Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Bài tiểu luận môn đại cương truyền thông đại chúng, học viện ngoại giao (15)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (674.06 KB, 26 trang )

BỘ NGOẠI GIAO

HỌC VIỆN NGOẠI GIAO

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN

ĐẠI CƯƠNG TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG
Đề tài:
Lý thuyết hệ thống (Ludwig von Bertalanffy) và Ứng dụng trong Báo chí - Truyền thơng

Giảng viên hướng dẫn: TS. Phan Văn Kiền
Nhóm nghiên cứu:

Mai Lưu Thục Ngân - TT47A1-0567
(nhóm trưởng)
Đồng Minh Trang - TT47A1-0582
Phạm Huyền Trang - TT47A1-0586
Sầm Hữu Thiệp - TT47A1-0577

Hà Nội, tháng 6/2021


Thưa Thầy, chúng em đã hoàn thành tiểu luận này với tất cả lịng
biết ơn. Cảm ơn Thầy vì đã tin tưởng và giao cho chúng em một đề
tài “siêu khó”. Nhưng nhờ đó, chúng em đã nghiêm túc tìm tòi,
nghiên cứu và sau tất cả, chúng em đã học được rất nhiều từ lần
“giải đề” này. Năm học kết thúc, môn học của Thầy khép lại, nhưng
những kiến thức mà Thầy đã tâm huyết truyền đạt chắc chắn sẽ là
hành trang nền tảng chúng em mang theo để tiếp tục theo đuổi
ngành Truyền thông. Một lần nữa, chúng em cảm ơn Thầy rất nhiều!
-Nhóm 15-




PHÂN CÔNG NHÂN SỰ
NỘI DUNG

TÁC GIẢ

Phần mở đầu

Đồng Minh Trang

Lịch sử hình thành

Đồng Minh Trang
Khái niệm

Sầm Hữu Thiệp

Thành phần

Phạm Huyền Trang

Đặc điểm/tính chất

Sầm Hữu Thiệp

Phân loại

Phạm Huyền Trang


Ý nghĩa thực tiễn

Phạm Huyền Trang

Ứng dụng của LTHT trong báo chí - truyền thơng

Mai Lưu Thục Ngân
(nhóm trưởng)

Phần kết luận

Đồng Minh Trang

Nội dung và đặc điểm


Mục Lục
I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
1. Bối cảnh ra đời
2. Những người đặt nền móng cho Lý thuyết hệ thống
II. NỘI DUNG VÀ ĐẶC ĐIỂM
1. Khái niệm
2. Thành phần
3. Đặc điểm của Lý thuyết hệ thống
4. Phân loại
5. Ý nghĩa thực tiễn
III. ỨNG DỤNG CỦA LÝ THUYẾT HỆ THỐNG TRONG BÁO CHÍ - TRUYỀN THƠNG
1. Ứng dụng của Lý thuyết hệ thống trong Hệ sinh thái phương tiện:
2. Phương pháp tiếp cận xã hội trong nghiên cứu báo chí
3. Vai trị của Lý thuyết hệ thống trong báo chí - truyền thông trong đại dịch Covid-19



Từ xa xưa, chúng ta đã hình thành một thói quen khi giải quyết vấn đề, đó là chia
vấn đề thành nhiều phân khúc nhỏ hơn rồi xem xét. Điều này xem chừng khiến nhiệm vụ
trở nên đơn giản và dễ quản lý hơn, nhưng ta không nhận thức được rằng với cách tư duy
đó, ta khơng cịn thấy hệ quả từ những hành động của mình, cũng như mất khả năng liên
hệ với một tổng thể lớn hơn1. Do đó, việc nghiên cứu và phát triển một cách nhìn mới
tổng quát và hệ thống hơn trước một vấn đề đóng một vai trị hết sức quan trọng. Trong
tiểu luận này, chúng em sẽ đi sâu và tìm hiểu về cách tiếp cận trên thông qua Lý thuyết hệ
thống (General system theory - LTHT) của Ludwig von Bertalanffy (1901-1972). Tiểu
luận bao gồm 03 phần chính:
(1) Lịch sử ra đời của LTHT;
(2) Nội dung, đặc điểm chính của LTHT;
(3) Những ứng dụng của LTHT trong ngành báo chí - truyền thơng.

I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
Trong các nền văn minh cổ đại, con người chủ yếu lĩnh hội những ý niệm về bản
chất thế giới qua trực cảm, kinh nghiệm, bằng quan sát và mơ tả, trí tưởng tượng và sự kết
nối giao cảm với vũ trụ. Để những ý niệm đó phát triển thành hệ thống tri thức ngày nay,
con người đã phải trải qua nhiều giai đoạn nhận thức cùng quá trình phát triển các phương

1 Peter M.Senge (2010), Nguyên lý thứ năm: Nghệ thuật và Thực hành Tổ chức học tập (Nguyên tác: THE FIFTH
DISCIPLINE: The Art & Practice of The Learning Organization), NXB Thời Đại.

1


pháp khoa học: nhận thức khoa học2 → tư duy cơ giới3 → khoa học hệ thống4 →
tư duy hệ thống5 theo mức độ tăng dần của sự hỗn độn và phức tạp6. Cùng với sự phát
triển của tư duy hệ thống, nhiều nhà nghiên cứu, điển hình là Ludwig von Bertalanffy đã

nghiên cứu và cho ra đời Lý thuyết hệ thống, nhấn mạnh về sự hữu ích của tính tổng quát
trên một phạm vi rộng các hệ thống7.
1. Bối cảnh ra đời
2 Ngay từ thế kỷ 6 TCN, các nhà triết gia Hy Lạp cổ đã đề xuất một số điều cơ bản để phát triển các phương pháp
nhận thức mà sau này được gọi là các phương pháp khoa học: Nêu những loại câu hỏi mới có chủ định để tìm hiểu
các tính chất cơ bản của vũ trụ; Tìm những câu trả lời mà khơng cần viện đến thần linh như nguyên nhân của các
hiện tượng tự nhiên; Phát triển một hệ thống hình thức cho việc tìm kiếm các chứng minh. Sau đó, vào thế kỷ 4
TCN, Aristotle đã phát triển một hệ thống hình thức của logic làm cơ sở cho các phương pháp suy luận và chứng
minh. Ông tin rằng qua quan sát và kinh nghiệm, rồi dùng quy nạp và suy diễn logic có thể thu được các tri thức để
hiểu bản chất sự vật. Hệ thống logic này cho đến ngày nay vẫn là nền tảng chủ yếu của các phương pháp suy luận
trong khoa học hiện đại, góp phần hình thành nhiều ngành khoa học tự nhiên.
Cuối thế kỷ 16, đầu thế kỷ 17, các tư tưởng và phương pháp khoa học trên mới có điều kiện để phát huy, khởi đầu
bằng lý thuyết “quả đất quay quanh mặt trời” của Galilei. Đây là một sự khẳng định khơng chỉ có tính chất lý thuyết
mà cịn bằng quan sát thực nghiệm với kính viễn vọng. Cùng với đó, ơng cũng đã đưa ra lý thuyết cơ học mới để
nghiên cứu chuyển động. Những lý thuyết cơ bản của Galilei sau đó đã được Newton phát triển bằng các phát minh
về luật hấp dẫn vũ trụ, các định luật về chuyển động, các phát minh về phép tính vi phân và tích phân,... làm cơ sở
cho các phương pháp toán học nghiên cứu chuyển động. Nhờ đó khoa học mới về chuyển động đã được xây dựng
một nền móng tương đối hồn chỉnh, và cơ học - ngành khoa học về tự nhiên đầu tiên được xây dựng với hai phương
pháp nghiên cứu chủ yếu là lý thuyết và thực nghiệm, đã phát triển nhanh chóng và tác động mạnh mẽ đến sự thay
đổi và phát triển của nhiều ngành khoa học tự nhiên khác, con người cũng dần chịu ảnh hưởng to lớn với kiểu tư duy
thường được gọi là tư duy cơ giới.
3 Chủ nghĩa cơ giới đề-các tách rời vật chất ra khỏi tinh thần, trí tuệ, xem tự nhiên như một bộ máy mà trí tuệ có thể
hiểu được. Bộ máy được dùng để ẩn dụ chủ yếu cho mọi liên tưởng trong nhận thức về tự nhiên lúc bấy giờ, mà sau
này là các hệ thống kinh tế, xã hội,... Để nghiên cứu, những đối tượng phức tạp được xem như một bộ máy, có thể
được phân tích ra để bắt đầu từ những cái đơn giản sau đó lần ngược lên các bậc cao hơn. Quan điểm phân tích cũng
được Pascal xem trọng, ơng viết: Khơng thể biết các bộ phận mà khơng biết tồn thể, lại càng khơng thể biết tồn
thể mà khơng biết các bộ phận. Cách tiếp cận phân tích đã giúp đi sâu nghiên cứu các thành phần ngày càng cơ bản
hơn của vật chất, của sự sống, kinh tế, xã hội,... cho ta những hiểu biết sâu sắc về cấu trúc của các thành phần cơ bản
trong nhiều loại đối tượng khác nhau. Khơng thể phủ nhận những ảnh hưởng đó của tư duy cơ giới đã tác động tích
cực đến sự phát triển của nhiều ngành khoa học, đưa các ngành đó vượt ra ngồi sự hạn chế của các phương pháp

