HỌC VIỆN TƯ PHÁP
sơ
BÀI THU HOẠCH
Môn: Kỹ năng của luật sư khi tham gia giải quyết các vụ án hành
chính
Họ và tên: …….
Lớp: ……
SBD: ……
……., ngày …… tháng …… năm …
MỤC LỤC
I.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU HỒ SƠ
1. Đương sự
2. Đối tượng khởi kiện
3. Thẩm quyền Tòa án
4. Thời hiệu khởi kiện
5. Nội dung vụ việc
6. Quan điểm của người khởi kiện
7. Quan điểm của người bị kiện
8. Quan điểm của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
II.
MỘT SỐ CHỨNG CỨ, TÌNH TIẾT QUAN TRỌNG TRONG VỤ ÁN
III.
ĐỊNH HƯỚNG CHỨNG MINH
IV.
I.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU HỒ SƠ
1. Đương sự
Người khởi kiện: bà Hà Thị Chức – sinh năm 1943, thường trú: Khu 3B –
xã Chu Hóa, TP. Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.
Căn cứ theo khoản 8 Điều 3 Luật tố tụng hành chính năm 2015.
Người bị kiện: UBND huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ
GCN do UBND huyện Phong Châu cấp, tuy nhiên sau đó huyện Phong
Châu chia thành huyện Lâm Thao và huyện Phù Ninh, theo đó xã Chu Hóa
trực thuộc huyện Lâm Thao (tìm hiểu trên mạng)
Năm 2006, xã Chu Hóa chuyển về thành phố Việt Trì quản lý.
Căn cứ vào khoản 4 Điều 59 Luật tố tụng hành chính 2015:
“4. Trường hợp người bị kiện là cơ quan, tổ chức bị hợp nhất, sáp nhập,
chia, tách thì cơ quan, tổ chức kế thừa quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức
cũ thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó.
Trường hợp người bị kiện là cơ quan, tổ chức đã giải thể mà khơng có
người kế thừa quyền, nghĩa vụ thì cơ quan, tổ chức cấp trên thực hiện quyền,
nghĩa vụ của người bị kiện”.
Như vậy, tại thời điểm khởi kiện, UBND huyện Lâm Thao là cơ quan kế
thừa quyền, nghĩa vụ của UBND huyện Phong Châu. Do đó, người bị kiện
phải là UBND huyện Lâm Thao.
Việc Tòa án đang xác định người bị kiện là UBND TP Việt Trì là khơng
đúng bởi vì hiện tại UBND huyện Lâm Thao vẫn còn đang hoạt động, chỉ có xã
Chu Hóa được đưa về UBND TP Việt Trì giải quyết, do đó, UBND TP Việt Trì
chỉ là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong trường hợp giấy chứng
nhận bị hủy và khi được cấp mới thì UBND TP Việt Trì sẽ cấp mới.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
• Nguyễn Thị Hồng (kết hơn với Hà Ngọc Thủy năm 1987, GCN được
cấp năm 1998).
• Ủy ban nhân dân xã Chu Hóa.
• Ủy ban nhân dân TP Việt Trì (như đã phân tích trên)
• Các anh chị em của bà Hà Thị Chức bao gồm:
-
Hà Ngọc Thủy, sinh năm 1964 (người đang đứng tên GCN)
-
Hà Thị Đạt sinh năm 1945 (đồng thừa kế)
-
Hà Thị Thành sinh năm 1954 (đồng thừa kế)
-
Nguyễn Thị Lan (vợ Hà Quang Chung)
Căn cứ theo khoản 10 Điều 3 Luật tố tụng hành chính năm 2015.
2. Đối tượng khởi kiện
-
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00458 ngày 08/12/1998 do Ủy
ban nhân dân huyện Phong Châu cấp cho Hà Ngọc Thủy, diện tích
2.300 m2 (trong đó có 300 m2 đất ở, 2000 m2 đất vườn) ở thửa 313-1,
tờ bản đồ số 45 xã Chu Hóa – thành phố Việt Trì.
-
Quyết định cấp giấy chứng nhận số 618/QĐ-UBND ngày 8/12/1998
cho Hà Ngọc Thủy.
Căn cứ theo khoản 1 Điều 30 Luật tố tụng hành chính, mục I.1 Giải đáp số
02/GĐ-TANDTC ngày 19/9/2016 giải đáp một số vấn đề về tố tụng hành
chính, tố tụng dân sự thì đối tượng khởi kiện trong vụ án này là các Quyết
định hành chính nêu trên.
3. Thẩm quyền Tòa án
Khiếu kiện hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và hủy Quyết định
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện Phong Châu,
tỉnh Phú Thọ ban hành là khiếu kiện Quyết định hành chính thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tịa án theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật tố
tụng hành chính.
Quyết định hành chính do UBND huyện Phong Châu là UBND cấp huyện
ban hành sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp tỉnh nơi cơ quan
có trụ sở. Như vậy, vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND tỉnh
Phú Thọ theo quy định tại khoản 4 Điều 32 Luật tố tụng hành chính năm
2015.
TAND TP Việt Trì thụ lý giải quyết theo hồ sơ là trái pháp luật, người bị
kiện có quyền yêu cầu Hội đồng xét xử ra quyết định đình chỉ việc xét xử,
chuyển hồ sơ vụ án cho Tịa án có thẩm quyền theo quy định tại khoản 3
Điều 34 Luật tố tụng hành chính 2015.
4. Thời hiệu khởi kiện
-
Phía người khởi kiện:
+ Bà Chức cho rằng thời điểm mà bà Chức và các đồng thừa kế biết
được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên Hà Ngọc Thủy
diện tích 2.300 m2 là thời điểm xảy ra vụ án ly hôn giữa Thủy và
Hồng là năm 2009.
