Có thể xếp 10 cành thành bó nhỏ, 50 cành hoặc 100 cành
thành bó lớn, để tiện việc đếm sau này.
Cành ghép sau khi lấy xong cần được bảo quản chu đáo, để nơi râm mát, giữ ẩm. Nếu chưa
ghép ngay cần bảo quản lạnh ở nhiệt độ 0-5
0
C.
Về phương pháp ghép có thể tham khảo cuốn kỹ thuật giống cây rừng của Ngô Quang Đê
và Nguyễn Mộng Minh NXB Nông nghiệp 1986 hoặc các tài liệu có liên quan.
1.1.2.3.4. Thiết kế vườn giống
Thiết kế vườn giống là khâu rất quan trọng trong công tác chọn giống nhằm phát huy kết
quả cao nhất của chọn giống, giữ cho giống đã chọn không bị thoái hoá. Có nhiều nguyên nhân
dẫn đến làm cho cây giống bị thoái hoá như:
- Điều kiện hoàn cảnh không thuận lợi cho sinh trưởng, phát triển .
- Điều kiện thụ phấn không tốt, nhất là bị hạt phấn của những cây phẩm chất kém xâm
nhập vào.
- Không có chế độ quản lý chăm sóc chu đáo.
Tất nhiên để hạn chế sự thoái hoá của giống đã chọn cần áp dụng tổng hợp các biện pháp,
công việc thiết kế vườn giống giữ vai trò rất quan trọng trong các biện pháp đó.
Những phương pháp có tính nguyên tắc để khống chế sự thoái hoá của giống là thường
xuyên tiến hành tuyển chọn, cải thiện điều kiện sống, lai giống trong nội bộ loài và lai giữa các
loài để làm tăng sức sống.
Thông thường các cây ghép được nuôi ở vườn 6 tháng đến 2 năm (tuỳ theo loài cây) rồi có
thể đánh trồng vào vườn giống.
11
Vườn giống cần được đặt cách xa rừng cây cùng loài 300m trở lên với những cây thụ phấn
nhờ gió và từ 1500m - 2000m với những cây thụ phấn nhờ côn trùng.
Việc xác định mật độ trồng trong vườn giống tuỳ thuộc vào mức độ, mục đích tuyển chọn.
Nếu sau này không cần tỉa thưa để tuyển chọn tiếp thì mật độ trồng sẽ là mật độ cuối cùng của
vườn giống.
Thông thường những cây giống đã qua chọn lọc kỹ thì nên trồng thưa để tránh lãng phí.
Với thông có thể bố trí 400-500 cây/ha.
Hố trồng cần bón lót bằng phân chuồng hoai, mỗi hố 5kg - 10kg.
Việc bố trí các cây ghép trong vườn giống có tầm quan trọng đặc biệt. Trong vườn giống
nên bố trí từ 20-30 dòng thậm chí 50 dòng (hoặc nhiều hơn nữa). Hai cây cùng dòng không được
đứng gần nhau dễ xảy ra tự thụ phấn
Có thể tham khảo cách bố trí sau đây:
Gọi t là số dòng thuần, K là số cây bố trí trong một cụm, b là số cụm và r là số cây được
lặp lại của mỗi dòng thuần và K<t, n là số mảnh vườn thì giữa các hệ số trên có mối quan hệ sau
đây:
n(t-1) = r(k-1) và rt = bk.
Dựa vào những đẳng thức trên người ta có thể bố trí nhiều cách khác nhau do thay đổi cá
trị số của t, r, b, k và n mà vẫn thoả mãn yêu cầu nêu ra.
5 15 9 27 24 8 20 29 6 2
4 12 1 3 10 30 16 17 18 23
6 16 20 28 25 9 21 30 7 4
5 13 2 4 11 31 17 18 19 24
7 17 11 29 26 10 22 31 8 5
6 14 3 5 12 1 18 19 20 25
Sơ đồ bố trí theo cụm
Với t = 31 k = 4
r = 20 b = 155 n = 2
(Freeman 1969)
Hoặc tham khảo theo cách bố trí trong qui phạm ngành 1993.
1.1.3. Quản lý chăm sóc rừng giống, vườn giống.
Việc quản lý chăm sóc rừng giống, vườn giống là công việc bắt buộc nhằm đạt mục đích
thu được hạt giống với sản lượng cao, phẩm chất tốt.
Trước hết mỗi khu rừng giống, vườn giống cần lập hồ sơ riêng, định kỳ theo dõi và ghi
chép các vấn đề có liên quan như ngày thành lập, diện tích, số dòng hoặc số gia đình .v.v
Ngoài tình hình cơ bản trên còn cần ghi chép hàng tháng và các biện pháp tác động trong
quá trình quản lý chăm sóc sau này như tỉa thưa (nếu có) bón phân tưới nước, phòng trừ sâu bệnh,
tình hình ra hoa kết quả hàng năm và các biện pháp khác nhằm kích thích cây giống ra hoa kết
quả.
- Tỉa thưa: là biện pháp rẻ tiền và có hiệu quả để nâng cao sản lượng hạt giống. Biện pháp
này chỉ thích hợp cho rừng giống (chuyên hoá rừng giống) hoặc loại vườn giống có tỉa thưa di
truyền.
Tỉa thưa giúp cho tán cây phát triển tốt, mở rộng diện tích quang hợp vì thế mà tạo điều
kiện thuận lợi cho sự ra hoa kết quả.
12
Nguyên tắc của tỉa thưa là chặt cây xấu, giữ cây tốt, bồi dưỡng tán cây phát triển cân đối và
luôn luôn giữ cho tán cây không giao nhau, lại không để có khoảng trống trong rừng. Với những
loài cây có hoa đơn tính khác cây (biệt chu), khi tỉa thưa cần giữ tỷ lệ cây đực, cây cái hợp lý và
cây đực cần phân bố đều trong rừng, đảm bảo cho việc thụ phấn tốt và nâng cao sản lượng quả.
- Bón phân: có tác dụng nâng cao sản lượng hạt giống rõ rệt. Nhiều tại liệu nghiên cứu cho
thấy phân đạm có tác dụng quyết định đến việc nâng cao khả năng ra hoa ở cây rừng. ở đây mấu
chốt là thời gian bón và dạng phân bón.
- Làm cỏ, xới đất: Nhằm cải thiện tính chất vật lý của đất, giảm bớt sự cạnh tranh của cỏ
dại về nước về dinh dưỡng. Việc làm cỏ xới đất có thể tiến hành vào trước và sau mùa mưa.
Có thể trông xen cây nông nghiệp vào vườn giống như lạc vừng, gừng, các cây làm phân
xanh .v.v khi trồng xen cần chú ý phòng tránh xói mòn, phòng tránh sâu bệnh hại đối với, đặc
biệt là tránh các cây có cùng sâu bệnh hại với cây giống. Khi chăm sóc và thu hoạch cây trồng xen
tránh làm tổn thương đến cây giống.
- Tưới nước: tuỳ điều kiện và yêu cầu cụ thể có thể tưới nước khi cần thiết.
- Tạo tán: nhằm làm cho tán cây xòe rộng, phát triển cân đối, nâng cao hiệu xuất quang
hợp, tạo tiền đề cho việc nâng cao sản lượng hạt giống. Cần chặt bỏ những cành vóng, cành âm
tính, làm cho toàn bộ tán cây từ trên xuống dưới đều có thể ra hoa kết quả. Cũng cần đốn ngọn làm
cho cây thấp để thuận tiện cho thu hái sau này.
- Sử dụng chất điều tiết sinh trưởng thực vật đã mở ra triển vọng to lớn trong việc tăng sản
lượng và ổn định sản lượng hạt hạt giống cây rừng, cũng như khống chế chu kỳ sai quả của cây
rừng.
- Chú ý phòng trừ sâu bệnh hại, phòng tránh lửa rừng. Xung quanh vườn giống, rừng giống
cần lập các đai phòng lửa, tốt nhất là đai xanh.
Khi thấy sâu bệnh xuất hiện cần kịp thời diệt trừ để tránh lây lan. Chú ý giữ vệ sinh tốt
trong vườn giống, rừng giống, loại trừ mầm mống sâu bệnh phát sinh, loại bỏ những tạp vật mà
sâu bệnh có thể trú ngụ
1.2. NHÂN GIỐNG CÂY RỪNG.
Sau khi đã chọn giống và lập vườn giống thì cần thiết phải nhân nhanh những giống đã
chọn để đưa vào sản xuất thì mới phát huy hiệu quả của việc chọn giống. Dựa trên hai phương
thức tái sinh của thực vật mà người ta có hai phương thức nhân giống khác nhau là nhân giống hữu
tính và nhân giống vô tính.
