Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Bài tiểu luận môn đại cương truyền thông đại chúng, học viện ngoại giao (12)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.68 KB, 17 trang )

HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
Khoa Truyền thơng và Văn hóa đối ngoại
---------------

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
MÔN: ĐẠI CƯƠNG TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Phan Văn Kiền
ĐỀ TÀI: LÝ THUYẾT QUYỀN LỰC, TRI THỨC (POWER/KNOWLEDGE)
- MICHEL FOUCAULT

NHÓM SINH VIÊN THỰC HIỆN:
1.

Phùng Diệu Hương TT47A1-0561

2.

Trần Bảo Hà TT47A1-0549

3.

Hoàng Thị Thanh Huyền TT47A1-0557

4.

Nguyễn Thị Tuyết Giang TT47A1-0546


Hà Nội, tháng 6 năm 2021
LỜI MỞ ĐẦU
Con người được xem là chủ thể của lịch sử và là mục tiêu phát triển của xã hội. Vì thế,


trong suốt thời gian của đời người, mỗi cá nhân đều gắn cuộc đời mình với những mối
tương quan: tương quan kinh tế, chính trị, tơn giáo, xã hội, gia đình và bạn bè. Trong
những mối tương quan tác động qua lại đó, chúng ta khó mà phủ nhận được sự chi phối
và ảnh hưởng của quyền lực và tri thức lên nó. Quyền lực và tri thức vốn dĩ không phải là
một khái niệm xa vời và mơ hồ, nó xuất hiện và gắn liền trong mọi sự việc và hành động
của cuộc sống. Thế nhưng, trong thực tế đời sống con người chúng ta thường có xu
hướng khơng để tâm, phớt lờ và khơng có ý thức tra vấn về chúng. Tri thức là sức mạnh,
là quyền lực và quyền lực bộc lộ quyền năng của mình bằng việc tác động đến tri thức.
Chúng ta phải thừa nhận rằng quyền lực tạo nên tri thức và mối quan hệ giữa chúng là
mối quan hệ tương hỗ. Quyền lực vơ hình xuất phát từ chính trị, văn hóa và những quan
hệ, tương tranh xã hội đã quy định vào những chân lý riêng dẫn đến sự bó buộc, hạn chế
trong nhận thức của con người. Trong lịch sử triết học, Michel Foucault được nhắc đến
như một cái tên sáng giá vì ơng đã tạo nên bước ngoặt liên quan tới quyền lực/tri thức và
trong hầu hết các triết tác của ông quyền lực/tri thức hiếm khi vắng bóng. Theo triết
thuyết của Michel Foucault, quyền lực/tri thức “vận hành chủ yếu thông qua ngơn ngữ”,
hay nói cách khác sức mạnh của ngơn ngữ đã được tận dụng triệt để để quyền lực/tri thức
hoàn thành sứ mạng của nó.1 Nhận thấy tầm quyền trọng của ngôn ngữ và thuyết quyền
lực/ tri thức tác động và chi phối cả bộ mặt xã hội loài người. Chính vì vậy, chúng em xin
chọn đề tài “Lý thuyết quyền lực - tri thức” và sau đó liên hệ tới vấn đề báo chí, truyền
thơng làm bài tiểu luận cuối kỳ cho học phần Đại cương truyền thông đại chúng.

1 Nguyễn Đình Minh Khuê, Nghiên cứu tiếp nhận văn học từ lý thuyết diễn ngôn của Michel Foucault và trường
hợp tiếp nhận-tái sáng tạo trong truyện cổ viết lại và Gót Thị Mầu, Đầu Châu Long, Đại học Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh, 2017, trang 22.


NỘI DUNG

I.


Lịch sử ra đời

1. Bối cảnh cá nhân
Michel Foucault (15/10/1926 - 25/6/1984) là triết gia, nhà lý luận xã hội, nhà ngữ
văn và nhà phê bình văn học người Pháp. Các học thuyết của ông đề cập tới mối quan hệ
giữa quyền lực và tri thức, và cách chúng được sử dụng như một hình thức kiểm sốt xã
hội qua các thể chế xã hội.
Về khía cạnh chính trị xã hội, Foucault hoạt động khá năng nổ. Ông từng tham gia
Đảng Cộng sản Pháp và các phong trào khác nhau. Bản thân Foucault từng hỗ trợ tích
cực việc thành lập một nhóm xã hội chuyên lo phục vụ và giúp đỡ tù nhân. Nhờ đó, ơng
có nhiều kinh nghiệm làm việc với các bệnh nhân tâm thần. Ngoài ra, ơng cịn nỗ lực bảo
vệ các nhóm người bị gạt ra bên lề xã hội. Sự năng động này đã tác động trực tiếp tới các
triết tác của Foucault. Ông viết nhiều về nhà tù, trường học, bệnh viện cũng như vấn đề
trừng phạt. Có vẻ như Foucault đứng về phía những người thấp cổ bé họng. Nhiều người
xem ơng như “một người hùng trong phong trào phản kháng tâm thần học (antipsychiatry), phong trào cải cách nhà tù, và tự do cho người đồng tính”.2
Về khía cạnh tâm thần và bệnh lý, cuộc đời Foucault có một lịch sử tương đối
phức tạp trắc trở. Khi còn học tại “trường chuẩn” (École normale), Foucault mắc phải căn
bệnh trầm cảm. Ông có khuynh hướng ham thích tình dục với nam giới, và gặp khó khăn
trong tương quan với bạn đồng trang lứa. Thậm chí, mức độ cịn tồi tệ hơn khi Foucault
từng đi đến ý định tự tử. Trước tình cảnh này, cha của Foucault phải đưa ông tới gặp bác
sĩ tâm thần. Có lẽ, chính ở chi tiết này mà người viết thấy được nơi con người Foucault
điều mà các nhà tâm lý học gọi là “tật bệnh sáng tạo” (creative illness). Tật bệnh sáng tạo
là ở chỗ, từ chính kinh nghiệm bệnh lý và kinh nghiệm gặp gỡ bác sĩ tâm thần của mình,
Foucault khám phá ra rằng, các nhà tâm thần học thời bấy giờ chẳng những không “chữa”