+ Tuy nhiên, khoảng thời gian TAND TP Việt Trì giải quyết vụ án ly hôn
là từ cuối năm 2009 đến ngày 12/8/2014 là do trở ngại khách quan
nên bà và các thừa kế khác khơng có điều kiện để thực hiện quyền
khởi kiện theo quy định của pháp luật. Vì vậy, khoảng thời gian này
khơng tính vào thời hiệu khởi kiện (bà Chức có thể chứng minh
bằng cách đưa ra bằng chứng về các đơn từ bà đã gửi cho Tòa án
yêu cầu tham gia giải quyết vụ án ly hôn, các văn bản trả lời của
Tịa án).
-
Phía người bị kiện và bà Nguyễn Thị Hồng có thể dựa vào lời khai của
bà Nguyễn Thị Liên tại Giấy xác nhận ngày 25/12/2014 (BLtr66) để
chứng minh bà Chức, bà Đạt đã biết việc lập danh sách cấp Giấy
chứng nhận nhưng khơng phản đối, do đó thời hiệu khởi kiện yêu cầu
hủy giấy chứng nhận đã hết.
Cơ sở pháp lý: điểm a khoản 2 Điều 116 Luật tố tụng hành chính 2015.
5. Nội dung vụ việc
Ngày 02/09/2014, bà Hà Thị Chức có Đơn khởi kiện UBND TP Việt Trì,
tỉnh Phú Thọ đến TAND thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ yêu cầu hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện Phong Châu cấp ngày
08/12/1998 cho Hà Ngọc Thủy, diện tích 2.300 m2 thuộc thửa 313-1, tờ
bản đồ số 45 xã Chu Hóa – thành phố Việt Trì.
Lý do: nguồn gốc diện tích đất trên là do mẹ bà Chức là cụ Nguyễn Thị
Huyền khai hoang, phục hóa và sử dụng từ năm 1972. Năm 1989 cụ
Huyền chết khơng để lại di chúc, sau đó năm 1997 em trai của bà Chức là
Hà Ngọc Thủy tự ý kê khai xin cấp giấy chứng nhận mà khơng có sự đồng
ý của các đồng thừa kế khác. Năm 1998 Hà Ngọc Thủy đã được cấp giấy
chứng nhận đối với diện tích đất nêu trên.
Cụ thể bà Chức trình bày như sau:
-
Cụ Hà Văn Tấn (chết năm 1967) và cụ Nguyễn Thị Huyền (chết năm 1989)
có 06 người con chung bao gồm:
1. Hà Thị Chức
2. Hà Thị Đạt
3. Hà Văn Tuế (chết năm 2003 khơng có di chúc; vợ là Nguyễn Thị Lan)
4. Hà Quang Chung (hi sinh năm 1972 không có vợ, con)
5. Hà Thị Thành
6. Hà Ngọc Thủy
-
Năm 1972, gia đình cụ Huyền chuyển về xóm Hóc (nay là khu 3A xã Chu
Hóa) khai hoang, phục hóa được 2.500 m2 đất và dựng ngôi nhà tre cùng
một số cây cối, cơng trình trên đất.
Bà Chức và các em gái lấy chồng về ở nhà chồng, chỉ còn em út là Hà
Ngọc Thủy ở với mẹ trên ngôi nhà, mảnh đất này.
-
Ngày 25/5/1989 cụ Huyền chết không để lại di chúc. Di sản cụ Huyền để
lại là 2.500 m2 đất và ngôi nhà 3 gian, cùng một số cây cối, cơng trình trên
đất. Gia đình bà Chức thống nhất tạm giao cho Hà Ngọc Thủy sử dụng
còn việc phân chia di sản sẽ giải quyết sau và thống nhất phải lập thành
văn bản.
-
Năm 1996, Hà Ngọc Thủy tự ý bán 200m2 đất trong 2.500 m2 để lấy tiền
sửa sang nhà cũ để ở và thờ cúng liệt sĩ Hà Quang Chung. Khi bán 200
m2 đất Hà Ngọc Thủy không thông báo cho anh chị em, nhưng sau đó
thấy Thủy bán để sửa nhà, làm nhà nên chị em bà Chức đồng ý.
-
Năm 1997, Hà Ngọc Thủy tự ý kê khai để được cấp bìa đỏ 2.300 m2 đất.
-
Ngày 08/12/1998 UBND huyện Phong Châu cấp bìa đỏ cho Thủy 2.300
m2 đất thửa 313-1 tờ bản đồ số 45 trong đó có 300 m2 đất ở, 2000 m2 đất
vườn.
-
Quá trình kê khai cấp GCN và việc cấp GCN cho Hà Ngọc Thủy, bà Chức
và các thừa kế khác khơng biết gì.
-
Chỉ đến năm 2009 khi Nguyễn Thị Hồng có đơn u cầu TAND TP Việt Trì
xử li hơn Hà Ngọc Thủy và yêu cầu chia đôi 2.300 m2 đất đứng tên Hà
Ngọc Thủy thì bà Chức và các thừa kế khác mới biết là Hà Ngọc Thủy đã
tự ý làm bìa đỏ 2.300 m2 đất là di sản của cụ Huyền.
-
Bà Chức và các thừa kế khác dã u cầu TAND TP Việt Trì khơng được
chia 2.300 m2 đất vì đó khơng phải tài sản chung của vợ chồng và phải
đưa bà Chức và các chị em tham gia giải quyết vụ án để trình bày quan
điểm.
TAND TP Việt Trì khơng chấp nhận và ra Bản án số 278/2012/DSPT
ngày 29/8/2012.
Khơng nhất trí với Quyết định của Bản án sơ thẩm, Hà Ngọc Thủy
kháng cáo.
Bà Chức và các chị em có đơn gửi lên TAND Tỉnh Phú Thọ xem xét.