1.2.1. Nhân giống hữu tính.
1.2.1.1. Sự hình thành hoa ở thực vật thân gỗ.
Tìm hiểu sự hình thành hoa ở thực vật thân gỗ sẽ giúp cho việc đề ra các biện pháp xúc tiến
ra hoa có căn cứ khoa học và mới mong mang lại hiệu quả kinh tế cao, khác với thực vật thân thảo,
thực vật thân gỗ có tính "chín muộn" và có đặc điểm vừa sinh trưởng vừa phát triển. Như chúng ta
đều biết thực vật thân thảo như cây lúa cây ngô chỉ gieo xuống sau mấy tháng là ra hoa kết quả và
khi ra hoa kết quả là nó ngừng sinh trưởng về chiều cao đường kính. Sau khi ra hoa kết qủa thì kết
thúc hoạt động sinh mệnh cá thể. Ngược lại với cây thân gỗ, gần gũi nhất như cây cam, cây chanh
thì sau khi trồng mấy năm mới ra hoa kết quả. Sau đó quá trình sinh trưởng phát triển đan xen vào
nhau kéo dài hàng mấy chục năm (dài ngắn tuỳ theo loài cây). Trong đời sống mỗi cá thể cây thân
gỗ (kể cả cây rừng) sự phát triển trải qua nhiều giai đoạn, đạt đến giai đoạn "chín" thì trong nội bộ
thực vật có rất nhiều biến đổi về sinh lý và hình thái. Trong quá trình phát triển của nó có rất nhiều
gien đã bị ức chế, đến lúc đột nhiên nó trở nên hoạt hoá và hình thành những endim mà trước đó
không cần thiết (Schreiber, 1974).
Ở thực vật thân gỗ (phần lớn loài cây) sự hình thành hoa được thực hiện từ năm trước,
thường là vào mùa hè hoặc hè thu. Qua nghiên cứu người ta thấy rằng quá trình chuyển từ sinh
13
trưởng dinh dưỡng đến phát triển sinh sản gắn liền với những biến đổi đặc trưng trong nội bộ đỉnh
sinh trưởng. theo Schwemmeller (1969) sự hình thành hoa có thể trải qua 3 giai đoạn sau:
- Sự chuyển của đỉnh sinh trưởng từ những tế bào dinh dưỡng sang tế bào sinh sản.
- Sự phân hoá tiếp tục những tế bào này.
- Sự phát triển của tế bào tính đến một hoa hoàn chỉnh.
Trong quá trình hình thành hoa, thực vật phải chịu sự chi phối của điều kiện bên ngoài nhất
định vào thời điểm nhất định. Người ta gọi những yếu tố điều kiện ngoại cảnh có tác dụng là điều
kiện hình thành, thời điểm có tác dụng gọi là giai đoạn hình thành. Điều kiện hình thành quan
trọng nhất ở đây là nhiệt độ và ánh sáng. Những điều kiện hình thành tự nhiên trong nhiều trường
hợp có thể thay thế bằng những hoá chất nhất định.
Dinh dưỡng khoáng và nước giữ vai trò quan trọng trong khi ánh sáng, nhiệt độ giữ vai trò
quyết định sự sinh sản của thực vật. Ánh sáng giúp cho cây mở rộng diện tích quang hợp, tích luỹ
chất hữu cơ, tạo điều kiện thuận lợi cho sinh sản. Ánh sáng thay đổi (pha sáng, pha tối) có ảnh
hưởng tới việc chuyển hoá tế bào từ sinh trưởng dinh dưỡng đến phát triển sinh sản và sự chuyển
tính biệt từ cái sang đực hoặc ngược lại (Hashizume, 1973). Ánh sáng ảnh hưởng đến mọi hoạt
động sinh lý của thực vật như hảnh hưởng đến trao đổi chất, đến hoạt tính của endim, đến sự hình
thành và tổng hợp các Phytohoócmon. Thí dụ tỉ lệ giữa tia đỏ và tia xanh ảnh hưởng đến tỉ lệ auxin
và cytokinin (BAHRE, 1976; GORING, 1976) và auxin và cytokinin là những hoócmon quan
trọng ảnh hưởng tới đến sinh trưởng và phát triển thực vật. Sinh trưởng phát triển của thực vật bị
điều khiển bởi các phytohoócmon. Các phytohoócmon (auxin, gibberellne, cytokinin, Abscisin,
Athylen .v.v. . . ) có tác dụng khác nhau đến các giai đoạn phát triển khác nhau của thực vật, Tỷ lệ
auxin và cytokinin ảnh hưởng đến sự hình thành tổ chức thực vật và cytokinin kích thích sự phân
chia tế báo (G.GIINTHER, 1973). TRAN THANH VAN ct al (1975) đã tìm thấy tỉ lệ auxin /
cytokinin ở biểu bì cây thuốc lá (biểu bì được tách khỏi cây) là:
1 : 10 phát triển chồi 1: 1 hình thành hoa.
50: 1 hình thành thể chai và 100 : 1 hình thành rễ.
Song sinh trưởng dinh dưỡng và phát triển sinh sản là mâu thuẫn thống nhất trong mỗi cá
thể. Sinh trưởng dinh dưỡng là tiền đề, là cơ sở cho phát triển sinh sản, song phát triển sinh sản lại
ảnh hưởng hạn chế ngay đến sinh trưởng dinh dưỡng của cá thể đó ở thời điểm xác định.
Có thể chia sinh trưởng dinh dưỡng của thực vật trong 1 năm ra 2 giai đoạn khác nhau. Gọi
là sinh trưởng mùa xuân (xuân hè) và sinh trưởng mùa thu. Đồng thời cũng hiểu rằng khoảng thời
gian này ở mỗi loài cây là khác nhau. Thông thường sinh trưởng mùa xuân sản sinh ra chồi ngắn,
còn sinh trưởng mùa thu thì phần lớn là do chồi dài. Sự hình thành hoa chủ yếu diễn ra ở chồi
ngắn, ở cây thông dụng lá (Larix Sp) chồi dài luôn luôn là chồi sinh trưởng dinh dưỡng. Hàng năm
thực vật thân gỗ đều sinh sản ra những cành mới làm cơ sở cho sự ra hoa vào năm sau.
Thực tiễn cho thấy những cây rừng sinh trưởng ở vĩ tuyến thấp thường ra hoa kết quả tốt
hơn khi cây đó sinh trưởng ở vĩ tuyến cao hơn. VIDAKOVIC (1963) cho biết cây Vân sam, Sồi,
Giẻ ở Nam tư thì miền nam vùng phân bố tự nhiên ra hoa kết quả nhiều hơn và mạnh hơn ở miền
Bắc. Hiện tượng này cũng rất rõ với cây Trẩu lá xẻ, Sao đen ở ta. Giữ vai trò quan trọng trong việc
hình thành hoa ở trường hợp này không chỉ là cường độ ánh sáng, độ ẩm không khí mà đặc biệt là
nhiệt độ không khí.
Rất nhiều tài liệu chỉ ra rằng có mối quan hệ giữa sự hình thành hoa với hàm lượng Hydrat
các bon trong tổ chức thực vật. Thí dụ một số loài tre trúc khi cây ra hoa thì trong thân, cành chứa
rất nhiều đường (ôn Thai Huy, 1965). Hoặc khi sử dụng chất điều tiết sinh trưởng thực vật khiến
cây Thông rụng lá (Laxix japonica) ra nhiều hoa thì hàm lượng Hydrat các bon trong cây cũng
cao, có nghĩa là tỉ lệ C/N có giá trị lớn (Hashizume, 1967, 1969, 1973). Tỉ lệ C/N cũng phụ thuộc
vào tình hình hấp thụ trao đổi chất khoáng.