2 Garry Gutting, Foucault: A Very Short Introduction, 2.


được bệnh đồng tính luyến ái của ơng, nhưng cịn “lạm quyền” khi tự cho họ là người
quyết định điều gì được phép và khơng được phép trong xã hội. 3 Kinh nghiệm cụ thể này

đã kích thích sự sáng tạo trong nỗ lực suy tư về quyền lực của Foucault.
2. Bối cảnh xã hội
Foucault sinh ra và lớn lên trong bối cảnh nước Pháp đang đầy rối ren và nhiều biến
động. Một trong những sự kiện nổi bật là cuộc biểu tình của giới sinh viên diễn ra vào
tháng 5 năm 1968. Có nhiều điều để nói về sự kiện này, nhưng có lẽ động cơ của cuộc
biểu tình là quan trọng hơn cả vì nó ảnh hưởng tới tư tưởng quyền lực của Foucault. Giới
sinh viên Pháp nhận thấy tính lỗi thời nơi các quy định, các điều luật mà họ đang phải
chịu đựng. Chúng ngăn cản cuộc sống của họ, không cho họ cơ hội phát triển. Vì thế, họ
muốn phá bỏ các quy định “khơng hợp lý”. Chẳng hạn, sinh viên nổi dậy chống lại
chuyện nam nữ không được tự do luyến ái, hay chuyện sinh viên nữ không được tiếp sinh
viên nam trong chỗ ở của họ. Hoàn cảnh xã hội bất an đến độ chính Foucault cũng phải
thốt lên: “Cuộc sống riêng tư của chúng ta thực sự bị đe dọa”4. Sau này, trong quan niệm
quyền lực của mình, Foucault mạnh mẽ chống lại những điều “lỗi thời”.
3. Bối cảnh tư tưởng
Khi Foucault bắt đầu sự nghiệp triết học thì tư tưởng của Karl Marx (1818-1883) và
Friedrich Nietzsche (1844-1900) đã tạo được tiếng vang và tầm ảnh hưởng rộng khắp.
Sức bao phủ lớn đến độ chính Foucault thừa nhận: “Trước năm 1968, ít nhất là tại Pháp,
bạn phải là một triết gia Marxist” 5. Vì người ta quan tâm nhiều tới chủ nghĩa Marx nên
những cơng trình của Foucault trước năm 1968 khơng tạo được tiếng vang đối với độc
giả. Ngồi cái bóng to lù của chủ nghĩa Marx, người ta cũng đặc biệt quan tâm tới
Nietzsche với những câu nói nổi tiếng như “Thượng Đế đã chết!” 6 hay là: “Thù địch của
tôi là ai? Đó là bọn người muốn bỏ bê tất cả mọi sự và không muốn tự kiến tạo lấy

3 Lydia Alix Fillingham – Moshe Susser, Nhập môn Foucault, 22.
4 Paul Rabinow ed., The Essential Works of Michel Foucault 1954-1984 (New York: The New Press, 1994), 126.
5 Paul Rabinow ed., The Essential Works of Michel Foucault 1954-1984, 125.
6 Friedrich Nietzsche, The Gay Science, Kaufmann trans (New York: Vintage Books, 1974), 181.


mình.”7 Đứng trước những cái bóng to lớn tựa như “tín điều” như vậy, Foucault đã khơng

“bám chặt vào các tín điều ấy.” 8 Trái lại, ơng cho rằng những người theo chủ nghĩa Marx
dường như đã “hài lòng với chính mình” 9, nhất là cách hiểu của họ liên quan tới vấn đề
quyền lực. Đó chính là những mơi trường tư tưởng vốn phần nào “hun đúc” nên quan
niệm quyền lực của Foucault.
4. Bối cảnh ra đời của Lý thuyết quyền lực và tri thức
Foucault cho rằng chủ thể là một trong những nhân tố quan trọng trong cấu trúc của các
mối quan hệ quyền lực, cái mà cũng xuất hiện trong lĩnh vực chính trị. Ơng có niềm u
thích mãnh liệt và nhất qn trong việc tìm hiểu những chủ thể đó và các thể chế xã hội
đều thâm nhập vào các mối quan hệ chính trị. Sự hiểu biết của Foucault trong mối quan
hệ giữa tri thức và quyền lực chủ yếu dựa vào ý nghĩ trên. Xét theo quan niệm truyền
thống Foucault cho rằng quyền lực là tiêu cực. Thứ quyền lực ấy sẽ chia thế giới thành
hai với chủ thể khác nhau trong từng thế giới: thế giới của kẻ chủ lực và thế giới của
người thụ lực. Kẻ chủ lực sẽ nắm quyền lực, ban bố lề luật và sai khiến, ép buộc người
khác làm theo ý mình. Ngược lại, người thụ lực câm nín và phục tùng các mệnh lệnh
được ban xuống. Sau khi xét duyệt lại quan niệm truyền thống về quyền lực, Foucault
nhận thấy cách hiểu đó giờ đây khơng cịn phù hợp nữa. Theo ông, quyền lực là một
quyền cụ thể mà bất kỳ người nào cũng có thể nắm giữ, và họ cũng có thể từ bỏ, một
phần hay tồn bộ10.Do đó, điều cần làm là phải rời xa quan niệm truyền thống lỗi thời đó,
tức là rời xa thứ quyền lực được đánh đồng với vương quyền và pháp quyền.
Khi mơ tả lại tồn bộ diễn trình lịch sử cận đại các quốc gia Phương Tây thông qua ba tri
thức (tri thức hệ Phục Hưng, hệ cổ điển và hệ hiện đại) mà mỗi hệ đều gắn liền với kiểu
quyền lực riêng và quy định những chân lý riêng phù hợp. Theo ý kiến của M. Foucault,
tất cả những tri thức được xem là chân lý mà chúng ta lĩnh hội được đều chỉ là sản phẩm

7 Friedrich Nietzsche, La volonté de puissance (Cited in Trần Thái Đỉnh, Triết Học Hiện Sinh (Hồ Chí Minh: NXB
Văn Hóa, 2005), 135.)