quan sát và mô tả quen thuộc. Tuy nhiên, cũng tại đây tư duy cơ giới bắt đầu bộc lộ những hạn chế. Đối với những
vận động cơ giới của các vật thể trong quy mô thông thường, ta có được những kết quả hết sức lý tưởng thì sang các
lĩnh vực khác như cơ học chất lỏng, vật lý chất rắn,... các định luật mà ta có được dần thiếu đi sự chính xác tất định,
và càng đi xa hơn đến các lĩnh vực sinh học, khoa học kinh tế và xã hội, tính tất định chính xác trong các quy luật
càng mất đi, chỉ còn là các quy luật có tính chất gần đúng mang tính thống kê. Vì thế, nếu xem những kết luận “khoa
học” mang tính cơ giới là chân lý thì rất có thể đi đến những nhận thức sai lầm.
4 Một thí dụ nổi tiếng là bài toán chuyển động của ba vật thể tương tác với nhau theo định luật hấp dẫn Newton,
tưởng như đơn giản nhưng lại không thể giải được dưới dạng giải tích quen thuộc. Vào cuối thế kỷ 19, nhà toán học
Poincaré đã phát hiện ra rằng hành vi chuyển trạng thái của hệ đó là rất bất thường, hỗn độn và có vẻ ngẫu nhiên. Tất
nhiên, tư duy cơ giới khơng thể giải thích được phát hiện đó, mà phải mãi đến những năm 60, 70 của thế kỷ 20,
người ta mới đưa ra kết luận sau khi chứng kiến nhiều hiện tượng tương tự: “cái hỗn độn, phi trật tự có thể nảy sinh
từ chính trong các hệ thống tuân theo các luật tất định”. Điều này khơng thể được hình dung bằng tư duy cơ giới,
nhưng lại khá phổ biến trong thế giới và cuộc sống thực, và đang là chủ đề nghiên cứu của lý thuyết hỗn độn, một
ngành khoa học được phát triển mạnh hiện nay.
5 Khi khoa học phát triển vượt ra ngồi phạm vi cơ giới thì ta bắt gặp nhiều hiện tượng phi trật tự, ngẫu nhiên và hỗn
độn, xảy ra trong những đối tượng phức tạp gồm một số rất lớn các phần tử hợp thành mà ta không thể bao qt hết
(một bình khí chứa hàng tỉ các phần tử khi, một nền kinh tế với hàng triệu người sản xuất, tiêu dùng,...). Có thể mỗi

2


Từ sau Đại chiến thế giới lần thứ II, các hệ thống lớn được hình thành và phát triển
nhanh chóng, bao trùm lên mọi mặt của hoạt động kinh tế, xã hội và sinh hoạt như các hệ
thống năng lượng (điện, dầu khí và các dạng năng lượng khác), bưu chính viễn thơng,
giao thơng vận tải, mạng máy tính tồn cầu, hệ thống các nhà băng và dịch vụ ngân hàng,
các hệ thống dịch vụ khác... địi hỏi phải có những phương pháp và cơng cụ nghiên cứu
thích ứng8.
Ngồi ra, tư duy cơ giới với xu hướng phân tích, đơn giản hóa thống trị vào giai
đoạn trước đó cũng dẫn đến nhiều hệ lụy trong đời sống, xã hội. Thậm chí, “...xu hướng
đơn giản hóa mọi chuyện tới mức chẳng cần đến tư duy nghiêm túc cũng biến hệ thống

chính trị thành một ngành công nghiệp bầu cử cố thuyết phục dân chúng rằng sự lựa chọn
được đảm bảo vững chắc suốt đời khi các cử tri đi bỏ phiếu cho các chính khách có quyền
ban bố quyết định…”9
Những đặc điểm trên thúc đẩy con người tìm ra một thứ ngơn ngữ mới, thay thế
ngơn ngữ phân tích đã thâm nhập sâu vào cuộc sống trước đó, một ngơn ngữ chủ tồn
(holistic language), ngơn ngữ của hệ thống, cho ta nhìn thấu suốt tình trạng hỗn độn và
nhận thức quán triệt tính phức hợp10.
Ngồi ra, những hệ thống phức tạp sở hữu nhiều đặc điểm 11 thúc đẩy sự hình thành
phần tử đều vận động theo những luật tất định đơn giản nào đó, nhưng vận động của tất cả những phần tử đó gộp lại
thì chẳng theo một quy luật chung nào cả, là ngẫu nhiên, là hỗn độn. Vì thế, quan điểm phân tích "để hiểu tồn thể
thì phải hiểu các phần tử" khơng cịn thích hợp, việc phân tích các phần tử hầu như khơng có vai trò nhiều trong việc
phát hiện các luật về các hành vi có tính tồn thể như trên. Từ những hạn chế trên đã dẫn đến một cách nhìn mới gọi
là cách nhìn hệ thống: trước hết xem xét mọi đối tượng như là một tồn thể với những tính chất, hành vi thuộc về
tồn thể khơng thể quy về hoặc suy ra từ những tính chất của các thành phần cấu tạo nên nó.
6 Phan Đình Diệu, Tư duy hệ thống và đổi mới tư duy, Tạp chí Thời đại mới - Số 6/2002.
7 Lý thuyết hệ thống, truy cập link:
/>truy cập ngày 17/6/2021.
8 Trần Đình Long (1999), Lý thuyết hệ thống, NXB Khoa học và kỹ thuật, tr.4.
9 Jamshid Gharajedaghi, Tư duy hệ thống: Quản lý hỗn độn và phức hợp (System thinking: Managing chaos and
complexity), NXB Khoa học Xã hội, 2003, Tr.77.
10 Jamshid Gharajedaghi, Tư duy hệ thống: Quản lý hỗn độn và phức hợp (System thinking: Managing chaos and
complexity), NXB Khoa học Xã hội, 2003, Tr.76-78.
11 Các hệ thống lớn thường có những đặc điểm chính sau đây: 1) Tính rộng lớn về phương diện lãnh thổ và khơng
gian, nhiều hệ thống ngày nay mang tính tồn cầu, thậm chí cả khoảng khơng gian quanh trái đất; 2) Tính phức tạp
về cấu trúc: số lượng các phần tử tham gia vào hệ thống rất lớn, mối liên hệ về cấu trúc phức tạp; 3) Tính đa chức
năng và đa mục tiêu của hệ thống và trong một số trường hợp các mục tiêu này có thể mâu thuẫn nhau; 4) Mức độ
bất định của thông tin ảnh hưởng đến tất cả các khâu trong quá trình hình thành và phát triển hệ thống từ quy hoạch,
thiết kế, xây dựng đến khai thác và mở rộng hệ thống. Giai đoạn khảo sát càng dài về tương lai tính bất định càng
cao; 5) Vấn đề độ tin cậy của hệ thống ngày càng trở nên bức xúc. Hệ thống càng lớn việc đảm bảo độ tin cậy càng
khó khăn và tốn kém, hậu quả của hỏng hóc, mất an toàn của hệ thống ngày càng nghiêm trọng.