-
Tháng 1/2013 TAND tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm ra bản án số
14/2013/DSST: Xử hủy bản án sơ thẩm số 278/2012/DSST ngày
29/8/2012 của TAND TP Việt Trì để xét xử lại cho đúng pháp luật.
-
Quá trình giải quyết lại vụ án ly hơn, TAND TP Việt Trì có đưa bà Chức và
các thừa kế tham gia giải quyết vụ án với tư cách là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan.
-
Sau đó TAND TP Việt Trì ra QĐ tạm đình chỉ giải quyết vụ án ly hơn giữa
Nguyễn Thị Hồng và Hà Ngọc Thủy số 11/2014/QĐST-HNGĐ ngày
2/1/2014: Lý do cần chờ kết quả giải quyết của cơ quan, tổ chức khác giải
quyết trước mới giải quyết được vụ án.
-
Sau khi có QĐ tạm đình chỉ giải quyết vụ án, bà Chức và các đồng thừa kế
có đơn khiếu nại về hành vi hành chính của UBND xã Chu Hóa trong việc
làm các thủ tục hồ sơ đề nghị UBND huyện Phong Châu cấp bìa đỏ cho
Hà Ngọc Thủy trong khi vẫn cịn thời hiệu chia thừa kế mà khơng yêu cầu
Thủy cung cấp Biên bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế của các thừa
kế theo quy định của pháp luật.
-
Trong q trình hịa giải, đối thoại tại UBND xã Chu Hóa, Hà Ngọc Thủy
đều trình bày: Tự mình kê khai để được cấp bìa đỏ 2.300 m2 đất của mẹ
để lại mà không được sự đồng ý của các anh, chị, việc làm đó là sai và tự
nguyện trả lại cho các thừa kế giải quyết.
-
Tuy nhiên, UBND xã Chu Hóa khơng chấp nhận, khơng xem xét và ra
Quyết định số 57/QĐ-UBND ngày 15/5/2014: V/v giải quyết đơn khiếu nại
của bà Chức và các đồng thừa kế, có nội dung chính: Căn cứ vào kết quả
kiểm tra hồ sơ địa chính xã Chu Hóa và các giấy tờ liên quan được lưu giữ
tại UBND xã Chu Hóa thể hiện tồn bộ q trình đăng ký và lập hồ sơ cấp
GCN QSDĐ năm 1997 cho tất cả các hộ trên địa bàn xã Chu Hóa đều
thực hiện theo đúng quy trình đăng ký, cơng khai, xét cấp GCN theo đúng
quy định của pháp luật. Kết luận: Trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho Hà Ngọc Thủy, khu 3a xã Chu Hóa năm 1997
là đúng theo quy định của pháp luật; UBND xã Chu Hóa chưa có đủ căn
cứ pháp lý để đề nghị cấp có thẩm quyền hủy giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất do UBND huyện Phong Châu cấp cho hộ ông Hà Ngọc Thủy theo
Quyết định số 618/QĐUBND ngày 08/12/1998.
-
Không đồng ý với QĐ giải quyết khiếu nại của UBND xã, bà Chức và các
đồng thừa kế khiếu nại tới UBND TP Việt Trì giải quyết. Ngày 12/8/2014,
thanh tra Việt Trì hướng dẫn bà Chức khởi kiện ra TAND TP Việt Trì.
-
Ngày 02/09/2014, bà Hà Thị Chức khởi kiện UBND TP Việt Trì, tỉnh Phú
Thọ đến TAND thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ yêu cầu hủy giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện Phong Châu cấp
ngày 08/12/1998 cho Hà Ngọc Thủy như đã nêu trên.
Ngày 06/10/2014, TAND TP Việt Trì có Thơng báo về việc thụ lý vụ án số
3263/2014/TB-TLVA về việc “Khởi kiện quyết định hành chính”.
Ngày 21/10/2014, các đương sự trong vụ án có Bản tự khai có nội dung
chính như sau:
-
Bà Hà Thị Chức khai nội dung giống như đơn khởi kiện, đề nghị hủy
GCN đã cấp.
-
Bà Hà Thị Đạt khai năm 1972 cụ Huyền và các con khai hoang phục
hóa được 2.500 m2 đất ở khu 3A xã Chu Hóa và làm nhà. Đất này là
của cụ Huyền. Đề nghị hủy GCN đã cấp.
-
Anh Hà Ngọc Thủy khai năm 1972 cụ Nguyễn Thị Huyền và các anh chị
của anh Thủy đã khai hoang phục hóa được một mảnh đất ở khu 3A xã
Chu Hóa để làm nhà ở. Năm 1987 anh Thủy lấy vợ là Nguyễn Thị
Hồng. Năm 1996, anh Thủy tự ý bán 200 m2 đất lấy tiền trả nợ làm nhà
ở như hiện nay. Năm 1997 anh Thủy tự ý đi kê khai để làm bìa đỏ
khơng xin phép ý kiến của các anh chị. Đến năm 1998 được cấp GCN
đứng tên Hà Ngọc Thủy với diện tích sử dụng là 2300 m2 đất. Từ đó
đến nay anh Thủy và vợ vẫn ở trên mảnh đất cụ Huyền để lại. Anh
Thủy đồng ý với đơn khởi kiện của bà Hà Thị Chức, hủy bỏ giấy chứng
nhận QSDĐ đứng tên Hà Ngọc Thủy.
-
Ông Nguyễn Hữu Thụ - đại diện theo ủy quyền của bà Hà Thị Thành
khai đồng ý với đơn của bà Chức hủy bỏ bìa đất đứng tên Hà Ngọc
Thủy.
-
Bà Nguyễn Thị Lan (vợ Hà Văn Tuế) khai: Nguồn gốc dất là do cụ
Huyền và chúng tơi phục hóa năm 1972 tại khu 3A xã Chu Hóa. Đất
này là của cụ Huyền. Bà Lan đồng ý với lời khai của bà Chức, đề nghị
hủy bìa đỏ của Hà Ngọc Thủy.