8 Paul Rabinow ed, The Essential Works of Michel Foucault 1954-1984, 125.
9 Michel Foucault, Power/Knowledge: Selected Interviews & other Writings 1972-1977, Colin Gordon ed
(NewYork: Pantheon Books, 1980), 116.


10 Michel Foucault, Society Must Be Defended: Lectures at the Collège de France 1975-1976, David Macey trans
(NewYork: Picador, 1997), 13.


của sự định đặt, áp chế từ một phía quyền lực tối thượng chứ chưa hẳn bản chất của nó
phản ánh được đúng, chính xác những hiện tượng, quy luật của thế giới khách quan.
Quyền lực đã quyết định và chi phối bộ mặt tri thức mà cả xã hội tiếp nhận. Từ những
hiểu biết đó của mình, M. Foucault đã nỗ lực cách tân và xây dựng quan niệm mới về
quyền lực, phá đổ quan niệm truyền thống về quyền lực. Để từ đó, gián tiếp thay đổi, làm
mới tri thức để tri thức ngày càng hiện đại, tiến bộ.

II.

Nội dung, đặc điểm chính

1. Giải thích thuật ngữ
Quan điểm truyền thống về quyền lực
“Quyền lực” lần đầu được Michel Foucault đề cập một cách chính thức trong hai tác
phẩm Discipline and Punish – the Birth of the Prison (Kỷ luật và hình phạt: Sự ra đời của
nhà tù) và “The History of Sexuality: Part 1” (Lịch sử tính dục: tập 1).
Quyền lực không phải là một khái niệm đơn nghĩa, vì vậy khơng phải ai cũng chấp nhận
một định nghĩa duy nhất nào đó về khái niệm này bởi lẽ ai cũng có chính kiến riêng của
mình. Nhưng chung quy lại, hầu hết các quan niệm truyền thống về quyền lực thường
được hiểu theo cơ chế “top – down”, nghĩa là quyền lực chỉ đi theo một chiều, kẻ mạnh
nhất sở hữu rồi mới đến những kẻ yếu thế hơn. Các nhà lý thuyết chính trị ln hình dung
về quyền lực như một thứ ổn định, vững chãi được sở hữu bởi một người hay một nhóm
người để đạt tới mục đích nhất định11.
Vậy Michel Foucault hiểu như thế nào về quan niệm này? Trong tư tưởng của mình, ông
cho rằng quan niệm truyền thống về quyền lực là quan niệm đánh đồng quyền lực với

quyền tối thượng của nhà vua (Vương quyền) và luật pháp (Pháp quyền). “Vương
quyền” là một cách nói để ám chỉ quyền lực của người cai trị (nhà vua) mà Foucault cho
rằng có đặc điểm là những tương quan tiêu cực (negative relations). Trong Discipline

11 (PDF) Bàn về khái niệm quyền lực, truy cập link ngày 04/06/2021:
/>

and Punish, những tương quan tiêu cực của Vương quyền đã được thể hiện qua cách mà
nhà Vua hành hình Damiens- kẻ bị kết tội uy hiếp nhà vua, một cách đầy man rợ: Hắn bị
dựng đứng trên một giàn giáo, trên người chỉ có một tấm áo. Tên đao phủ dùng những
gọng kìm nóng đỏ rọc phần thịt ở ngực, cánh tay, bắp chân và đùi của tên tù nhân. Ở
những phần thịt bị xé ra tiếp tục bị giày xéo bằng hỗn hợp chì nóng chảy, dầu sơi, nhựa
cháy, sắp và lưu huỳnh. Sau đó, cơ thể của ông bị phanh thây bởi ngựa “việc phanh thây
diễn ra khá lâu, những con ngựa không quen cách kéo nên thay vì bốn con ngựa thì họ đã
tăng lên sáu và buộc phải cắt đứt các đường gân và đục các đốt xương để dễ dàng hơn
cho những con ngựa”12. Cuối cùng cơ thể của kẻ phạm tội bị lửa thiêu rụi thành tro và tro
của hắn bị ném theo gió. Như vậy quyền lực ở đây chính là thứ vũ khí mà Vua dùng để có
thể kìm hãm được nhân dân của mình, biến họ thành thứ tài sản mà Vua có thể tự do làm
những gì mình muốn thậm chí có thể thủ tiêu bất cứ ai kháng lệnh. “Pháp quyền” đối
với Foucault cũng mang tính tiêu cực bởi vì nó là “cơng cụ của quyền lực”. Những
người đứng đầu, cai trị thường dùng pháp quyền để đặt ra lề luật gây ảnh hưởng đến suy
nghĩ, hành động của người khác bằng cách nêu rõ rằng một số hành vi được chấp nhận và
các hành vi khác sẽ bị trừng phạt. Michel Foucault đã đưa ra ba hình tượng điển hình:
Vua là người cai trị và tạo ra luật lệ cho dân, người cha trong gia đình là người cấm đoán,
và thầy giáo là người ép buộc sự im lặng13. Chung quy lại, quyền lực truyền thống đối với
Foucault dù mang hình thức vương quyền hay pháp quyền thì đều có những đặc điểm
tương quan tiêu cực.Trong tồn bộ những suy tư triết học của mình, Foucault nhiều lần
khẳng định: phải khước từ một mơ hình quyền lực mang tính phổ qt chung cho tồn bộ
các xã hội và các thời kỳ lịch sử14.
Quan niệm mới về quyền lực của Michel Foucault

Foucault quyết tâm phá đổ quan niệm truyền thống về quyền lực bởi ông nhận thấy cách
hiểu đó trong thời hiện đại đã khơng cịn phù hợp. Tuy nhiên, Foucault lại không hề đưa
ra một định nghĩa riêng nào về quyền lực bởi theo ông, câu hỏi lý thuyết “Quyền lực là
gì?” sẽ khơng thể bao qt được tồn bộ những quan điểm của ơng. Một khi muốn xây