Trong thực tiễn sản xuất Lâm nghiệp chúng ta thấy rằng những lâm phần nhân tạo ở trên
đất đai khô hạn, nghèo xấu thường ra hoa kết quả sớm hơn những nơi đất tốt và đủ nước. Mặt khác
những năm thời tiết khô hạn vào mùa hè, hè thu thì thường năm sau sai hoa. Như vậy thời tiết cũng
14
ảnh hưởng đến việc hình thành hoa ở cây thân gỗ. Stres do nước, nhiệt (khô hạn) không những có
thể làm cho cây rừng ra hoa kết quả nhiều mà còn có thể làm cho nó ra hoa kết quả sớm. Hiệu quả
ở đây tương tự như việc dùng các chất điều tiết sinh trưởng thực vật. Mùa hè năm 1979 vùng Đông
triều - Uông bí thời tiết rất khô hạn khiến cho những cây thông trồng năm sau rất sai hoa. Đặc biệt
là cây con Thông đuôi ngựa trong vườn ươm Trường đại học Lâm nghiệp ra hoa vào mùa xuân
năm 1980, lúc này cây con mới 1 tuổi (Ngô Quan Đê 1982). Thời tiết khô hạn cũng khiến cho tỷ
kệ C/N cao.
Người ta cũng đã làm những thí nghiệm bóc vỏ, ken cây, dẫn đến làm thay đổi tỉ lệ C/N
trong tán cây và có thể thu được kết quả tạm thời là sản lượng hoa quả cao hơn bình thường.
Nhưng như vậy có thể dẫn đến sự thiếu đạm, thiếu nước, làm thay đổi xấu đến quá trình trao đổi
chất, làm thay đổi tình trạng endim, vì vậy nó không phải là biện pháp tốt. Ngày nay người ta đã
chứng tỏ rằng tỉ lệ C/N cao không phải là nguyên nhân dẫn tới sự hình thành hoa mà chỉ là sự xuất
hiện cần có của quá trình sinh lý nhất định.
Quan hệ giữa tán cây và hệ rễ cũng giữ vai trò nhất định trong sự hình thành hoa. Kinh
nghiệm dân gian có câu "mít chặt cành, chanh chặt rễ" chính là để giải quyết mối quan hệ đó. Một
trong những biến đổi quan trọng của quá trình này có thể làm thay đổi tỷ lệ giữauxin auxin và
cytokinin, mà auxin và cytokinin giữ vai trò quan trọng trong quá trình sinh trưởng và phát triển
của thực vật.
Trong lâm nghiệp và trong nghề làm vườn đã dùng các biện pháp tưới nước, bón phân, tỉa
thưa, tạo tán, chọn lập địa, hoặc ghép cây .v.v để làm cơ sở thuận tiện cho sự hình thành hoa.
Cơ chế hình thành hoa ở thực vật thân gỗ rất phức tạp. Có thể đó là tổng hoà của các mối
quan hệ dưới sự kiểm soát của gien. Mỗi một endim đặc thù và hoạt tính của nó gắn liền với quá
trình trao đổi chất nhất định trong thực vật. Mỗi một yếu tố của điều kiện ngoại cảnh như cường độ
ánh sáng, thiếu nước hoặc stres .v.v hình như bằng cách này hay cách khác, gián tiếp hoặc trực
tiếp đều ảnh hưởng đến hoạt tính của gien và ảnh hưởng tới hệ thống vận động vật chất DNA → m
- RNA - Protein, qua sự điều khiển của endim đặc thù mà sẽ kích thích hoặc hạn chế quá trình trao
đổi chất. Sơ đồ dưới đây nêu lên khái quát sự ảnh hưởng các yếu tố ngoại cảnh đến sự hình thành
hoa.
15
Sơ đồ: Khả năng ảnh hưởng của các yếu tố ngoại cảnh và các tác động vật lý, hoá học đến
sinh trưởng và phát triển thực vật (Ngô Quang Đê, 1977).
Quá trình phát triển của sự hình thành hoa ở thực vật thân gỗ qua nhiều bước kế tiếp nhau.
Sự hình thành hoa ở cây lá kim (Thông) bao gồm nhiều bước mà không chỉ phụ thuộc ở một bước
(kubitz, 1967). Những bước hình thành hoa như vậy, trên cơ bản chịu sự chi phối của các yếu tố
hoàn cảnh, làm cơ sở cho sự truyền thông tin di truyền trong những tế bào của đỉnh sinh trưởng
(meristem), ở đây có sự hoạt hoá của những động gen cho đến lúc này chưa hoạt động hoặc là
tăng lên tính không hoạt động có chọn lọc của những gen bị ức chế (Matschke ct. al. 1911).
Sự hình thành hoa ở thực vật thân gỗ không chỉ là quá trình điều khiển một phía của hoóc
môn mà còn cùng với sự hình thành của một sự phù hợp mới của điều khiển trao đổi chất.
Để điều khiển sự hình thành hoa cần chú ý 2 trọng điểm sau:
- Xác định thời điểm hình thành tự nhiên của từng loài cây.
- ở vào thời điểm hình thành có thể làm rối loạn hoặc làm mất cân bằng trao đổi chất trong
thời gian ngắn bằng cách sử dụng các chất điều tiết sinh trưởng với nồng độ phù hợp sẽ thu được
kết quả mong muốn.
1.2.1.2. Dùng hoóc môn thực vật và các chất tổng hợp nhân tạo để xúc tiến cây rừng ra hoa kết
quả.
Có rất nhiều biện pháp để xúc tiến cây thân gỗ ra hoa kết quả. Song bên cạnh biện pháp
thông thường đã làm như ghép cây, tạo tán, bón phân, tăng cường chăm sóc quản lý v.v người ta
còn dùng hoá chất để kích thích cây ra hoa kết quả.
Các biện pháp như tỉa cành, xén rễ, bóc vỏ, ken cây v.v Không thoả mãn yêu cầu sản
xuất hạt giống đại trà mà còn ảnh hưởng xấu đến sinh trưởng và phát triển của cây.
Hàng chục năm lại đây nhiều nước trên thế giới đã nghiên cứu và đã đưa vào sử dụng chất
điều tiết sinh trưởng thực vật để tác động vào quá trình hình thành hoa và đã thu được kết quả to
lớn trong việc nâng cao sản lượng hạt giống, rút ngắn thời kỳ non trẻ, khiến cây đạt độ "chín" sớm
16
Các yếu tố ảnh
hưởng: ánh sáng,
nhiệt độ, nước,
chất khoáng và
các tác động lý,
hoá học
Ảnh hưởng
đến tình hình
trao đổi chất
Hoạt hoá
hoặc ức
chế endim
Ảnh hưởng đến
sự truyền thông
tin (m-RNA)
Điều khiển sự
hình thành và
phát triển tế
bào
Ảnh hưởng
đến hàm
lượng phytô
hoóc môn
hơn, khắc phục được hiện tượng năm được mùa, năm mất mùa hạt giống. Dùng hoá chất trong
những thời điềm nhất định còn tác dụng đến việc phân tính của hoa. Dưới đây sẽ điểm qua một số
hoá chất được dùng nhiều, đương nhiên là chỉ đề cập đến tác dụng của nó trên sự hình thành hoa
đối với cây rừng.
Các hoá chất được dùng thuộc hai nhón là kích thích sinh trưởng và ức chế sinh trưởng.
Nhóm kích thích sinh trưởng bao gồm auxin và gibberelline.
Nhóm auxin có thể kể đến như IAA, NAA, 2,4D, MCPA v.v
Auxin là loại hoóc môn có mặt ở tất cả các thực vật bậc cao và ở nhiều thực vật bậc thấp.
Trong thực vật auxin được hình thành từ tryptophan.
Auxin giữ vai trò rất quan trọng trong sinh trưởng và phát triển thực vật. Nó có tác dụng
rất nhiều mặt. Nó phụ thuộc vào tình trạng phát triển của thực vật vào mẫu gen trong các tổ chức
và trong tế bào, đồng thời cũng phụ thuộc vào nồng độ của chính bản thân nó. Auxin cũng kích
thích sự hình thành Athylen. Tác dụng của auxin ở nồng độ và thời điểm thích hợp sẽ phá vỡ sự ưu
trội ở đỉnh ngọn, kích thích chồi bên (latera) phát triển.
Người ta cũng nhận thấy rằng auxin cần cho sự phát triển của hoa cái nhiều hơn hoa đực
và ở hoa cái hàm lượng auxin nhiều hơn (Hashizume 1973; Bleymuller, 1973).