Ngày 03/11/2014, ơng Phạm Văn Chung – Phó Trưởng phịng TNMT TP
Việt Trì là đại diện theo ủy quyền của người bị kiện có Bản tự khai, nội
dung chính:
-
Vị trí thửa đất đã được cấp GCNQSDĐ ngày 08/12/1998 mang tên ông
Hà Ngọc Thủy gồm 15 thửa thuộc 05 tờ bản đồ (thuộc nhóm đất nơng
nghiệp); 01 thửa đất thổ cư thuộc thửa 313-1, tờ bản đồ số 45, diện
tích 2300 m2 trong đó đất ở 300 m2, 2000 m2 đất vườn, do UBND
huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ cấp ngày 08/12/1998.
-
Về hồ sơ: Hồ sơ cấp GCNQSD đất do UBND xã Chu Hóa trình cấp có
thẩm quyền cấp. Được thực hiện theo quy định tại Thông tư số 346
ngày 16/3/1998 của Tổng cục địa chính về hướng dẫn thủ tục đăng
ký đất đai lập hồ sơ địa chính và cấp GCNQSD đất.
-
Việc bà Chức cho rằng anh Thủy tự ý đi kê khai QSDĐ mà không được
sự ủy quyền của các anh, chị em trong gia đình việc này đề nghị Tòa
án giải quyết theo quy định pháp luật.
Cùng ngày 03/11/2014, bà Nguyễn Thị Hồng có Bản tự khai có nội dung
chính:
-
Bà Hồng và anh Thủy kết hơn từ năm 1987 đến năm 1989 cụ Huyền
chết.
-
Đến năm 1995 làm nhà, năm 1996 bán 200 m2 và năm 1997 theo Nghị
quyết số 618 quyết định của Ủy ban, đi đăng ký và đã nộp hồ sơ để
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong đó năm 1997 các hộ
trên địa bàn xã Chu Hóa đều thực hiện theo quy trình đăng ký để kê
khai minh bạch và xét cấp giấy chứng nhận theo đúng pháp luật.
-
Lúc thời điểm anh Thủy đi đăng ký ngày 14/1/1987 anh Thủy đại diện
cho gia đình để kê khai quyền sử dụng trong đó vợ chồng bà gồm 16
thửa quyển số 313 tờ bản đồ số 45, diện tích 2300 m2 vợ chồng bà
đang canh tác.
-
Đến ngày 08/12/1998 Ủy ban nhân dân huyện Phong Châu đã cấp
quyền sử dụng đất cho vợ chồng bà.
-
Trong 1 q trình dài như thế khơng có 1 đơn kiện nào cho đến khi bà
ra tịa cũng khơng một đơn khởi kiện. Đến năm 2002 vợ chồng bà ly
hôn mới xảy ra tranh chấp đất đai như vậy.
-
Khi mẹ chồng bà cịn sống thì khơng chia cho ai mà khơng kiện cáo gì
cả, vợ chồng bà sống trên mảnh đất này gần 30 năm mà nay có quyết
định hủy bỏ QSDĐ, nếu thế bà Hồng đề nghị hủy bỏ tồn bộ của xã
Chu Hóa kể các các chị em của gia đình anh Thủy cấp quyền sử
dụng năm 1998 của UBND cấp xã đã cấp.
-
Bà Hồng cung cấp: Đơn đăng ký quyền sử dụng đất, mục kê nhà đất,
Quyết định của Chủ tịch UBND đã ký; Hội nghị đối thoại; sổ hộ khẩu,
Biên lai thu thuế nhà đất.
-
Đề nghị người khởi kiện cung cấp: Giấy di chúc, xác nhận đất ông cha,
quyền sử dụng đất của 6 chị em; Biên bản họp gia đình có cả mẹ, Biên
lai thu thuế nhà đất 6 chị em.
Ngày 03/11/2014, TA TP Việt Trì tổ chức đối thoại, tại Biên bản đối thoại
thể hiện:
-
-
Người khởi kiện tiếp tục đề nghị hủy GCN đất đứng tên Hà Ngọc Thủy
do UBND huyện Phong Châu (cũ), tỉnh Phú Thọ cấp.
-
Người bị kiện trình bày: Hồ sơ cấp giấy CNQSD đất do UBND xã Chu
Hóa trình cấp có thẩm quyền thực hiện theo quy định tại Thơng tư 346
ngày 16/3/1998 của Tổng cục địa chính về hướng dẫn thủ tục đăng ký
đất đai lập hồ sơ địa chính và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trình bày:
+ Bà Hồng: khơng nhất trí hủy GCN. Nếu các anh chị em của bà Chức đưa
ra được di chúc của cụ Huyền thì bà nhất trí trả lại đất cho các anh chị em
bà Chức.
+ Bà Hà Thị Đạt, ông Hà Ngọc Thủy, bà Nguyễn Thị Lan, ông Nguyễn Hữu
Thụ nhất trí quan điểm của bà Hà Thị Chức.
-
Quan điểm của LS bảo vệ bà Chức:
+ Phải xem xét nguồn gốc đất vì đất này do cụ Huyền để lại
+ Năm 1989 cụ Huyền chết, thời hiệu chia thừa kế di sản của cụ Huyền
chưa hết nên việc anh Thủy tự ý đi kê khai cấp GCN là không đầy đủ thủ
tục theo quy định. Do việc làm của anh Thủy sai nên việc UBND huyện
Phong Châu (cũ) cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho anh Thủy là sai.