12 Michel Foucault, DISCIPLINE AND PUNISH - The Birth of the Prison, 3.
13 Bond University, Law and Power: Ten Lessons From Foucault, 39
14 Hiểu truyền thông, Dẫn nhập lý thuyết diễn ngôn của Michel Foucault và nghiên cứu văn học, mục 2


dựng một lý thuyết về quyền lực, cũng giống các nhà triết học gia khác, đều phải dùng
phương pháp lịch sử để truy tìm nguồn gốc rồi tái hiện lại sự xuất hiện của quyền lực và
quá trình hình thành của nó – đây khơng phải là điều mà Foucault mong muốn. Do đó,
thay vì phải tìm kiếm một lý thuyết cho quyền lực thì ơng lại tiến hành giải nghĩa và
“phân tích” quyền lực.
Trước khi bước vào phân tích, Foucault lưu ý về ba điểm không nên hiểu lầm khi ông sử
dụng từ ngữ quyền lực. Thứ nhất, ông khơng có ý nói tới một thứ “QUYỀN LỰC - viết
hoa”. Thơng thường, khi nói tới quyền lực, người ta hay nghĩ tới cấu trúc chính trị, chính
phủ, giai cấp thống trị hoặc là ông chủ. Tuy nhiên, Foucault không muốn ám chỉ tới
những điều đó. Thứ hai, đối với ông lề luật là sự ép buộc mọi người cùng làm theo một
chuẩn mực và lề luật không phải quyền lực. Thứ ba, Foucault khơng có ý nói tới “một hệ
thống đàn áp chung được áp dụng bởi nhóm này lên nhóm khác, một hệ thống mà hệ quả
của nó tràn lan trong toàn xã hội”15.
Sau khi loại bỏ những quan niệm sai lầm, Foucault đi vào phân tích đặc điểm của quyền
lực. Theo ông “Quyền lực hiện diện khắp nơi, khơng phải vì nó bao trùm tất cả mà vì nó
đến từ mọi ngóc ngách của đời sống xã hội”16. Nghĩa là quyền lực không phải của riêng ai
và cũng khơng có một chủ thể nào có thể áp đặt quyền lực lên tất cả mọi người. Mà thay
vào đó, Foucault cho rằng quyền lực là một hệ thống, là cả một mạng lưới khổng lồ bao
quanh toàn xã hội. Trong một cuộc phỏng vấn ơng đã nói: “Ý của tôi là trong các tương
quan của con người, cho dù các tương quan đó bao gồm sự giao tiếp bằng lời nói như

chúng ta đang tham gia ngay lúc này, hay những tương quan kinh tế, thể chế, tình u, thì
quyền lực ln có mặt”. Theo cách hiểu của Foucault, giữa những người yêu nhau, giữa
bạn bè đồng trang lứa…vẫn có thể xuất hiện tương quan quyền lực. Đây quả là một điều
mới mẻ! Sự năng động của quyền lực được thể hiện và được mở rộng trong “thân thể xã

15 Francis Xavier Phạm Quang Khanh, S.J, Tìm Hiểu Vấn Đề Quyền Lực (Pouvoir) Trong Tư Tưởng Của Michel
Foucault – phân tích quyền lực, truy cập link: />
16 Lê Minh Tiến, Bàn về khái niệm quyền lực, truy cập link:
/>

hội” (social body). Quyền lực như một ma trận có thể xuất hiện trong mọi mối tương
quan xã hội17.
Quan niệm về tri thức của Foucault
Khi triển khai các phân tích của mình về lý thuyết quyền lực/ tri thức, khái niệm Tri thức
(Knowledge) thường xuất hiện qua một cách diễn đạt thay thế khác: ‘discourse of truth’
hoặc ‘true discourse’ (diễn ngôn về chân lý), hoặc ngắn gọn hơn: truth (trong trường hợp
này Foucault sẽ nói đến mối quan hệ giữa chân lý (truth)/ trí thức và quyền lực). Theo
Foucault, tri thức/sự thật chính là một phần của thế giới, được tạo ra bởi nhiều hình thức
ràng buộc18. Mỗi xã hội đều sẽ có một thứ chân lý riêng và các cơ chế riêng để cho ta
phân biệt đúng- sai, phân biệt đâu là sự thật. Tất cả những tri thức mà chúng ta lĩnh hội
đều là những sản phẩm của sự định đặt, áp chế từ phía quyền lực tối thượng chứ chưa hẳn
phản ánh khách quan, chính xác được những hiện tượng hay quy luật của thế giới. 19

2. Nội dung lý thuyết
Mối liên hệ giữa quyền lực và tri thức (Power/ Knowledge)
Mối quan hệ giữa quyền lực và tri thức được thể hiện ngay từ hình thức với dấu (/). Việc
sử dụng dấu (/) ở giữa hai khái niệm quyền lực và tri thức là bởi, trong triết luận của
Foucault, tri thức là sức mạnh, là quyền lực và quyền lực bộc lộ quyền năng tối hậu của
nó bằng việc tác động đến tri thức và các hệ hình tri thức. Nói cách khác, giữa quyền lực
và tri thức có mối quan hệ hỗ trợ, biện chứng qua lại với nhau, bao chứa nhau và tác động

trực tiếp lẫn nhau. Hai yếu tố này phải luôn đi liền với nhau: “Quyền lực được thực hành

17 Francis Xavier Phạm Quang Khanh, S.J, Tìm Hiểu Vấn Đề Quyền Lực (Pouvoir) Trong Tư Tưởng Của Michel
Foucault – Phân tích quyền lực, truy cập link: />
18 Trần Văn Toàn, Dẫn nhập lý thuyết diễn ngôn của M. Foucault và nghiên cứu văn học, truy cập link:
/>%20ngon.pdf.