3


và phát triển của Lý thuyết hệ thống (hay kỹ thuật hệ thống), mặt khác, nhờ vào những
thành tựu về khoa học và công nghệ của các hệ thống lớn mà các phương pháp và công cụ
của Lý thuyết hệ thống được phổ cập càng rộng rãi và mang lại hiệu quả ngày càng cao.
2. Những người đặt nền móng cho Lý thuyết hệ thống
Trước tình hình đó, nhiều nhà khoa học đã tìm tịi, nghiên cứu về Lý thuyết hệ
thống như W. Ross Ashby12, Kenneth E. Boulding13, Stafford Beer14, Norbert Wiener15...
trong đó nổi bật là Ludwig von Bertalanffy - Cha đẻ của Lý thuyết hệ thống.
Ludwig von Bertalanffy (1901 – 1972) là nhà sinh vật học người Áo nổi tiếng ngay
từ bản Đề cương lý thuyết hệ thống tổng quát lấy ví dụ từ các khoa học cụ thể là tâm lý
học và kinh tế học.
Theo Bertalanffy, khoa học xã hội cũng như kinh tế học đã trải qua tình trạng:
trước kia kinh tế học cổ điển coi xã hội là tổng số các cá nhân với tính cách như là các
nguyên tử xã hội, ngày nay kinh tế học hiện đại coi một xã hội, một nền kinh tế hay một
quốc gia là một chỉnh thể có khả năng định đoạt đối với các bộ phận của nó 16. Ông phát
hiện ra rằng các khoa học hiện đại khác nhau đều tìm thấy những quy luật tương tự nhau,
12 W. Ross Ashby (1903-1972) Nhà tâm lý học người Anh, người tiên phong trong các nghiên cứu về hệ thống
thơng tin và điều khiển học ở máy móc và các sinh vật sống. Nghiên cứu của ơng có ảnh hưởng to lớn đối với những
nhà khoa học nghiên cứu về khoa học hệ thống như Norbert Wiener, Ludwig von Bertalanffy.
13 Kenneth E.Boulding (1910-1993) nhìn nhận hệ thống từ khoa học quản lý với quan điểm: hệ thống là một thực
thể phổ biến ở trong tất cả thế giới vật chất của chúng ta, chúng ta sống trong hệ thống.
14 Stafford Beer (1926-2002) nghiên cứu về hệ thống từ góc độ điều khiển học, ông chia hệ thống làm hai nhóm: hệ
thống tiên định và hệ thống xác suất.
(Theo ThS. Đỗ Tiến Vượng, Lý thuyết hệ thống và ứng dụng trong hệ thống thông tin - thư viện các trường đại học
kỹ thuật Việt Nam, truy cập link: truy cập ngày 13/6/2021)
15 Norbert Wiener là một nhà toán học và triết học Mỹ. Ơng là giáo sư Tốn học tại MIT. Trong tác phẩm Điều
khiển học, hoặc sự nghiên cứu điều khiển và truyền thông trong động vật và máy năm 1948, thuật ngữ “điều khiển

học” được ông sử dụng bắt nguồn từ tiếng Hy-Lạp “kybernetes” - nghĩa là “tay lái” - xuất hiện thời cổ đại bởi Plato
và thế kỷ 19. Điều khiển học về sau dần được xem là có vai trị nghiên cứu và đưa ra những nguyên lý trừu tượng
của việc tổ chức những hệ thống từ đơn giản tới phức tạp. Do đó, Điều khiển học trở thành một thành phần căn bản
của khoa học về các hệ thống (Systems Sciences).
Năm 1950, những nhà tư tưởng điều khiển học tiến lên và gắn kết nhau thành Lý thuyết chung về các hệ thống
(General Systems Theory). Cùng thời gian đó, năm 1954, Ludwig von Bertalanffy, từ lĩnh vực sinh học đã thử xây
dựng và đưa ra những nguyên lý chung của các hệ thống. Lý thuyết chung các hệ thống là thuật ngữ đã được L.V.
Bertalarffy đưa vào vốn từ vựng khoa học để mô tả lý thuyết các hệ thống mở và các trạng thái cân bằng động năm
1933 tại trường đại học tổng hợp Chicago. (Theo Bùi Quang Minh, Lịch sử điều khiển học và khoa học hệ thống,
truy cập link:
/>truy cập ngày 13/6/2021)
16 Bertalanffy nhắc đến quy luật của Pareto về phân phối thu nhập trong một quốc gia, trích dẫn sách của Pareto về
chính trị kinh tế học năm 1897, nhưng khơng trích dẫn nhà tâm lý học nào về Gestalt. Bertalanffy (1950), bản Đề
cương lý thuyết hệ thống tổng quát (General System Theory), Tr. 137.

4


có nghĩa là các sự vật và hiện tượng khác nhau trong thế giới vô cơ, thế giới hữu cơ, thế
giới xã hội, và thế giới con người đều bị quy định bởi một số quy luật giống nhau.
Bertalanffy đã chỉ ra ba nguyên nhân của tình hình này: Thứ nhất, ơng lấy ví dụ đơn giản
rằng cách diễn ngơn vô cùng phong phú, đa dạng hàng ngày và ngay cả các diễn ngơn
khoa học đều có chung một số mẫu câu, mẫu ngữ pháp, một số quy tắc 17, đồng thời có rất
nhiều cách lập luận khác nhau trong các khoa học, nhưng đều giống nhau ở một số cách
lập luận logic hình thức; Thứ hai, ơng cho rằng thế giới không quá hỗn độn hay quá phức
tạp nên có thể cho phép áp dụng được các sơ đồ hay các khuôn mẫu tư duy 18; Thứ ba, các
quy luật đó chỉ áp dụng chung, tổng quát cho các phức hợp hay các hệ thống nhất định mà
không phụ thuộc vào bản chất của hệ thống và loại thực thể nhất định liên quan. Nói
chung, ơng cho rằng tất cả các khoa học khác nhau đều giống nhau ở chỗ nghiên cứu “các
hệ thống”, vì vậy có các quy luật hệ thống tổng quát có thể áp dụng cho bất kỳ loại hệ

thống nào mà không phụ thuộc vào đặc điểm cụ thể của hệ thống cũng như những yếu tố
có liên quan19.20
Trong chương trình xây dựng lý luận của mình ơng đã chỉ ra những nhiệm vụ cơ
bản: Thứ nhất, làm sáng tỏ những nguyên tắc và quy luật chung về hành vi của các hệ
thống; Thứ hai, xác lập những quy luật tương tự của khoa học tự nhiên nhờ tiếp cận hệ
thống đối với các khách thể sinh học, xã hội; Thứ ba, trên cơ sở làm rõ tính tương đồng
của các quy luật trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau, tạo ra sự hợp thức khoa học hiện
đại.
Sự xuất bản “Lý thuyết hệ thống tổng quát” vào năm 1968 đã thúc đẩy mong muốn
của giới khoa học muốn tiến tới phổ quát hóa các công cụ nhận thức khoa học và tiếp
17 Các diễn ngơn tự sự và diễn ngơn khoa học cũng có chung những quy tắc nhất định mà con người tạo nên để thiết
lập và duy trì các trị chơi ngơn ngữ và cả các quan hệ xã hội.
18 Mặc dù L.V Bertalanffy có nhấn mạnh một thuộc tính đặc trưng của hệ thống sống, hệ thống mở là sự liên tục
biến đổi và tiệm biến đến trạng thái ổn định nhưng phức tạp hơn và có tính tổ chức cao hơn nhưng có lẽ ơng chưa để
ý đến đến ngun lý “bất toàn” và “bất định”: thế giới rất phức tạp với rất nhiều biến đổi, không ổn định, không tồn
vẹn, nhiều rủi ro, nhiều tai biến, bất ngờ, khó xác định, khó lường (Xem F. David Peat (2005), Từ xác định đến bất
định: những câu chuyện về khoa học và tư tưởng của thế kỷ 20, Nxb Tri Thức. Hà Nội. 2011).
19 Bertalanffy cho biết lúc bấy giờ, nhiều nhà khoa học đang nỗ lực tìm kiếm các siêu cấu trúc, các ngun lý và các
mơ hình chung có thể áp dụng cho tất cả các lĩnh vực nghiên cứu khác nhau, như nhóm điều khiển học của N.
Wiener, nhóm ngữ nghĩa học đại cương của Korzybski và những người khác. Tuy nhiên, ông cho rằng vấn đề này
vẫn chưa được nêu rõ, cũng chưa được nghiên cứu một cách hệ thống và chưa đạt được kết quả mong muốn.
(Ludwig von Bertalanffy (1950), “An Outline of General System Theory”. The British Journal for the Philosophy of
Science, Vol.1, No. 2 (Aug., 1950), P.138).
20 Lê Ngọc Hùng, Lý thuyết hệ thống tổng quát và phân hóa xã hội: Từ Ludwig von Bertalanffy đến Talcott
Parsons, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 3 (2014) 51-62.

5


nhận được luận điểm đặc trưng của các hệ phổ quát. Cách tiếp cận hệ thống đã được sử

dụng trong lý thuyết mang tính chất liên ngành, tạo cơ hội đem những quy luật và khái
niệm từ lĩnh vực nhận thức này sang lĩnh vực khác21.