Ngày 06/11/2014, bà Chức có Đơn đề nghị về việc xác minh thu thập
chứng cứ đến TAND TP Việt Trì, nội dung: Tồn bộ hồ sơ cấp GCNQSD
đất đứng tên anh Thủy do UBND xã Chu Hóa và UBND TP Việt Trì lưu
giữ. Để đảm bảo quyền lợi cho bà và các đương sự trong vụ án bà đề nghị
TAND TP Việt Trì xác minh, thu thập chứng cứ về nguồn gốc đất hiện nay
đứng tên anh Hà Ngọc Thủy ở khu 3A.
Ngày 29/12/2014, TA TP Việt Trì tổ chức đối thoại lần 2, tại Biên bản đối
thoại:
-
Người khởi kiện, người bị kiện giữ nguyên quan điểm
-
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan giữ nguyên quan điểm
+ Trừ bà Hồng có thêm ý kiến: anh Thủy không phải tự ý đi khai để
cấp giấy CNQSD đất.
+ UBND xã Chu Hóa lần này mới tham gia đối thoại: Vẫn giữ nguyên
quan điểm như bản tự khai gửi tòa án và thống nhất quan điểm của
UBND TP Việt Trì đã trình bày. Đề nghị Tịa án giải quyết theo quy
định của pháp luật.
Ngày 13/10/2014, bà Hà Thị Thanh có Ý kiến trả lời thơng báo số
3263/2014/TB-TLVA của TAND TP Việt Trì ngày 06/10/2014 có nội dung
hồn tồn thống nhất với đơn khởi kiện của bà Hà Thị Chức. Mọi vấn đề
liên quan đến vụ án ủy quyền cho bà Chức thay mặt giải quyết.
Ngày 05/01/2015, TAND TP Việt Trì có Quyết định u cầu cung cấp
chứng cứ số 29/2015/QĐ-CCCC theo đó u cầu UBND TP Việt Trì cung
cấp toàn bộ bản sao hồ sơ về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất của anh Hà Ngọc Thủy theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do
UBND huyện Lâm Thao (nay thuộc địa giới hành chính TP Việt Trì) tỉnh
Phú Thọ cấp ngày 08/12/1998 tại khu 3A xã Chu Hóa mang tên Hà Ngọc
Thủy.
Ngày 13/01/2015, TAND TP Việt Trì có Quyết định đưa vụ án ra xét xử vào
lúc 8 giờ 30/01/2015.
Ngày 28/01/2015, Luật sư Tạ Hồng Chúc là luật sư bảo vệ bà Chức làm
việc với ông Quách Ngọc Tú – Công chức địa chính xã Chu Hóa, Việt Trì
tìm hiểu, thu thập hồ sơ địa chính thửa 313 đứng tên Hà Ngọc Thủy có
những tài liệu gì. Nội dung chính:
Trong hồ sơ địa chính xã đang quản lý về thửa đất 313 tờ bản đồ 45
đứng tên Hà Ngọc Thủy khu 3A có những tài liệu sau:
+ Đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất của Hà Ngọc Thủy ngày
14/01/1997 có 2300 m2 đất (đất ở 300 m2, đất vườn 2000m2)
nguồn gốc đất: ông cha và các thửa đất nơng nghiệp.
+ Sổ địa chính lập ngày 01/01/1999 được UBND huyện Phong Châu
phê duyệt ngày 19/01/1999 và được trưởng cơ quan địa chính tỉnh
Phú Thọ ký duyệt ngày 05/02/2001. Trang đứng tên Hà Ngọc Thủy
+ Nguyễn Thị Hồng là trang 169 ngày 09/12/1998 vào sổ 2300 m2
có 300 m2 đất ở, 2000m2 đất vườn tờ bản đồ 45 thửa 313.
+ Sổ mục kê do UBND huyện Phong Châu lập ngày 08/12/1998 thì
thửa 313-1 tờ bản đồ 43 đứng tên Hà Ngọc Thủy tại trang 19.
+ Bản đồ địa chính do UBND huyện Phong Châu phê duyệt ngày
08/12/1998 hiện đang được địa phương sử dụng thì chỉ thể hiện
thửa 313 tờ bản đồ 45 diện tích 2520 m2 khơng ghi tên chủ sử dụng
đất.
Ngày 30/01/2015, TAND TP Việt Trì ra Quyết định hỗn phiên tịa do xét
thấy cần phải xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ bổ sung mà không thể
thực hiện ngay tại phiên tòa. Mở lại phiên tòa ngày 9/2/2015.
Ngày 03/02/2015, Phòng TNMT TP Việt Trì có Cơng văn số 07/CV-TNMT
V/v cung cấp tài liệu có nội dung: Phịng TN&MT đã giao cho cán bộ văn
thư lưu trữ cùng chuyên viên phụ trách địa bàn tìm nhưng khơng thấy hồ
sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Hà Ngọc Thủy
lưu tại phòng.
6. Quan điểm của người khởi kiện
Việc cụ Huyền và gia đình bà Chức phục hóa được 2500 m2 đất từ năm
1972 (sau đó năm 1996 bán 200m2) còn lại 2300 m2 nay là thửa 313 tờ
bản đồ số 45 khu 3A xã Chu Hóa, được nhiều người dân khu 3A và cán bộ
xã Chu Hóa thời kỳ đó xác nhận tại Giấy khai nguồn gốc đất ngày
29/5/2014.
Năm 1997 thời hiệu chia thừa kế di sản của cụ Huyền vẫn còn. Khi tiếp
nhận đơn đăng ký quyền sử dụng đất của Hà Ngọc Thủy xuất trình biên
bản họp của các thừa kế về việc giải quyết di sản của cụ Huyền mà vẫn
làm các thủ tục để UBND huyện Phong Châu cấp bìa đỏ cho Hà Ngọc
Thủy ngày 8/12/1998 diện tích 2.300 m2 là di sản thừa kế là trái pháp luật.
UBND xã cũng thừa nhận đó là đất của cụ Huyền nên năm 1996 có đồng
ý cho Hà Ngọc Thủy bán 200 m2.