2.4-D (Diclorphenoxy axetic axit) là loại auxin nhân tạo cũng được sử dụng để điều khiển
cây rừng ra hoa. Người ta đã sử dụng 2.4D và MCP (2-Melthyl1-4-chlorphenoxy axetic axit) đã
thu được kết quả to lớn trong việc điều khiển sự hình thành hoa ở cây lá kim. Nó đã được sử dụng
rộng rãi ở một số nước trên thế giới và giá thành sản xuất không lớn lắm.
Nhóm gibberelline tồn tại tự nhiên trong thực vật. Người ta đã phát hiện có tới 50 loại
gibberelline khác nhau (Pharis and KUO, 1997). Ở những thực vật ngày dài và những cây có yêu
cầu nhiệt độ thấp đều có thể dùng gibberelline xử lý thay thế khiến nó ra hoa kết qủa trong điều
kiện không thoả mãn các yêu cầu trên.
Xử lý gibberelline không những có thể kích thích sự ra hoa kết quả của cây mà còn khiến
thực vật rút ngắn thời kỳ non trẻ, đạt được sự chín sớm hơn. Hashizume (1973) đã dùng auxin và
gibberelline kích thích hình thành hoa cái ở cây họ Cupressaceae tuổi non. Pharis (1975) cũng
đãkích thích hình thành hoa cái ở họ Pinaceac bằng hỗn hợp GA
4
, GA
7
và GA
9
.
Giữa auxin và gibberelline có mối quan hệ khăng khít trong việc hình thành tính biệt của
hoa. Người ta đã tìm thấy ở một số loài cây với hàm lượng gibberelline cao và hàm lượng auxin
thấp thì kích thích sự phát triển của hoa đực và ngược lại. Song điều kiện này có sự sai khác rất
lớn giữa các loài cây, thậm chí ngay trong một loài. Ngoài yêu cầu của từng cá thể thực vật với
điều kiện ngoại cảnh trong việc phân tính đực cái còn phụ thuộc vào di truyền của các cá thể đó. Ở
đây yếu tố hoàn cảnh và yếu tố di truyền có thể giữ vai trò vừa rất lớn, vừa rất nhỏ. Có thể kể ra
đây một vài ví dụ để chứng tỏ vai trò của yếu tố hoàn cảnh nhiều khi cũng rất lớn lao. Trẩu lá xẻ
thông thường ở miền Bắc ra hoa vào đúng tháng 3 tháng 4 tức là vào mùa xuân. Song chúng tôi đã
gặp cá biệt có cây ( 1 cành trên cây) ra hoa vào tháng 11 tức là vào mùa đông năm trước. Tác giả
cũng quan sát được cây Larix hiện tượng cành lá phát triển hoa quả của nó và khi đó quả đó không
có hạt, teo đi thành những vẩy quả bao bọc quanh cành sinh trưởng.
Nhóm các chất ức chế sinh trưởng: Ngày nay người ta đã sản xuất được nhiều chất ức chế
sinh trưởng. Các chất tổng hợp nhân tạo đã được sử dụng nhiều là chlor-cholin-chlorid (CCC);
chlorethylen photophoric acid (CEPA), Maleic acid hydraxit (MH) v.v
CCC: là chất ức chế sinh trưởng, làm giảm chiều dài giữa các đốt (lóng) nhưng lại không
hạn chế sản lượng hạt quả. Nó được ứng dụng rộng rãi trong nông nghiệp ở Liên Xô và một số
nước khác. Nhiều nghiên cứu đã chứng tỏ rằng khi xử lý CCC thì có thể tăng cường bón đạm cho
cây trồng. Nếu xử lý thích hợp sẽ làm tăng lượng đường trong tế bào và làm tăng sức chống hạn
của thực vật. Ngoài tác dụng với các cây thảo, CCC còn kích thích sự hình thành hoa ở nhiều cây
thân gỗ như táo, đỗ quyên, thông và thông rụng lá v.v
[CL-CH
2
- CH
2
- N(CH
3
)
3
]
CL
17
Công thức hoá học của CCC
CEPA còn gọi là etephon, ethrel, là chất tổng hợp nhân tạo ở pH trên 4,5 thì dễ phân huỷ
thành ethylen, HCL và acid photphoric. Etylen và axetylen đã có tác dụng điều khiển sự ra hoa của
dứa theo ý muốn.
CH
Cl- CH
2
- CH
2
- P- CH
OH
CEPA (Chlor-ethylen-photphoric axit)
Người ta đã dùng CEPA để điều khiển sự hình thành hoa của thông Châu Âu, thông rụng
lá. táo v.v đạt được kết quả tốt.
Tác dụng của hoóc môn và các chất tổng hợp nhân tạo đến sự hình thành hoa có cơ chế rất
phức tạp và chưa thể kết luận chung nhất được. Tác dụng này cũng rất khác nhau ở từng loài cây
khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Việc dùng các chất điều tiết sinh trưởng thực vật đã mang lại kết quả to lớn trong sản xuất.
Nó có thể rút ngắn được thời kỳ trẻ, làm cho cây rừng ra hoa sớm thậm chí ngay trong năm đầu
tiên của đời sống cá thể. Nó có thể làm tăng sản lượng hoa quả thông lên 100% và nếu xử lý đều
thì làm cho cây rừng năm nào cũng sai quả, tránh được hiện tượng năm mất mùa hạt giống.
1.2.1.3. Những thí dụ cụ thể và trình tự tiến hành trong việc điều khiển sự hình thành hoa ở
cây rừng
Ở CHDC Đức cũ đã tiến hành với thông Châu Âu. Nhìn chung việc hình thành hoa gắn
liền với hoạt động ở đỉnh sinh trưởng (meirtem), người ta thấy rằng tuỷ từng tháng khác nhau
trong năm mà hoạt động của đỉnh sinh trưởng khác nhau.
Bước A: Sau khi chồi xuân đã kết thúc vươn dài ra, lúc này cần dùng các hoóc môn sinh
trưởng là chính. Các chất ức chế sinh trưởng đều có kết quả xấu đến sự hình thành hoa.
Bước B: Xẩy ra trong thời gian đâm chồi mới. Các chất được dùng ở đây chủ yếu là những
chất ức chế sinh trưởng.
Bước C: Liền ngay sau khi kết thúc bước A có thể cùng các chất ức chế sinh trưởng với
nồng độ thấp.
Sử dụng hoá chất với nồng độ nào sẽ có tác dụng tốt cho sự hình thành hoa là một yếu tố
có tầm quan trọng đặc biệt. Nếu như làm thử nghiệm theo cách cổ điển thì sẽ tốn rất nhiều thời
gian, nhân lực. Người ta thấy rằng (Matschke ct. al. 1981) những hoạt tính endim xác định di
truyền khác nhau giữa những dòng dễ ra hoa và dòng khó ra hoa cũng như ảnh hưởng khác nhau
của endim phenyl-ananyl amononium lyasa (PAL) là cơ sở để xác định phạm vi nồng độ các chất
điều tiết sinh trưởng cho việc hình thành hoa. Nói cách khác, bằng phương pháp sinh hoá, xác
định hoạt tính của endim PAL, qua đó mà xác định nồng độ thích hợp của chất điều tiết sinh
trường khi xử lý để kích thích sự hình thành hoa. Cũng qua việc xác định hoạt tính của PAL, người
ta xác định được nồng độ thích hợp của hoá chất xử lý để hình thành hoa cái hoặc hoa đực
( Matschke; Schachler; Scho nborn; 1981)
1.2.1.4. Phân bón, vai trò của việc bón phân đến khả năng ra hoa kết quả của cây rừng.
- Các loại phân bón:
+ Phân P
+ Phân đạm (N)
+ Phân Kali
- Tác dụng của phân bón:
18
Phân bón thích hợp và kịp thời có tác dụng nâng cao sản lượng và phẩm chất hạt giống rất
rõ rệt. Phân bón ngoài tác dụng cung cấp chất dinh dưỡng cho cây còn có tác dụng cải thiện lý hóa
tính của đất (nhất là phân hữu cơ), điều tiết độ pH và cải thiện điều kiện hoạt động của vi sinh vật.
Qua các kết quả nghiên cứu nước ngoài và một số kết quả trong nước cho thấy phân đạm
có tác dụng kích thích sự hình thành hoa (cho không phải là phân lân). Bón đạm hợp lý sẽ làm tăng
hiệu suất quang hợp, tăng hàm lượng diệp lục, tăng sản lượng ngũ cốc, đặc biệt là tăng chất bột.