II. NỘI DUNG VÀ ĐẶC ĐIỂM
1. Khái niệm
Lý thuyết hệ thống là một khái niệm mà trong đó, mọi sự vật đều mang tính liên
kết và để nghiên cứu bất cứ vấn đề nào, ta cần nhìn nhận một cách tổng quan hơn là xét
từng đối tượng thuộc vấn đề đó. Lý thuyết hệ thống đi ngược lại với phương pháp tiếp cận
thực nghiệm bằng cách xem xét từng thành phần riêng lẻ. Nói cách khác, Lý thuyết hệ
thống có thể được hiểu đơn giản như sau: “Chính thể ln ln lớn hơn những thành phần
của nó cộng lại22”. Theo L.V. Bertalanffy, việc tách rời các đối tượng của một hệ thống
nhằm phục vụ mục đích nghiên cứu sẽ khiến chúng mất đi vai trị nguyên bản trong hệ
thống và việc xác định một cách đơn lẻ, bỏ qua vai trò của các đối tượng trong hệ thống
có thể dẫn đến các nghiên cứu khơng chính xác.
Các yếu tố nói trên của Lý thuyết hệ thống được thể hiện qua nhiều ví dụ, đơn cử
như câu chuyện ngụ ngơn “Thầy bói xem voi”. Trong câu chuyện, vì cả năm ơng thầy bói
đều bị mù nên chỉ có thể cảm nhận được hình dáng của con voi qua việc chạm vào nó. Vì
chỉ sử dụng xúc giác để cảm nhận duy nhất một bộ phận, không phải thị giác để quan sát
tổng thể như thông thường đã dẫn đến những phán đoán sai lệch của cả năm người về
hình dáng thật sự của một con voi.

21 Bùi Quang Minh, Lịch sử điều khiển học và khoa học hệ thống, truy cập link:
truy cập ngày
14/6/2021.

22 Lumen, Systems Theory Paradigm, available at
accessed
12/06/2021.

6



Nguồn ảnh: Sam Gross
2. Thành phần
Về cơ bản, một hệ thống gồm phần tử, môi trường, đầu ra, đầu vào, quá trình
xử lý.

Nguồn ảnh: Principia Cybernetica Web
Phần tử là thành phần cốt lõi, “là thành phần cơ bản tạo nên hệ thống, nó tồn tại
7


độc lập tương đối với các phần tử khác của hệ thống và không thể chia nhỏ hơn hoặc bản
thân nó khơng thể phân chia nhỏ hơn hoặc là do tính chất của những vấn đề mà chúng ta
nghiên cứu về hệ thống, chúng ta không cần thiết phải chia nhỏ hơn” 23. Để một hệ thống
tồn tại được, nó cần ít nhất hai phần tử. Tuy nhiên, đây chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ
mà giữa các phần tử ấy cần phải có sự liên kết với nhau. “Nhiều phần tử tồn tại độc lập
với nhau, khơng có sự ràng buộc phụ thuộc lẫn nhau, không liên kết với nhau cũng không
tạo nên hệ thống”24.
Việc xác định đúng đắn phần tử của hệ thống là một điều rất quan trọng. Khơng
phải hệ thống nào khi nhìn vào ta cũng thấy ngay được các thành phần của nó. Với các hệ
thống như máy móc thì các phần tử tương đối rõ ràng, nhưng với một đối tượng trừu
tượng hơn như hệ thống kinh tế của Việt Nam thì cần xác định đối tượng sao cho thuận
tiện cho việc quản lý và theo dõi sự liên kết giữa các đối tượng. Đơi khi, việc xác định các
phần tử đã hồn thành, nhưng liệu các phần tử ấy có liên kết trơn tru để hệ thống có thể
vận hành hay khơng thì lại là vấn đề khác. Cho nên, việc chỉ rõ liên kết giữa các phần tử
cũng hết sức cần thiết. Khi tiến hành nghiên cứu, nếu các phần tử được xác định một cách
hợp lý, phù hợp thì sẽ giúp cho quá trình trở nên dễ dàng hơn, đem lại hiệu quả cao hơn.
Môi trường là những đối tượng không thuộc hệ thống, nằm trong không gian bao
chứa hệ thống, có thể có tương tác với hệ thống hoặc khơng. Khi mơi trường có tương tác

với hệ thống, các đối tượng đó có thể “gây ra tác động đối với hệ thống và chịu tác động
của hệ thống”25. Với các hệ thống khơng có tương tác với mơi trường, “khơng có hệ đóng
tuyệt đối theo nghĩa hệ thống là cô lập với môi trường tại mọi thời điểm của q trình” 26.
Có thể xảy ra các tình huống như sự tương tác đó quá nhỏ nên có thể bỏ qua; chỉ tương
tác theo một hướng (chỉ môi trường tác động lên hệ thống hoặc chỉ hệ thống tác động lên
mơi trường) nhưng khơng gây ảnh hưởng đáng kể; đóng ở lĩnh vực này, mở ở lĩnh vực
khác. Ví dụ ta xét một cơng trình kiến trúc lâu đời, có thể nói đây là một hệ thống khơng
có tương tác với môi trường, nhưng trải qua thời gian dài hàng thế kỷ thì khơng thể phủ
nhận rằng các nhân tố như điều kiện thời tiết, biến đổi khí hậu ít nhiều làm chất lượng
23 Nguyễn Văn Huân, Vũ Xuân Nam và Nguyễn Thu Hằng (2012), Bài giảng Lý thuyết hệ thống và điều khiển học,
Trường Đại học Công nghệ thông tin & Truyền thông, tr. 11.
24 Sách đã dẫn, tr. 13.
25 Sách đã dẫn, tr. 15.
26 Sách đã dẫn, tr. 16-17.

8


cơng trình kiến trúc ấy suy giảm.
Đầu vào (input) của hệ thống là các thông tin được đưa vào hệ thống để xử lý.
Đầu ra của hệ thống là kết quả của quá trình xử lý ấy. Đầu ra (output) chính là thứ mong
muốn đạt được của hệ thống. Ví dụ xét một chiếc đồng hồ cơ, đầu vào của nó là các bộ
phận cấu thành như dây cót, bánh răng,... và chuyển động cơ từ người đeo, đầu ra chính là
sự chuyển động của các kim đồng hồ, qua đó biểu thị thời gian. Hay trong một trường cấp
ba, đầu vào là những học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở, giáo trình, chi phí,... và cho đầu
ra là các học sinh tốt nghiệp trung học phổ thơng.
Q trình xử lý (throughput) là quá trình chuyển đổi đầu vào thành đầu ra của hệ
thống. Đây là một bộ phận vận hành của hệ thống, nó có thể điều chỉnh hồn tồn đầu vào
hoặc một phần đầu vào. Q trình xử lý cũng phụ thuộc vào yêu cầu đầu ra mong muốn
của hệ thống. Ví dụ trong một bệnh viện, q trình xử lý chính là những hoạt động tiếp

nhận bệnh nhân, khám bệnh, chẩn đoán, điều trị,... và những hoạt động ấy chỉ tác động
vào khía cạnh sức khỏe của người bệnh, đơi khi có thêm sự phụ thuộc vào nhu cầu và tài
chính của bệnh nhân.
Đó là những thành phần cấu thành cơ bản nhất của hệ thống. Trên thực tế, một hệ
thống khi tồn tại còn bao gồm rất nhiều thành phần khác liên quan trực tiếp đến hoạt động
của hệ thống ấy như mục tiêu, trạng thái, hành vi,...
Mục tiêu của hệ thống là “sản phẩm mà hệ thống cần tạo ra, ví dụ như mục tiêu
của nhà trường là đào tạo nhân lực”27. Theo Vũ Cao Đàm, luôn tồn tại một hệ thống mục
tiêu trong mọi hệ thống, có cấu trúc hình cây. Mục tiêu của hệ thống phải được chia ra
thành các mục tiêu con theo từng cấp độ khác nhau. Các mục tiêu nhỏ hơn đều phải
hướng đến mục tiêu lớn nhất, nếu khơng hệ thống ấy sẽ tan rã. Ví dụ, xét cây mục tiêu của
một lớp học trong một năm học, mục tiêu cấp I sẽ là mục tiêu tổng quát nhất, đạt danh
hiệu lớp xuất sắc; mục tiêu cấp II sẽ là các mục tiêu về học lực, hạnh kiểm, phong trào,
chuyên cần,... và có thể tiếp tục bóc tách thành các mục tiêu cấp III, cấp IV,...
Nhưng cũng có nghiên cứu cho rằng một hệ thống có thể có mục tiêu hoặc không.
Theo Bài giảng Lý thuyết hệ thống và điều khiển học của các tác giả Nguyễn Văn Huân,
27 Vũ Cao Đàm (2009), Bài giảng điện tử Lý thuyết hệ thống và điều khiển học, truy cập link
truy cập
ngày 15/6/2021.