Bản thân Nguyễn Thị Hồng cũng thừa nhận tại Đơn đề nghị ngày
18/9/2012 rằng đất vợ chồng chúng tôi đang ở hiện nay là bố mẹ chồng tôi
sang tên đổi chủ cho chúng tôi.
Lý do chị em bà Chức trong những năm qua không kê khai làm bìa đỏ
2.300 m2 đất là do trong gia đình chưa đi đến thống nhất phân chia di sản
của cụ Huyền để lại.
7. Quan điểm của người bị kiện
Về hồ sơ: Hồ sơ cấp GCNQSD đất do UBND xã Chu Hóa trình cấp có
thẩm quyền cấp được thực hiện theo quy định tại Thông tư số 346 ngày
16/3/1998 của Tổng cục địa chính về hướng dẫn thủ tục đăng ký đất đai
lập hồ sơ địa chính và cấp GCNQSD đất.
Việc bà Chức cho rằng anh Thủy tự ý đi kê khai QSDĐ mà không được sự
ủy quyền của các anh, chị em trong gia đình việc này đề nghị Tòa án giải
quyết theo quy định pháp luật.
8. Quan điểm của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
II.
-
UBND xã Chu Hóa: Trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho Hà Ngọc Thủy, khu 3a xã Chu Hóa năm 1997 là đúng
theo quy định của pháp luật và thống nhất quan điểm của UBND TP
Việt Trì đã trình bày. Đề nghị Tịa án giải quyết theo quy định của pháp
luật.
-
Bà Nguyễn Thị Hồng: không đồng ý hủy giấy chứng nhận đứng tên Hà
Ngọc Thủy do anh Thủy khơng tự ý đi kê khai, gia đình bà Chức đã biết
nhưng không phản đối việc cấp GCN cho anh Thủy.
-
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác: nhất trí với bà
Chức.
MỘT SỐ CHỨNG CỨ, TÌNH TIẾT QUAN TRỌNG TRONG VỤ ÁN
Tài liệu
Giấy khai
nguồn gốc
đất ngày
29/5/2014 (BL
tr58-61)
Vấn đề chứng
minh
Mẹ tôi là Nguyễn Thị Huyền đã chết năm 1972 Nguồn gốc đất là
mẹ tôi cùng các con khai hoang được một mảnh của cụ Huyền và
đất ở xóm Hóc Nang nay thuộc khu 3A xã Chu gia đình.
Hóa với diện tích là 2300m2 đất. Trên mảnh đất
này mẹ tơi có ngơi nhà lá 4 gian, bếp 2 gian, đều
lớp lá, tường đắp đất, một giếng nước, 1 chuồng
gà, chuồng lợn.
2300 m2 đất đang đứng tên Hà Ngọc Thủy trông
nom
Nay tôi viết giấy này để bà con khu xóm cùng cán
bộ xã, địa chính xác nhận cho chị em chúng tôi –
Hà Thị Chức
Tôi là Phạm Tuấn Việt, khu 3A Chu Hóa là hàng
xóm liền rào với bà Nguyễn Thị Huyền. Tơi biết
năm 1972 bà Huyền có khai hoang mảnh đất
giáp ranh với nhà tơi và bà có làm 1 căn nhà cấp
Nội dung
Tài liệu
Giấy
xác
nhận
ngày
25/12/2011
của
bà
Nguyễn Thị
Liên (BLtr66)
Nội dung
4, 4 gian lợp lá, tường đất; 2 gian bếp lợp lá cọ,
tường đất có giếng nước, chuồng lợn, chuồng
gà.
Tôi là Hà Thị Tọa khu 3A Chu Hoa cơng nhận gia
đình bà Huyền 1972 có khai hoang mảnh đất có
làm được 4 gian nhà cấp bốn và cơng trình phụ +
giếng là đúng sự thật.
Tơi là Cao Văn Ngũ – Chu Hóa khu 3A cơng
nhận gia đình bà Huyền năm 1972 có khai hoang
mảnh đất từ lâu. Đã làm 4 gian nhà cấp 4 hai
gian bếp tường đất cơng trình phụ, giếng. Cơng
nhận gia đình khai là đúng.
Tôi là Hà Văn Đối sinh năm 1930 Đảng viên 64
năm tuổi Đảng chứng nhận bản khai nguồn gốc
của bà Chức trên là đúng sự thực. Hiện này là
cán bộ hưu trí xã.
Tơi là Hà Ngọc Hậu xác nhận năm 1972 gia đình
cụ Huyền có đất, có nhà, có giếng có vườn + có
người ở là đúng. Năm 1972 tơi làm địa chính xã.
UBND xã Chu Hóa xác nhận các ơng bà trên
có hộ khẩu thường trú tại xã Chu Hóa.
Tơi tên là Nguyễn Thị Liên, khu 3B xã Chu Hóa.
Ngun là đội trưởng sản xuất nơng nghiệp Chu
Hóa từ 1982 – 1997 của …Sau khi Đảng có chủ
trương quy chủ để cấp quyền sử dụng đất cho
nhân dân. Chúng tôi cho tiến hành họp dân phổ
biến và những bước triển khai sau đó cùng với
địa chính xã và cấp trên cùng với các hộ dân tiến
hành rà soát rồi phát đơn cho các hộ tự khai.