19 ĐHKHXHNV HCM- Nghiên cứu tiếp nhận văn học từ lý thuyết diễn ngôn của Michel Foucault, truy cập link:
/>fbclid=IwAR3_J32jqLjsmfdFPxdnSAE9InrCf1kdZj7EuNUCGFcj23jsmzR8Tt76kaY


mà khơng có tri thức là điều khơng thể, và cũng không thể là tri thức mà không sinh ra
quyền lực”.20
Mối quan hệ biện chứng giữa quyền lực và tri thức mang lại cả những hệ quả tích cực
lẫn tiêu cực.
Về căn bản, quyền lực và tri thức phụ thuộc lẫn nhau, nên sự mở rộng của cái này cũng
đồng thời là sự mở rộng của cái kia. Có tri thức ắt có quyền lực, sức mạnh. “Tri thức là
sức mạnh” – tư tưởng chủ đạo của triết học F.Bacon, cũng là tun ngơn của thời đại
mới.21 Có thể tạm hình dung sự kết hợp giữa quyền lực và trí thức theo nguyên lý âmdương. Trung tâm trí tuệ mang đặc tính âm, ln có tiềm năng kết hợp một cách hài hồ
với trung tâm quyền lực mang đặc tính dương. Trong một cộng đồng cụ thể, khi có sự kết
hợp hài hoà giữa hai trung tâm quyền lực và trí tuệ thì sẽ tạo nên một sức mạnh cực kỳ to
lớn thúc đẩy sự phát triển của cả cộng đồng. Ở tầm mức cao nhất, tri thức là phần âm,
giúp bổ khuyết những phần còn thiếu của quyền lực để tạo ra sự hài hòa âm dương của sự
phát triển. Vì vậy, quyền lực, với tư cách một vương quyền hay một thể chế, phải coi trí
thức như là nỗi khao khát tìm kiếm suốt đời của mình. Thiếu sự hỗ trợ của tri thức, quyền
lực có thể bị tha hóa, đối với bất cứ cá nhân, tổ chức nào mà sự kết hợp giữa trí tuệ và
quyền lực khơng hài hồ thì đều tất yếu dẫn đến sự tan rã, suy kiệt và sụp đổ.22
Trong tác phẩm Surveiller et punir: Naissance de la prison (Kỷ luật và hình phạt: Sự ra
đời của nhà tù), Foucault đã vạch ra ba hình thức trừng phạt tồn tại trong lịch sử: hình
phạt tra tấn, cải cách nhân đạo và giam giữ hình sự. Trong quá trình thực hành tra tấn

hình sự, quyền lực sẽ được thể hiện rõ ràng trên cơ thể phạm nhân. Mặt khác, việc giam
giữ hình sự tước đi quyền tự do của con người trong một khoảng thời gian cũng như tạo
thành một bộ máy biến đổi các cá nhân để họ trở nên ngoan ngoãn và bị kiềm chế. Điều

20 Michel Foucault, Power/Knowledge:selected interviews & other writings 1972-1977, 52, truy cập link:
/>
21 Michel Foucault: Hậu hiện đại là mối quan hệ Tri thức-Quyền lực, truy cập đường link:
ngày truy
cập: 6/6/2021.

22 Quyền lực phải song hành hài hòa với tri thức, truy cập đường link: ngày truy cập 6/6/2021.


này cuối cùng biến các cơ thể, cá nhân bị khuất phục thành đối tượng của tri thức. Từ đó,
nhà tù trở thành nơi thu nhận và sử dụng kiến thức để cố gắng cải tạo phạm nhân. 23 Và
theo Foucault, tất cả các không gian xã hội như nhà tù, trường học, trại lính… đều là
những thiết chế quyền lực đã chủ ý đặt ra vô số những quy định thưởng-phạt và tiêm
nhiễm vào tiềm thức, vô thức của binh sĩ, tù nhân, sinh viên… ý thức nội tại phải phục
tùng, phải chịu sự kìm hãm khe khắt ấy như một điều hiển nhiên, không cần bàn cãi. 24
Trong tác phẩm, Folie et déraison: Histoire de la folie à l'âge Classique (Chứng điên và
văn minh: Lịch sử chứng điên thời Trung Cổ), Foucault cho rằng “Chứng Điên” ở đây
được nhìn nhận như là một “cái khác”, một hiện tượng khi mà một cá nhân thoát ly khỏi
các quy chuẩn đã được gán mác là “bình thường” bởi một thứ quyền lực vơ hình xuất
phát từ chính trị, văn hóa và những quan hệ trong xã hội. 25 Như thế, có thể nói, bệnh điên
là một kiến tạo của xã hội hơn là một tồn tại trong thực tế. 26 Hay trong ba tập thuộc bộ
Histoire de la sexualité (Lịch sử tính dục), M.Foucault cho rằng, tính dục từ chỗ một hiện
tượng mang tính bản thể đã trở nên một cấm kỵ suốt hàng nghìn năm dưới bàn tay quyền
lực. Tri thức đơn nhất về tình dục mà con người trong suốt những thế kỷ vừa qua được
tiếp nhận chính là: tình dục là một thứ nhơ bẩn, sai trái, phải giấu giếm đi… Đồng thời,
ơng cịn đề cập đến việc quyền lực đã tác động ra sao đến tâm lý của chủ thể tình dục

cũng như những kiểu quan hệ phi dị tính (như đồng tính, song tính…) trong hàng ngàn
năm qua.27 Cụ thể, trong sự hình thành diễn ngơn tính dục, quyền lực là một hiện tượng
có tính chất vô danh (anonymous), đến từ mọi thiết chế trong xã hội: gia đình, trường

23 Monami, Power: Knowledge Equations in Michel Foucault, truy cập đường link:
ngày truy cập: 5/6/2021.

24 Nguyễn Đình Minh Khuê, Nghiên cứu tiếp nhận văn học từ lý thuyết diễn ngôn của Michel Foucault và trường
hợp tiếp nhận-tái sáng tạo trong truyện cổ viết lại và Gót Thị Mầu, Đầu Châu Long, Đại học Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh, 2017.

25 Nguyễn Đình Minh Kh, Nghiên cứu tiếp nhận văn học từ lý thuyết diễn ngôn của Michel Foucault và trường
hợp tiếp nhận-tái sáng tạo trong truyện cổ viết lại và Gót Thị Mầu, Đầu Châu Long, Đại học Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh, 2017.

26

TS. Trần Văn Toàn, Khoa Ngữ văn ĐH Sư phạm Hà Nội, Dẫn nhập lý thuyết diễn ngôn của Michel Foucault và
nghiên cứu văn học, truy cập đường link: ngày truy cập 6/6/2021.