9


Vũ Xuân Nam và Nguyễn Thu Hằng, “các hệ thống máy móc khơng có mục tiêu, chúng
chỉ có chức năng do các nhà thiết kế đề ra, chức năng đó khơng phải là cái gì khác với
tính năng và cơng dụng của máy. Các nhà chế tạo phải đảm bảo cho máy móc chế tạo ra
có đầy đủ tính năng và công dụng do các nhà thiết kế đã chỉ định” 28. Ludwig von
Bertalanffy cũng cho rằng, “dưới góc độ cơ học, sự hoạt động khơng có mục đích của các
nguyên tử đã tạo nên mọi hiện tượng trên thế giới” 29 mà khơng hề có sự dẫn dắt nào, tức
là các hệ thống từ những thứ vô tri vô giác đến các vật thể sống, có trí tuệ đều được hình

thành một cách tự nhiên.
Trạng thái (state) của hệ thống ở một thời điểm là “tập hợp những thuộc tính mà
hệ thống có ở thời điểm đó. Bất kỳ hệ thống nào cũng không hạn định về số lượng thuộc
tính”. Xét ví dụ với một hệ thống máy bay, ở một thời điểm nào đó có thể chỉ xét ở khía
cạnh máy bay đang hoạt động hay nghỉ, nhưng cũng có khi quan tâm đến cả sức chứa,
khối lượng, tốc độ,... của nó.
Hành vi (behavior) cũng là một thành phần của hệ thống. Theo Vũ Cao Đàm,
"hành vi của hệ thống là cách thức biến đổi trạng thái của hệ thống". Hành vi của hệ
thống sẽ là điều kiện hoặc cần, hoặc đủ, hoặc cả cần và đủ để một trạng thái mới sinh ra
(Ackoff, 1971). Ví dụ, một chiếc xe chuyển từ trạng thái nghỉ sang trạng thái hoạt động,
thì hành vi của hệ thống cơ khí trong xe chính là nổ máy (vừa cần vừa đủ). Hành vi này
có thể khác nhau ở những hệ thống khác nhau. Hay ánh đèn điện muốn chuyển từ trạng
thái sáng về trạng thái tắt thì sự biến đổi của cơng tắc đèn là điều kiện đủ để thỏa mãn.
3. Đặc điểm của Lý thuyết hệ thống30
Một hệ thống bất kỳ thường có các đặc điểm sau:
Hệ thống “mở” là đặc điểm thể hiện qua việc một hệ thống là thứ ln ln phát
triển và các tính chất của hệ thống đó liên tục được mở rộng ra thơng qua q trình tương
tác với mơi trường bên ngồi. Đặc điểm này giải thích cho khẳng định của nhiều nhà khoa
học khi họ cho rằng: hầu hết mọi hệ thống đều là hệ thống mở và một hệ thống khép kín
chỉ tồn tại trên mặt lý thuyết.
28 Nguyễn Văn Huân, Vũ Xuân Nam và Nguyễn Thu Hằng (2012), Sách đã dẫn, tr. 17.
29 Bertalanffy, L. von (1968), General system theory: Foundations, Development, Applications, New York:
George Braziller, p. 45.
30 Bertalanffy, L. von (1968), General system theory: Foundations, Development, Applications, New York:
George Braziller.

10


Một ví dụ cho đặc điểm “mở” của hệ thống là mối quan hệ giao tiếp của con người.

Từ khi còn nhỏ đến khi lớn, chúng ta gặp và giao tiếp với nhiều người. Khi đó, mối quan
hệ giao tiếp giống như một hệ thống mở, trong đó đầy đủ các thành phần như input (các
tương tác trong việc giao tiếp của người khác đối với chúng ta), throughput (việc não bộ
chúng ta xử lý các thông tin tiếp nhận từ người khác), output (các phản hồi trong tương
tác giao tiếp của chúng ta) và environment (môi trường xung quanh chúng ta). Nếu như
môi trường là một yếu tố luôn luôn thay đổi, phát triển và không cần bàn cãi thì ở đây, các
input, output và throughput cũng ln ln thay đổi. Qua quá trình hình thành nhân cách,
chúng ta được tiếp xúc với các yếu tổ ảnh hưởng từ mơi trường xung quanh, qua đó, tạo
nên sự phát triển trong cách giao tiếp. Nói cách khác, thơng qua tương tác với mơi trường
xung quanh, lời nói, suy nghĩ và hành động hay các yếu tố khác ảnh hưởng đến cách giao
tiếp của chúng ta cũng dần thay đổi và phát triển.
Tính tổng thể được thể hiện qua việc Lý thuyết hệ thống tập trung nghiên cứu sự
sắp xếp và mối quan hệ giữa các yếu tố tạo nên hệ thống. Tương tác chung giữa các yếu
tố này giúp tạo nên tổng thể hay chính thể, thứ ln ln lớn hơn các yếu tố cấu thành nó
và các hệ thống hoạt động khi các yếu tố cấu thành hệ thống được kết hợp và tương tác
với nhau. Do tính tổng thể này mà ta có thể thấy được đặc tính hợp trội của hệ thống một hệ thống có thể sở hữu những đặc điểm mà những thành phần đơn lẻ của nó khơng
có. Tính chất của một hệ thống phức tạp khơng thể được suy ra từ tính chất của những
phần tử tạo nên nó mà phải dựa trên sự tương tác giữa các bộ phận.
Một động cơ xe với nhiều thành phần cấu tạo như bugi, xi lanh, trục khuỷu nếu
được tháo rời và đặt trên bàn sẽ không thể nào giúp chiếc xe di chuyển. Nhưng nếu lắp
chúng lại một cách chính xác thì các bộ phận sẽ tương tác với nhau tạo nên một động cơ
xe hồn chỉnh và có thể sử dụng. Ngồi ra, sự tương tác giữa các bộ phận của động cơ xe
khi tách rời thường rất ít và khơng đem lại giá trị sử dụng. Nhưng nếu kết hợp chúng lại,
tương tác giữa chúng sẽ mạnh hơn và đem lại giá trị sử dụng.
Tính hướng đích là một đặc điểm khác của Lý thuyết hệ thống. Theo đó, hệ thống
ln đặt ra mục tiêu và dựa trên các phản hồi của môi trường bên ngoài khi hoạt động để
nhằm đạt được mục đích. Các thành phần của hệ thống đều phụ thuộc vào nhau để hoạt
động và đạt được mục đích. Điều này gần như thể hiện rõ nhất bản chất của một hệ thống
11



khi các thành phần kết hợp và tương tác với nhau để hình thành nên một hệ thống hồn
chỉnh và thực hiện mục đích được đề ra.
Ví dụ, trong một dự án của một câu lạc bộ, các ban cần làm việc một cách độc lập
dựa trên nhiệm vụ của mình nhưng cũng cần dựa vào các hoạt động của ban khác để
nhằm tối ưu hóa cơng việc mà ban mình thực hiện. Cuối cùng, thành cơng hoặc mục đích
mà dự án của CLB hướng tới khi triển khai dự án chính là đích đến của hệ thống các ban
trong câu lạc bộ.
Hệ thống “tự tổ chức” là một đặc điểm thường xuất hiện ở hệ thống động và có
thể hiểu theo hai cách.
Đầu tiên, hệ thống “tự tổ chức” là một hệ thống với các thành phần riêng biệt ở
giai đoạn hình thành nhưng sau đó dần dần thay đổi để hướng đến việc hình thành các
mối liên kết. Ví dụ, các tế bào của phơi thai ban đầu khơng có sự liên kết cụ thể nào, tuy
nhiên, khi phôi thai dần phát triển, các tế bào dần dần thay đổi để nhằm tạo nên sự gắn
kết, giúp hình thành một phơi thai hồn chỉnh. Ở đây có thể hiểu là các thành phần của hệ
thống đã trở nên có tổ chức thay vì hoạt động riêng lẻ, vơ tổ chức.
Thứ hai, việc hệ thống có tính tự tổ chức có thể được hiểu là sự thay đổi từ một hệ
thống làm việc kém hiệu quả sang một hệ thống có quy củ, làm việc hiệu quả hơn. Theo
Ross Ashby, nhà tâm lý học người Anh, người đã đặt nền móng cho việc phát triển và
nghiên cứu Lý thuyết hệ thống, nếu như một hệ thống động hoạt động không hiệu quả
hoặc yếu kém và sự thay đổi cần thiết được đưa ra một cách tự động thì có thể gọi đó là
một hệ thống mang tính “tự tổ chức”. Tuy nhiên, Ashby cũng chú thích thêm rằng trong
ngữ cảnh mà ơng đề cập ở trên, khơng có bất cứ hệ thống máy móc nào có thể “tự tổ
chức”. Ví dụ, một người lần đầu lái xe sẽ có cảm giác khó điều khiển xe. Theo thời gian,
người đó làm quen dần với việc điều khiển và tiến bộ dần lên.
4. Phân loại
Dựa vào các tiêu chí, cơ sở khác nhau và tùy vào mục đích nghiên cứu, có nhiều
cách để phân loại hệ thống.
Thứ nhất, có thể phân loại thành hệ thống đóng và hệ thống mở. Đây là cách
12