Trong đó có gia đình anh Thủy, khi đó anh Thủy
Hồng ở với mẹ - bà cụ mất thì vợ chồng anh
Thủy Hồng là chủ hộ. Lúc đó đội chưa có trụ sở
phải họp nhờ nhà anh Thủy. Trong đó có 2 chị gái
anh Thủy là bà Hà Thị Chức và bà Hà Thị Đạt
cùng đội cùng họp. Khi họp song chúng tôi có
lập danh sách gửi xuống thơng qua cho từng
chủ hộ, khơng có ai thắc mắc gì kể cả hai bà
Chức Đạt đối với gia đình anh Thủy. Sau đó
chúng tơi nộp lên xã để xã lập hồ sơ để cấp trên
cấp quyền sử dụng đất cho tồn dân (trong đó có
hộ anh Thủy Hồng). Từ lúc gửi danh sách đến lúc
được cấp bìa đỏ cũng khơng có ai thắc mắc gì
(kể cả bà Chức và bà Đạt) do vậy tơi khẳng định
là chúng tôi làm đúng với chủ trương của Đảng
Vấn đề chứng
minh
Bà Chức, bà Đạt
đã biết việc lập
danh sách cấp
giấy chứng nhận
đứng tên Hà
Ngọc
Thủy
nhưng
không
phản đối.
Tài liệu
Nội dung
và Nhà nước, theo từng bước đã quy định (trong
đó có hộ nhà anh Thủy Hồng)
Thưa Q tịa, những năm đó khơng có họp các
anh chị em trong gia đình như bây giờ. Tơi nghĩ
lịch sử để lại thì nên tơn trọng lịch sử. Vậy một
lần nữa tơi khẳng định chúng tơi làm như vậy là
hồn tồn đúng với chủ trương của Đảng và Nhà
nước lúc bấy giờ. Nếu sai tơi hồn tồn chịu
trách nhiệm. Mong q Tịa xem xét giải quyết
cho công bằng để người phụ nữ đỡ thiệt thịi
(đúng pháp luật).
UBND xã Chu Hóa xác nhận: Bà Nguyễn Thị Liên
hộ khẩu thường trú tại xã Chu Hóa, Việt Trì, Phú
Thọ. Bà Liên là đội trưởng sản xuất của HTX
nông nghiệp từ năm 1982 đến 1997 là đúng.
Tại đơn đăng
ký quyền sử
dụng đất
ngày
14/01/1997
(BLtr70)
Kê khai tên chủ sử dụng đất là Hà Ngọc Thủy
cùng với vợ là Nguyễn Thị Hồng, đối với 2300 m2
đất thửa 313 tờ 45, nguồn gốc sử dụng là ông
cha.
Nguồn gốc đất vợ chồng chúng tôi đang ở là đất
bố mẹ tôi mua và được cắm để ở, còn đất của
hương hỏa tổ tiên ở cạnh nhà máy
Đơn đề nghị Superphotphat Lâm Thao. Đất vợ chồng, con tôi
ngày
đang ở hiện nay là bố mẹ chồng tôi đã cho vợ
18/9/2012 của chồng tôi đã sang tên đổi chủ được UBND
bà
Nguyễn huyện Phong Châu cấp bìa đỏ ngày 28/02/1998
Thị Hồng
đứng tên vợ chồng tôi từ ngày 28/12/1998 từ đó
(BLtr75)
tới nay năm nào chúng tơi vẫn đóng thuế đất đầy
đủ (có hóa đơn thu thuế).
Tổng diện tích 2.300m2 trong đó đất ở 300m2 đất
vườn 2000m2.
Bản án số
Tại phần xét thấy:
14/2013/HNG Ạnh Thủy được giao diện tích đất mà tòa án cấp
Đ-PT ngày
sơ thẩm xác định là tài sản chung phần khơng có
15, 17/1/2013 nhà ở. Theo đơn kháng cáo của anh Thủy trình
V/v Hơn nhân bày nguồn gốc đất là của mẹ anh để lại thừa kế
và gia đình
anh được đồng ý của anh chị em đứng tên
trong GCN QSDĐ và có trách nhiệm thờ cúng bố
mẹ, kèm theo các tài liệu đơn của anh chị em
anh chứng minh. Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ các
tài liệu có trong hồ sơ vụ án và xác định là tài sản
chung của vợ chồng để phân chia.
Vấn đề chứng
minh
Tài liệu
Nội dung
Tại bản kiến nghị BL số 71 ngày 2/9/2012 bà Hà
Thị Chức ở khu 3b xã Chu Hóa trình bày các
đồng thừa kế “nhất chí để anh Thủy đứng tên
trên thửa đất này và bán 1 phần đất của bố mẹ
làm nhà để vợ chồng có nơi thờ cúng”. Chị Hồng
thừa nhận nguồn gốc đất của bố mẹ chồng để
lại.
BL số 38, 39 ngày 10/04/2009, anh Thủy trình
bày phần đất của riêng anh vì anh chị em trong
gia đình họp mới tạm giao cho anh để thờ
cúng. Tại biên bản xác minh BL số 45 ngày
9/5/2009 Địa chính xã Chu Hóa cung cấp trong
hồ sơ cấp đất của anh Thủy chị Hồng khơng có
giấy tờ thừa kế hoặc anh chị em ruột của anh
Thủy thỏa thuận phân chia. Lời trình bày của
anh Thủy trong quá trình điều tra nêu diện tích
đất là của cha ơng để lại cho anh chị em anh,
việc làm CNQSD đất do anh tự ý không hỏi ý kiến
anh, chị của anh và tại BL 16 ngày 28/5/2012 anh
trình bày để hỏi ý kiến của anh chị trình bày sau.
Chưa được tịa án cấp sơ thẩm làm rõ.
Tuy nhiên theo BL số 64 ngày 18/9/2012 đơn
trình bày của chị Hồng nêu nguồn gốc đất ở
hiện nay là bố mẹ chồng được cấp đã cho chị
và anh Thủy sang tên đổi chủ được cấp chứng
nhận quyền sử dụng đất từ năm 2008, đứng tên
anh Thủy cho đến nay khơng ai có thắc mắc gì.
Nhưng trong hồ sơ địa chính xã Chu Hóa cung
cấp thì khơng có tài liệu nào của bố mẹ anh
Thủy để lại cho vợ chồng.