27 Nguyễn Đình Minh Khuê, Nghiên cứu tiếp nhận văn học từ lý thuyết diễn ngôn của Michel Foucault và trường
hợp tiếp nhận-tái sáng tạo trong truyện cổ viết lại và Gót Thị Mầu, Đầu Châu Long, Đại học Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh, 2017.


học, bệnh viện, tòa án…, gắn liền với mỗi cá nhân trong vai trò của cha – mẹ, thầy giáo,
bác sĩ…
Như vậy, theo ý kiến của M.Foucault, tất cả những tri thức được xem là chân lý mà chúng
ta lĩnh hội được đều là sản phẩm của sự định đoạt, áp chế từ phía một quyền lực tối
thượng chứ chưa hẳn phản ánh được chân thực những hiện thực, quy luật của thế giới

khách quan; trong khi đó, hằng ngày chúng ta vẫn đang ngây thơ, tuyệt đối tin vào những
sở học có được từ giáo dục, lịch sử, sách vở… mà khơng hề hồi nghi hay ít nhất là có ý
thức tra vấn về chúng28. Trong trường hợp này, phải chăng, quyền lực đang kìm hãm, hạn
chế sự phát triển của tri thức? Điều này khơng hồn tồn đúng bởi những thể chế này góp
phần tạo ra những cơng dân ngoan ngoãn, tuân thủ các chuẩn mực xã hội, không chỉ đơn
giản là bị trừng phạt về thể xác, mà là kết quả của hành vi của họ liên tục được “điêu
khắc” để đảm bảo họ hoàn toàn nội tâm hóa các niềm tin và giá trị thống trị. 29
LIÊN HỆ TỚI VẤN ĐỀ BÁO CHÍ, TRUYỀN THƠNG

1. Báo chí đã có tầm ảnh hưởng như thế nào tới quyền lực và nhận thức của con
người, xã hội?
Báo chí, truyền thơng là một thứ “quyền lực” rất lớn, có ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực
trong đời sống xã hội. Thơng qua sự truyền đạt tri thức, nó tác động đến nhận thức, hành
động, cách ứng xử của con người, dần dần có thể định hình nên chuẩn mực xã hội. Tuy
nhiên mọi thứ ln có tính hai mặt, trong đó báo chí, truyền thơng vừa mang tới những
ảnh hưởng tích cực đồng thời vẫn cịn nhiều hạn chế cần được khắc phục.

a. Những tác động tích cực:
Thứ nhất, báo chí, truyền thơng với chức năng tư tưởng và định hướng dư luận đã tạo ra
những khuôn khổ bắt buộc đối với việc nhận thức, từ đó tạo ra một sức mạnh vơ hình đặt

28 Nguyễn Đình MInh Kh, Nghiên cứu tiếp nhận văn học từ lý thuyết diễn ngôn của Michel Foucault và trường
hợp tiếp nhận-tái sáng tạo trong truyện cổ viết lại và Gót Thị Mầu, Đầu Châu Long, Đại học Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh, 2017.

29 Explainer: the ideas of Foucault, truy cập đường link: ngày truy cập: 6/6/2021.


ra yêu cầu và giới hạn với những gì con người có thể làm. Chẳng hạn, báo chí, truyền
thơng sẽ truyền đạt lại các thông tin của các cơ quan nhà nước như: luật pháp, chính sách,

quy định… đến người dân, từ đó thuyết phục cơng chúng thay đổi nhận thức để hành xử
đúng quy định, pháp luật hoặc chính báo chí cũng chính là phương tiện có thể chuyển tải
những thông tin phản hồi từ xã hội đến cơ quan nhà nước để có thể ban hành và điều
hành chính sách phù hợp hơn. Một ví dụ khác về cơng tác tư tưởng của báo chí như sau:
Trong cơng tác phịng, chống dịch Covid-19 hiện nay, báo chí đã thể hiện rất rõ nét vai
trò định hướng dư luận của mình, góp phần quan trọng cùng tồn Đảng, tồn dân và cả hệ
thống chính trị ngăn chặn và đẩy lùi dịch Covid-19. Chưa bao giờ các lực lượng truyền
thông chung sức, đồng lòng, tham gia đồng bộ, vào cuộc quyết liệt như lần này (trên cả
các báo chính thống, các nhà mạng, các mạng xã hội...). Với tinh thần công khai, minh
bạch, tất cả các thông tin chỉ đạo điều hành, khuyến cáo phịng chống, diễn biến tình hình
dịch bệnh… đều nhanh chóng truyền tải đến với cơng chúng, để nâng cao nhận thức
người dân trong việc phòng chống dịch bệnh.
Thứ hai, báo chí, truyền thơng cịn được xem là một kênh để công chúng thực hiện giám
sát và phản biện xã hội nhờ quyền tự do tìm kiếm thông tin và khả năng phản ánh hiện
thực đời sống. Với chức năng này, truyền thông, mà cụ thể là báo chí, sẽ tiến hành theo
dõi mọi lúc mọi nơi, phát hiện, phản ánh trung thực và cảnh báo, thậm chí là lên án
những sai lầm trong các hành vi vượt quá giới hạn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân…
Trên thực tế, điều này hết sức cần thiết, bởi lịch sử vấn đề tổ chức, quản lý xã hội của loài
người cho thấy ở bất kỳ quốc gia nào mà quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước khơng
được kiểm sốt chặt chẽ có thể xuất hiện xu hướng lạm dụng quyền lực; và khi quyền lực
bị lạm dụng sẽ dẫn đến hệ lụy nguy hiểm như tha hóa quyền lực, tác động tiêu cực, thậm
chí cản trở, phá hoại sự phát triển quốc gia. Và lúc này, báo chí sẽ phát huy sứ mệnh giám
sát và phản biện của mình. Khi mà con người ta bị theo dõi, kiểm sốt bởi dư luận thì khả
năng thực hiện những hành động trái đạo lý, trái pháp luật sẽ giảm đi đáng kể. Ngồi việc
bài trừ cái xấu thì bên cạnh đó, truyền thơng cịn giúp lan tỏa cái đẹp. Ví dụ như nhờ có
truyền thơng, báo chí, con người có thể cập nhật cũng như tạo ra những xu hướng mới về
văn hóa, nghệ thuật, lối sống… khiến cho đời sống xã hội thêm phong phú, đa dạng.