phân loại hệ thống phổ biến và được ứng dụng trong nghiên cứu nhiều nhất. Hệ thống
đóng (closed system) là một hệ thống mà trong đó, các yếu tố tác động từ bên ngồi (chủ
yếu là mơi trường) khơng có ảnh hưởng đến cách vận hành hệ thống. Các hệ thống đóng
thường khơng có bất cứ input hay output nào, điều này đồng nghĩa với việc một hệ thống
đóng là một hệ thống có khả năng tự duy trì. Một ví dụ cho hệ thống đóng là trái đất. Mặc
dù trái đất có nhận năng lượng từ mặt trời, tuy nhiên, trái đất không thực sự phản hồi hay
sản sinh ra bất cứ output nào dựa trên những input từ mặt trời. Thực chất, hệ thống đóng
chỉ tồn tại trên lý thuyết, vì tất cả mọi hệ thống đều cần trải qua q trình tiếp nhận và giải
phóng thơng tin. Hệ thống mở (open system) là hình thức thường thấy nhất của các hệ
thống. Hệ thống mở cho phép quá trình tiếp nhận các yếu tố từ mơi trường xung quanh, từ
đó sản xuất và giải phóng các output ra mơi trường xung quanh. “Các hệ mở thường có
tính năng động và độ thích nghi cao vì đó là điều kiện cần thiết cho sự tồn tại và phát
triển của bản thân hệ mở đó”31. Con người chúng ta chính là một hệ thống mở. Bên trong
cơ thể con người, các cơ quan vẫn vận hành và phối hợp với nhau để duy trì sự sống.
Đồng thời, con người có sự trao đổi chất với mơi trường bên ngồi như các hoạt động ăn
uống, bài tiết,...
Thứ hai, dựa vào nguồn gốc hình thành, có thể phân loại thành hệ thống tự nhiên
và hệ thống nhân tạo. Hệ thống tự nhiên là hệ thống tự hình thành trong tự nhiên theo
thời gian qua q trình tiến hóa như hệ mặt trời, hệ sinh thái,... Hệ thống nhân tạo là hệ
thống do con người tạo ra như nhà máy, xí nghiệp, các loại máy móc,...
Thứ ba, dựa vào số lượng phần tử là vật thể, có thể phân loại thành hệ thống trừu
tượng và hệ thống cụ thể. Hệ thống cụ thể là hệ thống mà có “ít nhất hai trong các phần
tử là vật thể. Trong hệ thống cụ thể, việc xác lập sự tồn tại và đặc tính của các phần tử
cũng như bản chất của các mối quan hệ giữa chúng đòi hỏi những nghiên cứu đã qua thực
nghiệm”, ví dụ như quạt máy, máy tính xách tay,... Hệ thống trừu tượng là hệ thống mà
“toàn bộ phần tử của nó đều là những khái niệm. Trong một hệ thống trừu tượng, các
phần tử được tạo ra bằng việc định nghĩa và các mối quan hệ giữa chúng được tạo nên
nhờ các giả định (ví dụ như các sự thật hiển nhiên và nguyên lý cơ bản)”. Ngôn ngữ, các


31 Nguyễn Văn Huân, Vũ Xuân Nam và Nguyễn Thu Hằng (2012), Sách đã dẫn, tr. 16.
13


hệ thống triết học hay các cơng thức tốn học là các ví dụ cho hệ thống trừu tượng. 32
Thứ tư, có thể phân loại thành hệ thống tĩnh và hệ thống động. Hệ thống tĩnh là
“hệ thống mà không có sự kiện nào xảy ra với nó. Ví dụ như một các bàn có thể được trừu
tượng hóa như là một hệ thống tĩnh cụ thể bao gồm bốn chân, mặt bàn, ốc vít, hồ dán,...
và khơng biểu hiện bất cứ thay đổi nào về đặc điểm cấu trúc hay trạng thái. Một cái la bàn
cũng có thể được trừu tượng hóa như một hệ thống tĩnh bởi nó gần như luôn chỉ về cực
Bắc”. Ngược lại, hệ thống động bị tác động và “trạng thái của nó thay đổi theo thời
gian”33. Ví dụ, tàu hỏa là một hệ thống động mà có thể di chuyển ở những tốc độ khác
nhau, hoặc một động cơ cũng là một hệ thống động khi nó có thể ở trạng thái hoạt động
hoặc khơng.
Thứ năm, dựa vào tính chất của hành vi của hệ thống, có thể phân loại thành hệ
thống tất định và hệ thống xác suất. Hệ thống tất định là hệ thống mà “hành vi của nó
khơng biểu thị sự ngẫu nhiên. Trạng thái của hệ thống tất định và đầu ra của nó với mơi
trường có thể được dự báo một cách chắc chắn”. Ví dụ, một phân tử cacbon và một phân
tử oxi sẽ tạo ra khí cacbonic. Hệ thống xác suất là hệ thống mà “những hành vi của nó
biểu hiện sự ngẫu nhiên và chỉ có thể được dự đốn dựa theo xác suất”. Ví dụ của hệ
thống xác suất là các hệ thống như hệ thống thời tiết, vận chuyển thư từ,... 34
Thứ sáu, có thể phân loại thành hệ thống tự điều chỉnh và hệ thống không tự
điều chỉnh. Hệ thống tự điều chỉnh là hệ thống phản ứng lại các thay đổi của môi trường
theo chiều hướng cải thiện, giữ sự ổn định hoặc có thể phản tác động lại với mơi trường.
Ví dụ điển hình là con người, trước những hiện tượng như thiên tai, dịch bệnh sẽ có
những hành động, trạng thái để thích nghi như di cư, chủ động phịng tránh,... Hệ thống
khơng tự điều chỉnh là hệ thống mà khơng có phản ứng trước những sự thay đổi của mơi
trường, tiêu biểu là các loại máy móc như đồng hồ, tivi, xe cộ,.. Dù mơi trường thay đổi
thì các hệ thống này vẫn hoạt động như cũ và khơng có phản ứng lại một cách chủ động.

Ngồi các cách phân loại trên, có thể kể đến nhiều cách phân loại khác như hệ
thống lớn - hệ thống nhỏ, hệ thống phức tạp - hệ thống đơn giản, hệ thống tự tổ chức - hệ
32 Ackoff, R. L. (1971), Towards a System of Systems Concepts, Management Science 17, p. 662.
33 Ibid, p. 662-663.
34 John L. Dillon (1992), The Farm as a Purposeful System, The University of New England, p. 4.
14


thống không tự tổ chức, hệ thống điều khiển được - hệ thống khơng điều khiển được,...
dần được hình thành qua nhiều năm Lý thuyết hệ thống được đưa vào vận dụng.
5. Ý nghĩa thực tiễn
Khái niệm "hệ thống" đã xuất hiện, tồn tại và phổ biến từ rất lâu về trước. Ludwig
von Bertalanffy đã khẳng định rằng, "Khái niệm này đã lan tràn khắp tất cả các lĩnh vực
của khoa học và thấm nhuần vào tư duy phổ biến, biệt ngữ và truyền thông đại chúng. Tư
duy hệ thống đóng vai trị vượt trội trong hàng loạt các lĩnh vực từ doanh nghiệp công
nghiệp và lực lượng vũ trang đến những chủ đề bí truyền của khoa học thuần túy. Đã có
vơ số xuất bản phẩm, hội nghị, tiểu luận, khóa học xoay quanh khái niệm này. Nhiều
chuyên ngành và nghề nghiệp, không được biết đến trong một khoảng thời gian ngắn
trước đó, đã xuất hiện trong những năm gần đây với những cái tên như thiết kế hệ thống,
phân tích hệ thống, kỹ thuật hệ thống,...”35 Ngày nay, Lý thuyết hệ thống vẫn được áp
dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau như quản lý tổ chức, sinh học, tâm lý học,...
Trong quản lý tổ chức, Lý thuyết hệ thống có ý nghĩa rất lớn và trải rộng trên nhiều
lĩnh vực như kinh tế, giáo dục,.... Ở Việt Nam, năm 2014, PSG. TS. Trần Khánh Đức đã
cho ra đời cuốn sách “Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỉ XXI”. Đây là
một cơng trình nghiên cứu ấn tượng về mảng giáo dục, trong đó Lý thuyết hệ thống đã
được vận dụng nghiên cứu trong Chương 2 - Lý thuyết hệ thống và hệ thống giáo dục
hiện đại.
Trong sinh học, Lý thuyết hệ thống nằm ngay trong bản chất tồn tại của sinh vật
nên luôn được ứng dụng để làm tiền đề nghiên cứu. “Bất kì nghiên cứu nào về trao đổi
chất và sinh trưởng đều lưu tâm về việc các sinh vật sống cũng như những phần cấu thành

của chúng đều là những hệ thống mở, hay nói cách khác là những hệ thống duy trì sự trao
đổi vật chất liên tục với môi trường” 36. Năm 1957, nhà hóa sinh nổi tiếng người Mỹ
Melvin Calvin và cộng sự Bradley đã nghiên cứu về hệ thống mở của chu trình phản ứng
của quang hợp ở tảo.