Bản án sơ thẩm không nhận định về nguồn gốc
của diện tích đất, để xem xét lời trình bày của
anh Thủy như nêu trên, đưa các đối tượng người
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng
như bà Chức, bà Đạt, bà Thành, anh Tuế như
đơn kiến nghị và đơn đề nghị của những người
này. Tòa án cấp phúc thẩm nhận thấy đây là
những đối tượng người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan phải được tịa án đưa họ vào tham gia
tố tụng theo khoản 4 Điều 56 BLTTDS, tịa án
cấp sơ thẩm khơng xem xét đến là vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
III. ĐỊNH HƯỚNG CHỨNG MINH
Vấn đề chứng
minh
1. Người khởi kiện
-
Về tố tụng: có quyền khởi kiện, đối tượng khởi kiện, thời hiệu, thẩm
quyền Tòa án.
-
Về nội dung: yêu cầu có căn cứ và hợp pháp
+ Về thẩm quyền ban hành
+ Về trình tự thủ tục ban hành
+ Về nội dung QĐ: Căn cứ pháp lý, căn cứ thực tế
2. Người bị kiện và bà Hồng chứng minh: khơng có căn cứ hủy giấy CN
-
Giấy chứng nhận đã cấp đúng thẩm quyền
-
Đúng đối tượng sử dụng đất
-
Đúng diện tích đất
-
Đủ điều kiện được cấp
-
Đúng mục đích sử dụng đất hoặc thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc
sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai.
Hướng bảo vệ người bị kiện:
Thứ nhất, khơng có giấy tờ nào về đất đai chứng minh đất là của cụ Huyền.
Thứ hai, tại thời điểm cụ Huyền chết là năm 1989 Luật đất đai 1987 đang có
hiệu lực, khơng thừa nhận quyền thừa kế đất đai mà chỉ cho quyền chiếm hữu
thực tế. Theo đó anh Thủy, chị Hồng trực tiếp sử dụng đất sau thời điểm cụ
Huyền chết thì chính là người sử dụng đất hợp pháp
Thứ ba, anh Thủy chị Hồng là đối tượng sử dụng đất được cấp giấy chứng
nhận theo Thông tư của Tổng cục địa chính số 346/1998/TT-TCĐC ngày
16/3/1998 hướng dẫn thủ tục đăng ký đất đai, lập hồ sơ địa chính và cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất.
Cụ thể
“I. KÊ KHAI ĐĂNG KÝ ĐẤT ĐAI
I.1. Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân là công dân Việt Nam và tổ chức, cá
nhân nước ngoài thuộc các diện:
1. Được Nhà nước Việt Nam giao đất, cho thuê đất;
2. Đang sử dụng đất vào các mục đích;
3. Được phép thay đổi mục đích sử dụng đất;
4. Được phép chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, thừa kế
quyền sử dụng đất; đều phải đăng ký đất tại Uỷ ban nhân dân xã,
phường, thị trấn - nơi có đất theo hướng dẫn tại Thông tư này. Riêng đối với
đất có nhà ở thuộc khu vực đơ thị sẽ thực hiện việc đăng ký đất theo quy
định riêng”.
Theo quy định trên, người được thừa kế quyền sử dụng đất phải đăng
ký đất tại UBND xã, tuy nhiên bà Chức và các đồng thừa kế cũng ở thơn
Chu Hóa, có biết chủ trương kê khai đăng ký này nhưng chỉ đi đăng ký
phần đất khác của mình mà khơng kê khai phần đất mà anh Thủy sử dụng,
và như Giấy xác nhận của bà Liên là bà Chức, bà Đạt biết anh Thủy kê khai
nhưng không phản đối.
“I.4. Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được xét để đăng ký vào sổ địa chính và
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng phần diện tích đất như sau:
…
3. Diện tích đất chuyên dùng, đất ở, các loại đất nông nghiệp, đất lâm
nghiệp, đất mặt nước nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối khác đang do các
tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sử dụng, đã được Uỷ ban nhân
dân cấp xã xét và xác định quyền sử dụng hợp pháp trong quá trình
thực hiện thủ tục đăng ký đất đai”;
Như vậy, đối tượng được cấp giấy chứng nhận theo quy định của Thông tư
là người đang sử dụng đất. Do đó, anh Thủy, chị Hồng chính là đối tượng sử
dụng đất được cấp giấy chứng nhận, bà Chức và các anh chị em không phải là
đối tượng được cấp GCN theo thơng tư.
Thứ tư, q trình đăng ký, kê khai đất đai, anh Thủy là người có tên Sổ địa
chính lập ngày 01/01/1999 được UBND huyện Phong Châu phê duyệt ngày
19/01/1999 và được trưởng cơ quan địa chính tỉnh Phú Thọ ký duyệt ngày
05/02/2001 và tại Sổ mục kê do UBND huyện Phong Châu lập ngày 08/12/1998
thì thửa 313-1 tờ bản đồ 43 đứng tên Hà Ngọc Thủy tại trang 19. Q trình sử
dụng anh Thủy cũng là người đóng thuế đất đầy đủ. Như vậy, anh Thủy đã thực
hiện đúng nghĩa vụ của người sử dụng đất, do đó việc cấp GCN cho anh Thủy là
đúng đối tượng.
Thứ năm, về trình tự, thủ tục cấp GCN, cần chứng minh thực hiện đúng
Phần 2 Thông tư 346 của Tổng cục địa chính, tuy nhiên hồ sơ cịn thiếu nhiều,
cần hỏi và thu thập thêm chứng cứ để chứng minh.
Kết luận, việc cấp GCN cho anh Thủy đúng pháp luật, đúng thẩm quyền,
trình tự thủ tục và có căn cứ cấp GCN.
Đề nghị bác yêu cầu của người khởi kiện.