b. Những mặt hạn chế:

Tuy nhiên, quyền lực của truyền thông như một con dao hai lưỡi vừa đem lại những điểm
tích cực vừa có những mặt hạn chế riêng.
Đầu tiên, truyền thơng nói chung đặc biệt là các phương tiện truyền thơng nói riêng có
một quyền truy cập đặc biệt vào suy nghĩ và tâm trí của cơng chúng nhưng khơng bao
hàm sự kiểm sốt. Các phương tiện truyền thơng có khả năng tạo ra và định hình kiến
thức cho xã hội, cung cấp cho công chúng những thông tin đã được kiểm chứng, những
góc nhìn cụ thể và những thơng điệp truyền thơng. Tuy nhiên sau q trình tiếp nhận
thơng tin, cơng chúng có quyền tự do trong việc suy đốn, xem xét các thơng điệp truyền
thơng mà khơng hề có bất kì sự ràng buộc nào, hay nói cách khác cơng chúng có thể
khơng thay đổi suy nghĩ của mình theo ý muốn của những nhà truyền thơng. Họ có quyền
được từ chối, khơng tin tưởng, phản kháng thậm chí có thể chỉ trích và thách thức lại các
nhà truyền thơng. Nói như vậy có nghĩa là, “quyền truy cập đặc biệt” khơng thể kiểm sốt
được tâm trí của người tiếp nhận theo ý muốn của nhà truyền thơng mà nó chỉ đơn giản là
thâm nhập và tạo sự ảnh hưởng cho một vấn đề nhất định trong tiềm thức của cơng
chúng.
Tiếp theo, truyền thơng cịn bị các nhà cầm quyền điều khiển và lợi dụng, đặc biệt là
trong lĩnh vực chính trị. Từ trước đến nay, truyền thông đại chúng, biểu hiện tập trung
nhất ở báo chí, thường được xem là tự do, khách quan tuyệt đối, phi chính trị và đứng
ngồi cuộc đấu tranh tư tưởng. Tuy nhiên, lĩnh vực này xuất hiện một biến thể có tên
“ngụy tun truyền” ở báo chí phương Tây, có nghĩa là tuyên truyền những luận điệu giả
dối, lừa phỉnh, “có tổ chức” để phục vụ cho các mưu đồ, thủ đoạn chính trị của các thiết
chế quyền lực. Theo giáo sư Noam Chomsky, người được xem là “ nhà tri thức đang còn
sống” của Mỹ, cho biết: ngay từ Chiến tranh thế giới thứ nhất, nước Anh đã tổ chức cơ
quan cấp bộ đầu tiên điều phối công việc tun truyền là Bộ Thơng tin; tiếp đó, cơ quan
tuyên truyền đầu tiên của Chính phủ Mỹ là Ủy ban Thông tin công cộng cũng được thành
lập... Nhiều cơ quan kiểu này có nhiệm vụ “kiểm sốt đầu óc của dân chúng”, lừa phỉnh
công luận để “chế tạo ra tâm trạng đồng tình” và sẵn sàng bán rẻ, chà đạp lên lợi ích của
đơng đảo người dân để bảo vệ lợi ích cho một nhóm nhỏ các nhà tư bản. Việc ngụy tuyên



truyền trên được hà hơi, tiếp sức bởi “các thế lực tài phiệt tư nhân - tức là các hệ thống
cơng ty - đóng vai trị kiểm sốt dư luận và thái độ của quần chúng. Những công ty này
không nhận lệnh của chính phủ nhưng liên hệ chặt chẽ với chính phủ”30
Một hạn chế nữa của quyền lực truyền thơng đó là việc các nhà báo lạm dụng “quyền
lực thứ tư” của báo chí - vai trị của báo chí trong giám sát xã hội, một nền tảng then
chốt phản ánh quan điểm, lợi ích và hệ giá trị của mọi thành phần trong xã hội, để chuộc
lợi riêng cho bản thân. Điển hình là trong lĩnh vực kinh doanh, báo chí dù khơng giải
quyết vụ việc nhưng thơng qua thế mạnh của truyền thơng sẽ có thể làm giảm uy tín, làm
điêu đứng thậm chí có thể đánh sập một cơ quan, doanh nghiệp, cá nhân nào đó nếu tìm
được điểm yếu của đối tượng. Một điển hình cho trường hợp này chính là vụ việc của
Phạm Lê Hồng Uyển, trưởng văn phịng đại diện phía Nam của Tạp chí Hướng nghiệp
và Hịa nhập, người này đã đăng 3 bài viết phản ánh các dấu hiệu sai phạm của Công ty
CP Quốc tế Ước Mơ Việt và Công ty CP Bất động sản Cao Thắng trong việc huy động
vốn vào dự án ở tỉnh Hậu Giang. Sau khi báo đăng, Uyển liên hệ với ông Võ Thanh
Long, giám đốc 2 cơng ty, nói rằng muốn gỡ 3 bài viết thì phải đưa 700 triệu đồng, nếu
chậm thì báo sẽ đăng thêm 1 bài. Lúc này, nếu muốn gỡ thì phải chi 1 tỉ đồng. Lo sợ bị
đăng tiếp nên ông Long đã đồng ý sẽ đưa Uyển 700 triệu đồng. Dù đã bị công an bắt giữ
những vụ việc này đã để lại ấn tượng không mấy tốt đẹp trong lịng cơng chúng về thứ
được gọi là “Quyền lực thứ tư” của báo chí31.
2. Để phát huy tối đa vai trị, sứ mệnh của báo chí,truyền thơng, đồng thời hạn chế,
khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực, cần chú ý tới một số vấn đề sau:
Một là, đối những nhà báo, những người làm truyền thơng: Cần có lịng say mê, nhiệt
huyết với nghề, tơi luyện cho mình một thể lực tốt, một bản lĩnh, ý chí vững vàng trước
những cám dỗ, những lời đe dọa, sẵn sàng dùng ngịi bút của mình để chiến đấu với cái