35 Bertalanffy, L. von (1968), General system theory: Foundations, Development, Applications, New York:
George Braziller, p. 3.
36 Ibid, p. 156.

15


Nguồn ảnh: J.R.C. Piqueira - Researchgate
Trong tâm lý học, Lý thuyết hệ thống đã có những ảnh hưởng khá sâu sắc từ nhiều
năm về trước cho đến tận bây giờ khi tiến hành “nghiên cứu hành vi và trải nghiệm của
con người trong những hệ thống phức tạp” 37. Rất nhiều các nhà nghiên cứu áp dụng lý
thuyết này vào cơng trình nghiên cứu của mình, có thể kể đến Gordon W. Allport với
Personality as System xuất bản năm 196138.
Trên đây chỉ là vài trong rất nhiều những ứng dụng của Lý thuyết hệ thống vào
việc nghiên cứu khoa học và phục vụ cho đời sống con người. Lý thuyết hệ thống đang
ngày một trở nên phổ biến, gắn bó mật thiết với nhiều khía cạnh của cuộc sống, là tiền đề
quan trọng, vững chắc của nhiều thành tựu sáng giá và là cơ sở để tạo nên nhiều phương
thức mới, nhiều giá trị mới có ý nghĩa hơn nữa.
III. ỨNG DỤNG CỦA LÝ THUYẾT HỆ THỐNG TRONG BÁO CHÍ - TRUYỀN
THÔNG
Trong bài nghiên cứu “Ludwig von Bertalanffy (1901 - 1972): A Pioneer of
General Systems Theory”, nhà khoa học xã hội người Canada gốc Ba Lan Thaddeus
Eugene Weckowicz (1919 - 2000) đã nhận xét: “Những đóng góp của Ludwig von
37 Environment and Ecology, What is Systems Theory?, available at accessed 12/6/2021.
38 Bertalanffy, L. von (1968), Ibid, p. 205.


16


Bertalanffy đã vượt ra khỏi lĩnh vực sinh học, và mở rộng sang tâm lý học, tâm thần học,
xã hội học, điều khiển học, lịch sử và triết học. Một số người thậm chí cịn tin rằng lý
thuyết hệ thống tổng quát của L.V. Bertalanffy cung cấp một khung lý thuyết cho tất cả
các lĩnh vực này.”39 Đó là sự cơng nhận cho tính ứng dụng ưu việt của Lý thuyết hệ thống
trong nghiên cứu khoa học ở đa dạng các lĩnh vực. Tuy nhiên, có vẻ tác giả của bài viết đã
thiếu sót khi bỏ qua “báo chí - truyền thông” - một lĩnh vực đã và đang vận dụng hiệu quả
Lý thuyết hệ thống của L.V. Bertalanffy. Để chứng minh cho điều này, bài nghiên cứu sẽ
chỉ ra ứng dụng của Lý thuyết hệ thống trong (1) Hệ sinh thái phương tiện (Media
Ecology); (2) Phương pháp tiếp cận xã hội (Societal Approach) trong nghiên cứu báo chí
(Journalism Research) và (3) Vai trò của Lý thuyết hệ thống trong truyền thông trong
dịch bệnh Covid-19.
1. Ứng dụng của Lý thuyết hệ thống trong Hệ sinh thái phương tiện:
Thứ nhất, trong bài nghiên cứu “Marshall McLuhan's General System Thinking
and Media Ecology”, nhà vật lý, sinh thái học truyền thông Robert K. Logan chỉ ra rằng
Marshall McLuhan đã đưa ra các lý thuyết trong Hệ sinh thái phương tiện dựa trên Lý
thuyết hệ thống.
Khái niệm sinh thái phương tiện (còn được dịch là sinh thái truyền thông) được
nhà triết học Marshall McLuhan, một trong những nhân vật đặt nền móng cho Lý thuyết
truyền thông đưa ra vào năm 1962.40 Đây là một nhóm lý thuyết, một quan điểm lý thuyết,
hoặc một truyền thống trí thức phát triển từ nhiều mơn học 41, nghiên cứu về phương tiện,
công nghệ, truyền thông và cách chúng ảnh hưởng đến môi trường của con người thông
qua và trong giao tiếp.42 Sinh thái học trong ngữ cảnh này đề cập đến môi trường mà
phương tiện được sử dụng - chúng là gì và chúng ảnh hưởng đến xã hội như thế nào.
"Nếu trong sinh học, 'môi trường' là nơi nuôi cấy vi khuẩn phát triển (như trong đĩa
Petri), thì trong sinh thái phương tiện, mơi trường là nơi nền văn hóa (của con người)
39 Thaddus E. Weckowicz, “Ludwig von Bertalanffy (1901 - 1972): A Pioneer of General Systems Theory”. p. 5.

40 Gencarelli, T. F. (2006). Perspectives on culture, technology, and communication: The media ecology tradition”.
Gencarelli. p. 201–225.
41 Casey Man Kong Lum, Key concepts in Intercultural Dialogue. No.35, 2020, available at
accessed 16/6/2021.
42 West, Richard; Turner, Lynn H. (2014). Introducing Communication Theory, p. 454–472. ISBN 978-0-07353428-2.

17


phát triển".43 Nghĩa là, sinh thái học truyền thông nghiên cứu xem phương tiện truyền
thông ảnh hưởng đến nhận thức, sự hiểu biết, cảm giác và giá trị của con người như thế
nào; và cách thức tương tác của con người với phương tiện truyền thông tạo điều kiện
hoặc cản trở cơ hội tồn tại của chúng ta ra sao. Lấy từ “sinh thái học”, tác giả ngụ ý đây là
các nghiên cứu về “môi trường truyền thông”, bao gồm: cấu trúc, nội dung và tác động
của chúng lên con người44. Thực chất, “môi trường” ở đây là một hệ thống thông điệp
phức tạp “áp đặt” lên con người những cách suy nghĩ, cảm nhận và hành vi nhất định.
Ngoài Marshall McLuhan, Lý thuyết hệ sinh thái truyền thông được nghiên cứu và phát
triển bởi những tên tuổi lỗi lạc khác như Walter Ong, Lewis Mumford, Jacques Ellul,
Félix Guattari, Eric Havelock, Susanne Langer, Goffman, Edward T. Hall, George Herbert
Mead, Margaret Mead, Claude Lévi-Strauss, Benjamin Lee Whorf và Gregory Bateson,...
Vậy, Lý thuyết hệ thống của L.V. Bertalanffy đã ảnh hưởng đến cơng trình nghiên
cứu của Marshall McLuhan như thế nào?
Đầu tiên, theo Robert K. Logan, McLuhan đã tiếp cận các phương pháp nghiên
cứu hệ thống của Bertalanffy và ứng dụng chúng để đưa ra các lý thuyết về Hệ sinh thái
phương tiện45. Thật vậy, McLuhan từng viết: “Do đó, một châm ngôn đơn giản khi
nghiên cứu truyền thông là “mỗi sự thay đổi nhỏ trong từng phương tiện truyền thơng có
thể mang đến hàng loạt hệ quả mang tính cách mạng trong văn hóa và chính trị”, và bởi
vì sự phức tạp của rất nhiều “phần tử” tham gia vào quá trình này, nên dự đốn hay kiểm
sốt là điều khơng thể.”46 Có thể thấy, nghiên cứu truyền thơng là ngành nghiên cứu hệ
thống phức tạp. Hệ thống này có nhiều ‘bộ phận’ tham gia cấu thành và có các ‘thuộc

tính’ của cả hệ thống mà không bộ phận riêng lẻ nào sở hữu. Vì vậy, con người sẽ khơng
thể dự đốn được ‘thuộc tính’ của cả hệ thống ngay cả khi chúng ta đã nắm trong tay tất
cả ‘thuộc tính’ của từng bộ phận. 47 Đặc tính trên cũng chính là tính hợp trội được
Jamshid Gharajedaghi nhắc đến trong cuốn “Tư duy hệ thống quản lý hỗn độn và phức
hợp”, nó dẫn đến tính phi tuyến của hệ: có những hành vi khơng ổn định, khơng tiên đốn
43 Postman, N. (2006). Media Ecology Education. Explorations in Media Ecology, p. 5–14.
44 Postman, Neil. What is Media Ecology?, available at />url= accessed 15/6/2021.
45 Robert K. Logan. “Marshall McLuhan's General System Thinking and Media Ecology”
46 McLuhan, Marshall. 1955. "Communication and Communication Art: A Historical Approach
to the Media."
47 Robert K. Logan. “Marshall McLuhan's General System Thinking and Media Ecology”