Đạm là nguyên tố tạo thành cơ bản của endim, củ nhiều co - endim, của acid nucleic, tham gia
hình thành diệp lục.
Tuy vậy, thực vật còn cần nhiều loại phân khác nữa, vì vậy phải bón đủ N.P.K và các
nguyên tố vi lượng mới khiên cho cây sinh trưởng và phát triển tốt, ra hoa kết quả nhiều. Bón phân
có thể làm tăng sản lượng hạt thông Pinus sylvestris ở vườn giống lên 100% (Schol, 1972).
1.2.2. Nhân giống vô tính
Một số loài thực vật ngoài khả năng sinh sản hữu tính, còn có khả năng sinh sản vô tính.
Người ta lợi dụng đặc tính này để nhân giông vô tính, còn gọi là nhân giống sinh dưỡng. Nhân
giống vô tính có thể tiến hành nhân hon như dùng đoạn thân, cành, lá, rễ, để sinh sản cá thể mới
gọi là nhân giống hom, hoặc dùng một mô tế bào để sinh sản ra cá thể mới gọi là nuôi cấy mô tế
bào.
Khác cây mọc từ hạt (còn gọi là cây thực sinh) những cây mọc từ hon (còn gọi là cây phân
sinh) có ưu điểm là giữ được đặc tính di truyền tốt của cây mẹ, cây sinh trưởng nhanh, sớm ra hoa
kết quả. Vì thế phương pháp nhân giống bằng hom từ lâu đã được áp dụng rộng rãi trong nghề làm
vườn như trông cây ăn quả, trồng hoa và cây cảnh. Ngoài ra đối với những cây mà giống hiếm
(cây khó ra hoa kết quả) hoặc trồng rừng bằng hạt khó hơn trồng bằng hom thì việc trồng bằng
hom lại có ý nghĩa thực tiễn lớn lao như cây sắn, cây mía, cây chuối trong nông nghiệp, cây tre,
cây si trong lâm nghiệp.
Cùng với sự phát triển của công tác chọn giống, kỹ thuật nhân giống vô tính ngày càng
được áp dụng rộng rãi. Ngay cả với những loài cây trồng bằng hạt dễ dàng nhưng ngày nay để đưa
nhanh kết quả chọn giống vào sản xuất, để giữ đặc tính nào đó đã chọn người ta vông nhân giông
vô tinh (mô, hom) như bạch đàn chẳng hạn. Rừng trồng bằng sinh sản vô tính giữ được đặc tính
cây mẹ, sinh trưởng nhanh, chất lượng sản phẩm đồng đều, phù hợp với các loại rừng phục vụ
công nghiệp như rừng nguyên liệu giấy.
Phần này chủ yếu giới thiệu kỹ thuật nhân giống vô tính bằng hom.
Các loài cây không phải đều có khả năng phân sinh mạnh mẽ như nhau. Do đó cần phải
căn cứ vào đặc tính loài cây mà quyết định việc ươm cây bằng hạt hay bằng hom.
1.2.2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự ra rễ và tỉ lệ hom sống của hom
- Các nhân tố nội sinh:
Loài cây khác nhau, tỉ lệ ra rễ khác nhau. Có thể chia ra 3 loại như sau:
+ Loài cây dễ ra rễ: Là những cây chỉ cần kỹ thuật thông thường hom cũng ra rễ và có tỷ
lệ sống cao như tre, trúc, vông, dâu da xoan.
+ Loài cây tương đối khó ra rễ là những cây đòi hỏi kỹ thuật hơi cao, có biện pháp quản lý
mới có thể đạt được kết quả tốt như phi lao, bạch đàn, sa mu
+ Loài cây khó ra rễ là những cây còn đòi hỏi xử lý bằng các chất điều tiết sinh trưởng
mạnh, chăm sóc rất tỉ mỉ chu đáo mới có thể ra rễ như các loài thông, long não.
+ Tuỳ theo loài cây mà loại hom khác nhau, tỷ lệ ra rễ cũng khác nhau. Có loài cây khả
năng ra rễ của hom rễ tốt hơn hom thân, hom cành như xoan, hồng. Đại bộ phận các loài cây hom
cành dễ ra rễ hơn như quế, sở, bạch đàn, phi lao. Các loài cây có khả năng ra rễ ở hon thân dễ dàng
như trúc, tre (chủ yếu là thân ngầm, có một số loài tre có khả năng ra rễ ở hom thân khi sinh và
hom cành).
+ Tuổi cây mẹ: ở những cây mẹ còn trẻ, sức sống mạnh mẽ, có năng lực phân sinh mạnh
nên hom càng yếu. Vì thế những cây mẹ dùng để lấy hom cần ở giai đoạn sinh trưởng và phát triển
19
mạnh. Không nên lấy hom ở những cây già cỗi, sâu bệnh hoặc những cây bị chèn ép trong rừng.
Để trẻ hoá những cây già người ta thường chặt thân chính (lấy gỗ sử dụng vào việc khác) để cho
cây chồi mọc lên rồi đem giâm, đạt kết quả cao như áp dụng đối với bạch đàn.
+ Tuổi cành lấy hom: cũng ảnh hưởng đến khả năng ra rễ của hom. Tuổi cành lấy hom
cũng tuỳ thuộc vào loài cây khác nhau mà khác nhau. Theo thí nghiệm của nước ngoài cho thấy
loài cây Dương (Populus) cành 1 năm tỉ lệ sống cao hơn hẳn cành hai năm, với cây liễu (Saligna)
thì cành 1 năm hoặc hai năm đều không sai khác rõ rệt. Đại bộ phận các loài cây thì cành một năm
hoặc hai năm đã mộc chất hoá ra rễ cao như bạch đàn, trà mi, phi lao
Đoạn lấy hom khác nhau nên một cành tỉ lệ ra rễ cũng khác nhau. Với cây Dạ hương, tuy
cùng một cành nhưng những hom lấy ngay đoạn ngọn có tỉ lệ ra rễ và tình hình sinh trưởng của chồi
đều kém hơn ở đoạn liền kề (bảng )
Tình hình ra rễ và sinh trưởng của đoạn hom Dạ hương *
Loài hom Số hom
xử lý
Bình quân số
chồi/hom
Chiều dài
chồi (cm)
Số hom ra rễ Tỉ lệ ra rễ %
Ngọn 30 2,9 4,5 15 50
Dưới ngọn 30 4,2 5,1 19 63,3
Tương tự như vậy Tôn Thời Hiên (1992) đã thí nghiệm với cây dương lá nhỏ, dương
Canada cho thấy đoạn hom giữa cành có tỷ lệ ra rễ cao, đoạn hom cuối cành (gốc cành) đứng sau,
kém nhất là đoạn hom đầu cành (hom ngọn). Ngược lại với cây Thuỷ sam (Metasequoia
glyptostroboides Huetchey) cây ô lưu (Olea europaea L.) thì những đoạn hom đầu cành (hom
ngọn) có tỷ lệ ra rễ cao.
Ngoài ra độ dài của hom và đường kính của hom cũng có ảnh hưởng đến sự ra rễ.
Nói chung nên chọn hom ở những cành bánh tẻ, cành sinh trưởng tốt, mập, tuỳ theo loài
cây, tối thiểu mỗi hom có ba mắt.
- Điều kiện ngoại cảnh:
+ Nhiệt độ đất: thích hợp cho nhiều loài cây, nhiết độ 20-25
0
C
+ Độ ẩm đất: tuỳ theo loài cây mà biến động từ 60% - 80% lượng giữ nước tối đa của đất.
+ Độ thoáng khí: cần nơi đất thoáng khí sẽ giúp cho hom ra rễ thuận lợi. Vì thế nền đất
giâm hom nên là đất cất pha hoặc đất cát.
+ ánh sáng vừa phải: ánh sáng luôn cần thiết cho thực vật. Tuy vậy ánh sáng trực xạ sẽ đưa
lại nhiều điều kiện bất lợi như làm cho cây thoát hơi nước mạnh, nhiệt độ tăng cao v.v không có
lợi cho sinh trưởng của hom, làm cho tỉ lệ sống giảm thấp có khi dẫn đến thất bại. Vì thế cần phải
làm dàn che để làm tăng độ ẩm, giảm bớt nhiệt độ không khí.