30 Bóc trần và đấu tranh với thủ đoạn ngụy tuyên truyền của các thế lực thù địch về phòng, chống tham nhũng trên
các phương tiện truyền thông xã hội – Tạp chí Cộng sản, truy cập link:
/>
31 Đề nghị truy tố trưởng đại diện và phóng viên tạp chí tống tiền doanh nghiệp- Tuổi trẻ online, truy cập link:
/>


xấu, cái ác,...; khơng ngừng tích lũy nâng cao kiến thức, hiểu biết về các lĩnh vực, tránh
trường hợp viết bài trong tình trạng mơ hồ, thiếu hiểu biết;... Với chức trách và nhiệm vụ
của mình, nhà báo, người làm truyền thơng cịn là người dẫn dắt và định hướng dư luận;
truyền thông tạo ra dư luận xã hội, đưa các sự kiện và con người ra trước sự phán xét của
xã hội. Điều này đòi hỏi nhà báo khi hành nghề bao giờ cũng đặt lương tâm và trách
nhiệm lên hàng đầu: phải giữ vững phẩm chất để không bị những tác động xấu của xã
hội, sự cám dỗ của đồng tiền, và thấy mình khơng phải hổ thẹn với lương tâm. Dù ở bất
cứ đâu, thời điểm nào thì sứ mệnh, bổn phận của người làm truyền thơng vẫn là cung cấp
thơng tin chính xác, truyền toả cách nhìn, nhận thức đúng đắn cho xã hội. 32
Hai là, về cơng tác quản lý báo chí, truyền thơng: Cần thường xuyên quán triệt, nhắc
nhở, xây dựng chuẩn mực đạo đức cho đội ngũ phóng viên, xây dựng văn hóa người làm
báo; Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát; Kiên quyết xử lý các cá
nhân, tổ chức truyền thơng có hành vi vi phạm pháp luật cũng như đạo đức nghề nghiệp,
các trang mạng xã hội, bài viết, bài báo truyền bá thông tin giả, xấu độc, phản động, gây
hoang mang dư luận…
Ba là, về phía cơng chúng: hãy tiếp nhận thơng tin một cách thông minh! Mỗi người dân
khi tiếp cận với truyền thông đại chúng đặc biệt là các trang mạng xã hội cần trang bị cho
mình kỹ năng tự sàng lọc, tìm kiếm nguồn thông tin xác thực, đáng tin cậy để thu nạp sự
hiểu biết và những điều đúng đắn. Từ đó, nhận thức đúng bản chất của các sự vật, hiện
tượng. Ngoài ra, mỗi người cần tự nâng cao “sức đề kháng” cho mình bằng cách tự trang
bị cho mình những kiến thức, những hiểu biết về pháp luật, những năng lực để có khả
năng tự đánh giá được độ đáng tin cậy của thơng tin.
KẾT LUẬN
Khơng đồng tình với những quan điểm truyền thống về quyền lực, rằng quyền lực gắn
liền với vương quyền, pháp quyền, rằng quyền lực đi theo một chiều từ trên xuống dưới,
Michel Foucault đã tìm tịi và giải nghĩa quyền lực theo ý của riêng mình, đồng thời

32 Hương Giang, Khẳng định vai trị và trách nhiệm của người làm báo, truy cập đường link:
ngày truy cập:

16/6/2021.


khám phá ra mối quan hệ tương hỗ giữa quyền lực và tri thức. Với ông, quyền lực hiện
diện trong mọi mặt của cuộc sống, tồn tại trong mọi mối quan hệ giữa người với người,
tác động theo nhiều chiều. Còn tri thức là những chân lý riêng giúp con người phân biệt
đúng-sai, thật-giả. Tuy nhiên, tri thức là sản phẩm của sự áp đặt của quyền lực, chứ chưa
hẳn đã phản ánh đúng sự thật khách quan. Giữa quyền lực và tri thức có mối quan hệ hỗ
trợ, biện chứng qua lại với nhau, bao chứa nhau và tác động trực tiếp lẫn nhau. Hai yếu tố
này phải luôn đi liền với nhau: “Quyền lực được thực hành mà khơng có tri thức là điều
khơng thể, và cũng khơng thể là tri thức mà không sinh ra quyền lực”.
Những điều chỉnh và khai mở của Foucault về tri thức/quyền lực là rất đáng trân trọng.
Lý thuyết quyền lực/tri thức giúp ta hiểu rõ hơn bản chất của cuộc sống. Mỗi người trong
chúng ta đều ở trong mối quan hệ quyền lực, vừa là chủ thể quyền lực vừa bị tác động bởi
quyền lực. Và tri thức - những thứ chúng ta được dạy, cũng chưa hẳn là hoàn toàn đúng.
Vấn đề đặt ra là mỗi chúng ta không nên hài lịng với tất cả những gì mình được dạy,
được áp đặt là đúng, mà phải biết tự khám phá những tri thức mới, xây dựng cho mình
những hệ tri thức riêng của bản thân để tự mình biết phân biệt đúng-sai, phải trái chứ
không để các mối quan hệ quyền lực xung quanh tác động tiêu cực đến mình.
Thơng qua việc tìm hiểu lý thuyết tri thức/quyền lực, ta hiểu rõ hơn về quyền lực của
truyền thơng, báo chí, cách mà quyền lực truyền thơng,báo chí áp đặt những tri thức đến
người nhận. Qua đó, ta đưa ra cách sử dụng quyền lực này sao cho hợp lý, tránh tiêu cực.
Những điều chỉnh của Foucault về tri thức/quyền lực khơng phải là hồn tồn thỏa đáng
đến độ trở thành một thứ “nguyên lý phổ quát” cho mọi thời đại. Dẫu vậy, sự điều chỉnh
của Foucault là rất có giá trị trong chính thời điểm hiện nay. Nhờ đó, mỗi người có thể ý
thức về vai trị của mình trong các mối tương quan, cũng như cần phải chừa cho người
khác những khả thể tự do để hành động khác đi trong từng tương quan, từng lựa chọn,
đừng nên ép người quá đáng. Thiết tưởng đó là việc làm đầy ý nghĩa mà Foucault đã khơi
lên qua khái niệm quyền lực/tri thức của ông.




×