18


được, có những biến động thất thường giữa trật tự và phi trật tự,... 48 Tóm lại, khi nghiên
cứu truyền thông, chúng ta cũng không thể nghiên cứu tách rời từng ‘bộ phận’ mà phải
xét trên tổng thể.
Bên cạnh đó, một nghiên cứu khác của mình vào năm 1964, McLuhan cho rằng
các phương tiện/thiết bị truyền thông và con người tạo nên một ‘hệ thống’ mà trong đó
các thiết bị/phương tiện vừa tác động lên người dùng, vừa bị người dùng tác động ngược
trở lại. Cụ thể, McLuhan viết: “Việc chúng ta sử dụng hay cảm nhận các thiết bị/phương
tiện dưới bất kỳ hình thức nào cho thấy con người đã nắm bắt được chúng. Tuy nhiên,
việc ‘nắm bắt một cách thường xuyên’, con người dần trở thành “cơ cấu servo” 49... Bằng
cách này, họ khơng khác gì những “cơ quan sinh dục” trong “thế giới máy móc”, giống
như những con ong trong thế giới thực vật, cho phép chúng (thiết bị/phương tiện truyền
thơng) sinh sơi và thậm chí tạo ra những cái mới” 50. Những mô tả của ông về sự tương
tác bên trong ‘hệ thống’ này cũng tương đồng với những tương tác nêu trong Lý thuyết hệ
thống của L.V. Bertalanffy51, cụ thể là ở tính tổng thể đã được nhóm nghiên cứu giải thích
ở trên. Sự tương tác bên trong hệ thống dẫn đến những thay đổi đặc tính của cả hệ thống

ban đầu.
Từ hai dẫn chứng trên, có thể kết luận McLuhan đã bị ảnh hưởng bởi Lý thuyết hệ
thống của Bertalanffy khi nghiên cứu về các lý thuyết trong hệ sinh thái truyền thơng. 52
Nói cách khác, Lý thuyết hệ thống của L.V. Bertalanffy đã góp phần hình thành nên Lý
thuyết hệ sinh thái truyền thông - những cơ sở nền tảng cực kỳ hữu ích trong việc nghiên
cứu truyền thông, đặc biệt là trong văn hóa giao tiếp và đối thoại liên văn hố. 53
2. Phương pháp tiếp cận xã hội trong nghiên cứu báo chí
Thứ hai, Lý thuyết hệ thống được ứng dụng mạnh mẽ trong nghiên cứu báo chí,
thể hiện qua những “tiếp cận hệ thống xã hội” (societal system approaches) được đề cập
48 Jamshid Gharajedaghi, Tư duy hệ thống: Quản lý hỗn độn và phức hợp (System thinking: Managing chaos and
complexity), NXB Khoa học Xã hội, 2003, Tr.112 - 115
49 Trong kỹ thuật điều khiển, cơ cấu servo (đôi khi được gọi tắt là servo) là một thiết bị tự động có sử dụng lỗi cảm
biến phản hồi âm để điều chỉnh hành động của một cơ cấu (theo Baldor Electric Company – Servo Control Facts,
truy cập ngày 15/6/2021)
50 McLuhan, Marshall. 1964. “Understanding Media: Extensions of Man”. New York: McGraw Hill
51 Robert K. Logan. “Marshall McLuhan's General System Thinking and Media Ecology”
52 Robert K. Logan. “Marshall McLuhan's General System Thinking and Media Ecology”
53 Casey Man Kong Lum, “Key concepts in Intercultural Dialogue”. No.35 2020, available at
< accessed 16/6/2021.

19


trong nghiên cứu “Journalism in a Globalizing World Society A Societal Approach to
Journalism Research” của nhà khoa học người Đức Manfred Rühl.
Ngày nay, việc nghiên cứu báo chí trong những mơ hình xã hội thuộc thế giới
phẳng khơng thể tránh khỏi những quan niệm vĩ mơ. Một trong số đó là các “tiếp cận hệ
thống xã hội”. Cách tiếp cận này giúp người nghiên cứu hiểu rõ hơn về chức năng của
báo chí trong xã hội và sự khác biệt của nó với các hình thức truyền thơng khác như tun
truyền, quan hệ cơng chúng, quảng cáo, giải trí,... Vậy, “tiếp cận hệ thống xã hội” trong

báo chí biểu hiện như thế nào? Các lý thuyết hệ thống xã hội chủ trương nghiên cứu báo
chí như một hệ thống trong xã hội, như các tổ chức mang tính quyết định và như các thị
trường hoạt động có mục tiêu; thay cho các phương pháp tiếp cận tập trung hoàn toàn vào
các nhà báo với tư cách là những cá nhân trước đó. Các lý thuyết hệ thống xã hội xem
người sản xuất báo chí (nhà báo, tịa soạn,...) và người đọc là những cấu trúc có vai trị
trong xã hội54. “Phương pháp tiếp cận tập trung hoàn toàn vào các nhà báo với tư cách
là những cá nhân” chính là phương pháp phân tích theo tư duy cơ giới. Tuy nhiên, như đã
đề cập ở trên, việc tìm ra quy luật tất định khi nghiên cứu mọi vấn đề là khá khiên cưỡng,
đặc biệt là các hệ thống phức tạp. Trong ví dụ về ứng dụng của Lý thuyết hệ thống trong
Hệ sinh thái phương tiện đã bàn ở trên, báo chí - truyền thơng cũng được xem là một hệ
thống mà trước hết các ‘hành vi’ và ‘thuộc tính’ của nó chỉ có thể biểu hiện trong tồn thể,
khơng thể biểu hiện qua những ‘bộ phận’ riêng lẻ. Do đó khơng thể dùng phương pháp
tiếp cận phân tích để nghiên cứu mà phải sử dụng phương pháp tiếp cận hệ thống xã hội.
Có thể thấy, tư duy nghiên cứu này chính là tư duy hệ thống, được truyền cảm
hứng bởi Lý thuyết hệ thống của L.V. Bertalanffy. Trong bài nghiên cứu của mình,
Manfred Rühl cũng nhận xét sự ra đời của Lý thuyết hệ thống của Bertalanffy và những
nhà khoa học cùng thời có ý nghĩa rất lớn đối với ngành báo chí - truyền thơng bởi đã
“kích thích sự nghiên cứu truyền thơng ở Đức thời điểm đó” 55 và khuyến khích các học
giả đào sâu để giải thích và giải quyết các vấn đề truyền thơng đương thời.
3. Vai trò của Lý thuyết hệ thống trong báo chí - truyền thơng trong đại dịch Covid-19
54 Rühl, Manfred (2008), Journalism in a globalizing world society. A societal approach to journalism research,
p.28.
55 Rühl, Manfred. "Journalism in a globalizing world society. A societal approach to journalism research." (2008)
p. 29-31.

20


Chưa dừng lại ở đó, vai trị của Lý thuyết hệ thống trong báo chí - truyền thơng
cịn được khẳng định mạnh mẽ trước sự xuất hiện và diễn biến phức tạp của dịch bệnh

Covid-19. Ngày 31/7/2021, trong nghiên cứu “Addressing COVID-19 Communication
and Management by a Systems Thinking Approach” nhóm 04 nhà nghiên cứu tại Đại học
Ca' Foscari Venice, Ý đã đưa ra mơ hình truyền thơng hệ thống stock - flow dựa trên các
nền tảng lý thuyết của Bertalanffy. 56 Mục đích của nghiên cứu là đưa ra những phương
pháp mới giúp các chính trị gia, nhà chức trách,... tìm ra giải pháp truyền thơng hợp lý
trong đại dịch.
Cụ thể, các nhà nghiên cứu đã đưa ra hai mô hình. Trong đó, mơ hình thứ nhất
được dùng trong quản lý và kiểm sốt dịch bệnh; mơ hình thứ hai - phiên bản đơn giản
hơn của mơ hình thứ nhất, được dùng để thơng cáo với báo chí - truyền thơng.

Mơ hình hệ thống stock - flow để quản lý kiểm soát dịch bệnh Covid-19
(Nguồn: />
56 Francesco Gonella, Marco Casazza, Silvio Cristiano and Alessandra Romano (2020) , “Addressing COVID-19
Communication and Management by a Systems Thinking Approach”, available at
accessed 16/6/2021.

21


×