+ Độ ẩm không khí: độ ẩm tương đối của không khí cũng ảnh hưởng rất lớn đến khả năng
ra rễ của hom với các loài cây khó ra rễ, độ ẩm tương đối của không khí cần 85%-90% sẽ thuận lợi
cho ra rễ. Nhìn chung điều kiện thuận lợi cho hom ra rễ của nhiều loài cây là nhiệt độ không khí
25-28
0
C độ ẩm tương đối của không khí 80-90%.
1.2.2.2. Chọn hom và cành hom
Trên cây mẹ chọn những cành bánh tẻ từ 1-2 tuổi (thông thường là một tuổ), chọn cành
mập, không cong queo, sâu bệnh, cành có nhiều mắt và mọc trực tiếp từ thân mẹ để lấy hom. Hom
càng mập, chất dinh dưỡng dự trữ càng nhiều sẽ là nguồn nguyên liệu cung cấp năng lượng cho
hom ra rễ, ra lá và giúp cho hom sinh trưởng ở giai đoạn đầu được tốt, đạt tỉ lệ cao.
Không nên cắt hom vào thời kì cây đang sinh trưởng mạnh. Nên cắt hom vào lúc hoạt động
sinh lý trong cây giảm thấp nhất (hoặc vào các nhịp thấp trong năm). Với loài cây rụng lá thì nên
cắt hom vào sau khi cây đã rụng lá và trước khi ra lá mới. Với các loài cây thường xanh nên cắt
hom vào lúc đỉnh sinh trưởng ở cành tạm dựng, búp non chưa nẩy thì sẽ đạt tỉ lệ sống cao.
20
Tuỳ theo loài cây mà hom có thể cắt dài hay ngắn khác nhau, có thể dài từ 5-10cm đến 15-
20cm tối thiểu mỗi hom có 3 mầm (mắt). Khí cắt phải dùng dao thật sắc, vết cắt ngọt (động tác
nhanh chính xác), không làm dập hoặc làm sây sát hom. Đầu trên của hom nếu không mang đỉnh
sinh trưởng thì nên cắt bằng để tiết diện bé nhất, đầu dưới có thể cắt bằng hoặc cắt vát móng lợn.
Cắt vát thì tiết diện mặt cắt lớn, tiếp xúc với đất được nhiều tạo điều kiện cho việc hút nước tốt.
Song cắt vát rễ cây con thường mọc lệch.
Sau khi cắt hom cần để nơi râm mát, thoáng rồi đem ươm tại vườn ươm. Nếu cắt hom xong
chưa có điều kiện ươm ngay (thí dụ cắt hom vào mùa thu hoặc mùa đông năm trước để đến mùa
xuân mới ươm) thì cần phải bảo quản hom tốt. Việc bảo quả vừa phải giữ sức sống của nó vừa
phải có tác dụng xúc tiến ra rễ. Cách bảo quản thông thường nhất là vùi hom trong đất (hoặc cát
ẩm) nơi cao ráo, thoáng gió. Việc bào quản hom theo cách này thường áp dụng cho những loài
cây rụng lá mùa đông, chủ động cắt hom trứơc, đợi đến mùa xuân thuận lợi thì đem ươm ngoài
vườn.
1.2.2.3. Kỹ thuật ươm và chăm sóc
Muốn nâng cao tỉ lệ sống trong kỹ thuật ươm hom cần phải tạo mọi điều kiện cho hom ra rễ
thuật lơị nhất. Thông thưòng với các loại hom như hom thân hom cành thì việc đâm chồi, nảy
lộc, ra lá sớm hơn việc ra rễ, cho nên dễ xẩy ra hiện tượng mất cân bằng về nước trong cây. Bộ
phận trên mặt đất thì thoát hơi nước trong khi đó rễ chưa phát triển nên việc hút nước gặp khó
khăn, hom dễ khô héo và chết. Vì vậy can phải áp dụng các biện pháp làm tăng độ ẩm của đất và
độ ẩm khôngkhí, giảm việc thoát hơi nước của hom và kích thích hom sớm ra rễ, các biện pháp đó
là:
A. Kích thích hom ra rễ:
- Kích thích cơ giới: sau khi đã chọn được cành đạt yêu cầu lấy hom thì bóc vỏ một khoanh
vỏ ở gốc cành, cách thân 5-10cm hoặc có thể dùng dây thép buộc chặt nơi đó lại khiến cho các
chất dinh dưỡng được tích luỹ lại ở đoạn cành lấy hom, tạo điều kiện thuận lợi cho hom sau này
sinh trưởng phát triển tốt, ra rễ nhanh.
- Che ánh sáng: có thể dùng vải đen, giấy đen hay đất bùn bào quanh cành định lấy hom
khiến chó các phyto-hoóc môn ở cành không bị ánh sáng phá hoại, có tác dụng kích thích hom ra
rễ sau này. Việc che sáng thường tiến hành trước khi cắt hom 1 tháng trở lên.
- Dùng các chất điều tiết sinh trưởng thực vật như IAA, NAA, IBA Xử lý trước khi cắt
hom để kích thích ra rễ.
B. Thể nền cho cắm hom: nên chọn đất cát pha hoặc cũng có thể dùng cát làm nền để cắm
hom. Đất cát có ưu điểm là độ thoáng khí tốt, không bí nước nhưng cần chú ý giữ độ ẩm thường
xuyên (tưới đủ ẩm thường xuyên).
Độ thoáng khí trong đất có ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ sống. Bởi vì thời kỳ ra rễ, hom hô
hấp tương đối mạnh vì vậy cần thoáng khí.
C. Tưới nước và tủ rác: lúc mới cắm hom, do rễ chưa có, hom hút nước trực tiếp trong đất
cần tưới đủ ẩm. Tủ rác là biện pháp để giữ ẩm thường xuyên cho đất sau khi tưới. Với những nhà
kính có thiết bị đầy đủ, phun sương định kỳ thì đương nhiên không cần tủ rác.
Ngoài ra cần cắt bớt lá , che bóng để tăng độ ẩm, điều hoà nhiệt độ không khí, giúp cây
sinh trưởng thuận lợi.
Song nếu nước quá nhiều trong đất cũng không tốt, vì sẽ làm cho đất thiếu không khí, hom
dễ bị thối và nước quá nhiều trong đất cũng cản trở việc ra rễ.
D. Thời vụ cắm hom: Tuỳ theo loài cây khác nhau mà khác nhau. Song đại bộ phận các
loài cây thì vào lúc nhiệt độ không khí 25-28
0
C thích hợp cho việc ra rễ. Vì vậy mùa xuân là mùa
cắm hom thuận lợi nhất. Về mùa xuân do có mưa nên độ ẩm không khí cũng thuận lợi cho hom ra
rễ (ẩm độ không khí cao, hom thoát hơi nước ít). Mặt khác về mùa xuân ánh sáng cũng chưa gay
gắt, thuận lợi cho hom ra rễn nảy chồi.
21
Tuy vậy, tuỳ điều kiện cụ thể từng nơi mà quyết định vụ cắm hom thích hợp. Mùa xuân là mùa
cắm hom tốt nhất nhưng không nên tiến hành quá muộn (tháng 4-ttháng 5). Vì cắm hom muộn lúc
này bắt đầu mưa
Chương 2
NGUYÊN LÝ KỸ THUẬT TẠO RỪNG
2.1. PHÂN CHIA NƠI TRỒNG RỪNG
Nơi trồng rừng là nơi hiện nay hoặc sau này được qui hoạch để trồng rừng. Nơi trồng rừng
đứng trên quan điểm kinh tế là tư liệu sản xuất của lâm nghiệp, trên quan điểm sinh vật học là
điều kiện hoàn cảnh kinh tế cây trồng sinh trưởng và phát triển.
Nơi trồng rừng do tổng hợp nhiều nhân tố hình thành như khí hậu, đất, thực vật, địa hình
v.v các nhân tố trên tác động qua lại lẫn nhau và dưới ảnh hưởng, đã hình thành nên vô số nơi
trồng rừng khác nhau.
Phân chia nơi trồng rừng nhằm mục đích sử dụng nó có hiệu quả, có ý nghĩa là chọn loại
cây trồng và đề ra các biện pháp kỹ thuật khác chuẩn xác, rừng trồng đáp ứng được mục đích kinh
doanh, cây trồng sinh trưởng, phát triển tốt, đồng thời môi trường sinh thái ngày một tốt thêm lên.
Các nhân tố tạo thành nơi trồng rừng rất phức tạp, để thuận tiện cho việc nghiên cứu, người
ta chia nó ra làm hai nhóm nhân tố là điều kiện lập địa và trạng thái hoàn cảnh của nơi trồng rừng.
Điều kiện lập địa của nơi trồng rừng.
Nghiên cứu lập địa có thể là nghiên cứu mối quan hệ hẹp giữa sinh trưởng của thực vật
rừng với các yếu tố của môi trường thông qua khí hậu, địa hình, đất, hoàn toàn bỏ qua yếu tố địa
lý, thực chất của phương pháp này là phương pháp phân kiểu lập địa, hoặc nghiên cứu theo mối
quan hệ rộng giữa sinh trưởng của thực vật rừng với các yếu tố của môi trường thông qua khí hậu,
địa hình, đất trong một không gian nhất định, đây là phương pháp phân vùng lập địa.
Khái niệm về lập địa đã được nhiều nhà khoa học đưa ra, theo Hill (1995) lập địa là " một
phức hợp hoàn cảnh của khí hậu, địa hình, nền vật chất tạo đất, đất, nước ngầm, cộng đồng thực
vật và con người".
Dựa vào học thuyết lâm hình học của V.N. Sukasep (1958), W.Shwanecker (1971) đưa ra
khái niệm cụ thể về lập địa, theo ông bao gồm 3 nhân tố:
- Các yếu tố tĩnh: Sinh
+ Khí hậu Sinh địa
+ Đất Sinh cảnh (lập địa theo nghĩa hẹp) địa quần
+ Địa hình quần thể
- Các yếu tố động: thể nhân
+ Quần thể động vật tự tác
+ Quần thể thực vật Quần thể sinh vật nhiên (lập
+ Quần thể vi sinh vật địa theo
- Yếu tố nhân tác: nghĩa
+ Xã hội loài người rộng
22
Xác định lập địa nghĩa là tìm hiểu các yếu tố ngoại cảnh ảnh hưởng và quyết định tới sự
hình thành các kiểu quần thể thực vật khác nhau (quần thể tự nhiên, thứ sinh) và năng suất sinh
trưởng của chúng.
Phương pháp phân chia lập địa có nhiều trường phái, ở đây chúng tôi chỉ giới thiệu phương
pháp phân chia lập địa theo Prô.grep.Nhi.ac, phương pháp này được ứng dụng rộng rãi ở Ucraina
(1995), ông dựa vào điều kiện khí hậu (nhiệt độ, ánh sáng) và điều kiện thổ nhưỡng (độ ẩm, độ
phì), có sự tham gia của thực vật chỉ thị để phân chia lập địa.
Trong một vùng địa lý nhất định, ông coi điều kiện khí hậu về cơ bản là đồng nhất, chỉ cần
phân loại thổ nhưỡng sẽ phân chia được lập địa, Prô.grep.Nhi.ac phân độ phì ra làm 4 cấp (rất xấu,
tương đối xấu, tương đối tốt, tốt) mỗi cấp ứng với một kiểu rừng nhất định (thông, bạch dương,
sồi, hỗn giao) và biểu thị bằng chữ cái A, B, C, D. Độ ẩm chia làm 6 cấp: rất khô, khô, ẩm vừa,
ẩm, ướt, lầy, biểu thị bằng các chữ số: 0,1, 2, 3, 4, 5. Độ ẩm và độ phì kết hợp với nhau dưới một
điều kiện khí hậu nhất định tạo thành 24 loại hình điều kiện lập địa theo bảng dưới đây:
Độ
ẩm
Độ phì
0 1 2 3 4 5
A A
0
A
1
A
2
A3 A
4
A
5
B B
0
B
1
B
2
B
3
B
4
B
5
C C
0
C
1
C
2
C
3
C
4
C
5
D D
0
D
1
D
2
D
3
D
4
D
5
Trong phạm vi khi hậu đồng nhất, các kí hiệu A
0
B
1
D
2
C
5
biểu thị một loại hình lập địa.
Để phản ánh đầy đủ tính đa dạng của thổ nhưỡng và thuận tiện sử dụng nó trong sản xuất.
Prô.grep.Nhi.ac còn đưa ra loại phụ là trạng thái quá độ giữa hai loại hình điều kiện lập địa. Chủng
căn cứ vào sự khác nhau về độ pH và biến chủng căn cứ vào sự khác nhau về độ dầy tầng đất, độ
đá lẫn, thành phần cơ giới .v.v
Nguyên tắc phân chia điều kiện lập địa của Prô.grep.Nhi.ac là dựa vào khí hậu và đất, ông
thừa nhận phải nghiên cứu trực tiếp khí hậu và đất nhưng không cho đó là phương pháp duy nhất,
ông luôn chú trọng dùng thực vật chỉ thị đặc biệt là thực vật chỉ thị thân gỗ sống lâu năm, có thể
phản ánh chính xác, toàn diện điều kiện lập địa.
Phương pháp phân chia điều kiện lập địa của Prô.grep.Nhi.ac không thấy đề cập tới địa
hình
Ở Việt Nam từ đầu năm 1961, trong công tác thiết kế trồng rừng, chúng ta đã phân chia
điều kiện lập địa (điều tra lập địa cấp 1) theo hướng dẫn của chuyên gia cộng hoà dân chủ Đức
(cũ) Lơ Man. Nguyên tắc phân chia điều kiện lập địa của Lơ Man là dựa vào khí hậu, đất, địa hình,
có tham khảo thảm thực vật chỉ thị để phân chia. Trong phạm vi một vùng nhất định, ông cũng coi
điều kiện khí hậu là đồng nhất, để phân chia lập địa chỉ cần phân chia đất, Lơ Man đã phân loại
đất theo hệ thống 3 cấp: Nhóm đất bao gồm những đất có cùng một điều kiện địa hình. Mỗi nhóm
đất được chia thành nhiều loại chính, phân chia loại chính dựa vào quá trình hình thành đất và đá
mẹ. Loại chính được chia thành nhiều loại phụ, phân chia loại phụ dựa vào những đặc điểm khác
nhau có ý nghĩa quyết định đến các biện pháp kỹ thuật trồng rừng và có liên quan trực tiếp đến thi
công như độ dầy tầng đất mặt, tỷ lệ đá lẫn, thành phần cơ giới.v.v
Trong khi phân chia ông chú trọng đặc biệt tới các đặc điểm để phân chia loại phụ, về thực
vật chỉ thị ở nước ta, do tác động của con người nếu chỉ dự vào một loài cây sẽ phản ánh không
đầy đủ, Lơ Man đã dùng cả thảm thực bì để làm chỉ thị, trong đó chú trọng tới 3 đặc trưng cơ bản
23
là kết cấu tổ thành, sinh lực và ngoại mạo của thảm thực bì để đoán định độ ẩm, độ phì và xác định
ranh giới đất.
Phương pháp phân chia lập địa của LơMan đơn giản, dễ làm không đòi hỏi những thiết bị
để phân tích trực tiếp khí hậu đất.
Sau Lơ Man, ở nước ta có nhiều nhà khoa học nước ngoài đã phân chia lập địa, trong đó
đặc biệt có W.Schwaneker, ông đã viết hai tác phẩm "qui trình tạm thời về điều tra điều kiện lập
địa lâm nghiệp Việt Nam và phân vùng và khu sinh trưởng nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà".
W.Schwaneker dựa vào khí hậu, địa hình, đất, đá mẹ để phân chia lập địa miền bắc nước ta
thành 4 cấp phân vị: Vùng sinh trưởng, khu sinh trưởng , phạm vi bức khảm và dạng lập địa.
Dạng lập địa (đơn vị cơ sở của lập địa) được ông chú trọng nên được trình bày sơ sài.
Phương pháp phân chia lập địa của W.Schwaneker chỉ thích hợp khi nước Việt Nam còn bị chia
cắt.
Nguyên Khánh (1996) đã phân chia lập địa lâm nghiệp Việt Nam theo hệ thống 7 cấp:
Toàn quốc, miền lập địa, á miền lập địa, vùng lập địa, tiểu vùng lập địa, dạng đất và dạng lập địa.
Ông đã dựa vào 4 thành phần là khí hậu, địa hình, đất và thực vật để phân chia. Trong các thành
phần tự nhiên tham gia vào phân vùng lập địa lâm nghiệp Việt Nam thì thành phần khí hậu được
ông coi là thành phần chủ đạo, bởi vì nó có ý nghĩa quyết định nhất đến nhiều biện pháp kỹ thuật
lâm sinh và nhiều vấn đề liên quan đến sản xuất lâm nghiệp .
Địa hình có tác dụng phân bố lại nguồn năng lượng mặt trời, tạo ra vật cản che chắn gió và
mưa, tạo ra chế độ thoát nước khác nhau, quyết định đến quá trình hình thành đất. Do đó địa hình
có ảnh hưởng đến tiểu khí hậu và đất. Nguyễn Khánh coi địa hình là một trong ba thành phần cơ
bản tạo lập các đơn vị lập địa, là thành phần luôn luôn bên cạnh hai thành phần khí hậu và đất.
Thành phần thổ nhưỡng: là một trong ba thành phần cơ bản tạo lập ra các đơn vị lập địa.
Thổ nhưỡng chịu sự chi phối hay phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như khí hậum địa hình, đá mẹ,
tác động của con người.
Thành phần thực vật: là thành phần phụ trong phân vùng lập địa, theo Nguyễn Khánh rừng
và thực vật rừng nước ta rất đa dạng, phong phú song cây ưu thế trong rừng thường phân bố rõ
theo địa phương, dựa vào một số loài có mặt trong rừng có thể biết được nơi đó là rừng miền bắc
hay rừng miền Nam, rừng vùng thấp hay rừng vùng cao.
Trong mỗi thành phần, ông chỉ dựa vào những yếu tố đặc trưng nhất để phân vùng lập địa.
- Miền lập địa: yếu tố cơ bản để phân chia là chế độ nhiệt trong đó chỉ tiêu có hay không có
tháng lạnh trung bình dưới 20
0
C dấu hiệu phân chia.
- A miền lập địa: dấu hiệu phân chia là mùa mưa (thời gian mưa trong năm).
- Vùng lập địa: là vùng có sự đồng nhất về khí hậu và địa mạo. Yếu tố chính để phân vùng
lập địa ở miền Bắc là trường độ và cường độ lạnh,ở Miền Nam là trường độ và cường độ khô.
- Tiểu vùng lập địa: Dựa vào các yếu tố đặc trưng bởi một kiểu khí hậu, một kiểu phụ địa
hình và một nhóm phụ thổ nhưỡng để phân chia.
- Dạng đất đai: Dựa vào một số yếu tố thêm vào kiểu phụ địa hình (độ dốc, thêm vào nhóm
phụ thổ nhưỡng (độ dầy tầng đất, thành phần cơ giới) để phân chia.
- Dạng lập địa là đơn vị cơ sở của phân vùng lập địa được đặc trưng bởi một đơn vị địa
mạo thấp nhất (chân, sườn, đỉnh) một cấp độ dốc, một đơn vị phân loại thổ nhưỡng thấp nhất (biến
chủng hoặc thổ chủng) và bao chiếm một khoảng không gian có khí hậu giống khí hậu của tiểu
vùng lập địa.
Hai cấp cuối cùng của hệ thống phân vùng lập địa của Nguyễn Khánh chưa hoàn chỉnh.
Tuy nhiên hệ thống phân vùng lập địa của ông là cơ sở khoa học để định hướng phát triển lâm
nghiệp hoặc qui hoạch sử dụng đất ở tầm vĩ mô.
Trạng thái hoàn cảnh của nơi trồng rừng:
24
Trạng thái hoàn cảnh của nơi trồng rừng là hiện trạng thực vật ( rừng, cây bui, cỏ) tình hình
rừng sau khai thác (có hay không có tái sinh tự nhiên, tình hình gốc cây và dọn vệ sinh rừng), quá
trình lợi dụng đất và tình hình địa hình (độ dốc).
Nghiên cứu trạng thái hoàn cảnh nơi trồng rừng là nghiên cứu mối quan hệ giữa các biện
pháp kỹ thuật, các biện pháp thi công trồng rừng với trạng thái hoàn cảnh của nơi trồng rừng thông
qua các nhân tố như hiện trạng thực vật, tình hình của nơi trồng rừng.
Trạng thái hoàn cảnh của nơi trồng rừng bao gồm những nhân tố nhìn chung dễ biến đổi
(trừ địa hình), hầu hết ảnh hưởng có tính chất tạm thời lúc trồng hoặc trong một thời gian ngắn sau
khi trồng.
Trong phạm vi toàn quốc dưới tác động lâu dài của các điều kiện lập địa khác nhau và sự
tác động của con người đã tạo nên rất nhiều trạng thái hoàn cảnh của nơi trồng rừng khác nhau.
Mỗi trạng thái hoàn cảnh của nơi trồng rừng khác nhau. Mỗi trạng thái hoàn cảnh của nơi trồng
rừng khác nhau đòi hỏi phải áp dụng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh và biện pháp thi công khác
nhau như phương thức phương pháp làm đất, phương thức xử lý thực bì, phương thức phương
pháp trồng rừng, tiêu chuẩn cây con đem trồng, biện pháp chăm sóc .v.v vì vậy cần thiết phải
tiến hành phân chia trạng thái hoàn cảnh của nơi trồng rừng.
Nguyên tắc phân chia trạng thái hoàn cảnh của nơi trồng rừng là dựa vào hiện trạng thực
vật tình hình rừng sau khai thác và quá trình lợi dụng đất. Trong phạm vi một trạng thái hoàn cảnh
của nơi trồng rừng. Sau khi đã phân chia phải có ranh giới khép kín, các nhân tố tạo nên nó, về cơ
bản là đồng nhất, song cũng có thể là không đồng nhất, nhưng ảnh hưởng của nó tới các biện pháp
kỹ thuật lâm sinh và thi công trồng rừng phải giống nhau.
Phương pháp phân chia trạng thái hoàn cảnh của trồng rừng cho đến nay chưa có phương
pháp nào hoàn chỉnh, ở mỗi địa phương tuỳ theo điều kiện cụ thể, cường độ kinh doanh cao hay
thấp mà qui định mức độ chi tiết có khác nhau.
Trong sản xuất của ta hiện nay thường chia ra các trạng thái hoàn cảnh của nơi trồng rừng
chủ yếu như sau:
- Đất cỏ dại:
Được hình thành do kết quả của phá hoại rừng liên tục trong nhiều năm, bao gồm những
nơi khai thác rừng không hợp lý, nương rẫy cũ bỏ lại, nơi bị cháy rừng nhiều lần. Về thành phần
loài cỏ, nói chung là phức tạp, trong đó thường gặp là các loài cỏ chịu hạn, chịu được đất nghèo
xấu như cỏ quăn, cỏ tranh, lau lách, ràng ràng .v.v Tình hình sinh trưởng và mức độ dầy
đặc của các loài cỏ không giống nhau, ngay cùng một loài cỏ cũng sai khác nhau rất lớn, tuỳ theo
điều kiện lập địa và tác động của con người mà cỏ cao hay thấp, dầy hay thưa. Về đất nhìn chung
là chua, đã mất tính chất đất rừng, tầng đất mặt mỏng, khô xấu, cứng chặt, không có cấu tượng (trừ
nơi có cỏ ràng ràng) tỉ lệ đá lẫn nhiều, kết von, có đá nổi, có nơi đá ong ngầm trong đất hoặc nổi
lên trên mặt đất.
- Đất cây bụi:
Được hình thành do phá rừng hoặc khoanh nuôi rừng, tổ thành thực vật ít thuần loài mà
thường rất phức tạp, ít giá trị kinh tế ( chỉ làm củi đun, chống xói mòn) có nhiều loài cây có khả
năng đâm chồi mạnh, chịu được lửa cháy, các cây thường gặp là sim, mua, sầm sì, thanh hao,
thành ngạnh, bồ cu vẽ, các loài cây có gai .v.v tuỳ theo điều kiện lập địa và tác động của con
người mà mức độ đầy kín và chiều cao của thảm cây bụi có khác nhau. Đất nhìn chung tốt hơn đất
cỏ dại.
- Đất rừng thứ sinh nghèo kiệt:
Hình thành do khai thác chọn không đúng kỹ thuật, chất lượng rừng giảm xấu biểu hiện ở
kết cấu tổ thành phức tạp, cây có giá trị kinh tế ít, tái sinh tự nhiên kém, cây gỗ hầu hết là cây tạp,
cong queo, sâu bệnh, nhiều giây leo. Đất tốt, còn tính chất đất rừng, còn tiểu hoàn cảnh rừng.
- Đất dưới tán rừng:
25