TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
MƠN HỌC: CHỦ NGHĨA XÃ HỢI KHOA HỌC
TIỂU LUẬN
QUAN ĐIỂM CỦA LÊNIN VỀ TÔN GIÁO VÀ VẬN DỤNG
VẤN ĐỀ TƠN GIÁO TRONG VIỆC PHÁT HUY SỨC
MẠNH ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC VIỆT NAM
GVHD: TS. Phạm Thị Lan
1
Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 06 năm 2021
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
Điểm: ……………………………..
KÝ TÊN
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong đời sống tinh thần của con người tơn giáo ln đóng vai trò nhất định. Cùng
với sự phát triển của lịch sử lồi người, tơn giáo ra đời và trở thành một hiện tượng xã
hội. Có nhiều tơn giáo khác nhau trên thế giới nhưng nhìn chung mọi tơn giáo đều hướng
tới con người với những giá trị tốt đẹp. Chủ nghĩa cộng sản không phủ nhận tuyệt đối tôn
giáo mà dung hịa tơn giáo trong đời sống, chính trị, xã hội để phát triển. Ở nước ta cũng
vậy, tơn giáo đóng vai trị nhất định trong đời sống tinh thần. Nhìn chung mọi giáo lý của
các tôn giáo đều chứa đựng tính nhân văn sâu sắc. Những triết lý ấy giúp cho con người
sống với nhau gần gũi hơn, có trách nhiệm hơn với bản thân, cộng đồng, với sự phát triển
chung của tồn xã hội. Tơn giáo là sự tự do tín ngưỡng của mỗi cơng dân. Vì vậy trong
định hướng trên con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa, Đảng và nhà nước ta ln coi
trọng vai trị của các tôn giáo. Mặc khác ở Việt Nam trong lịch sử, tôn giáo đã bị lợi dụng
để phục vụ cho mục đích chính trị và ngày nay vẫn cịn tồn tại những kẻ lợi dụng tôn giáo
để chống phá nhà nước xã hội chủ nghĩa của ta. Chính vì thế mà mỗi người dân cần xác
định rõ tư tưởng tự do tín ngưỡng phải đi đơi với chấp hành pháp luật của Đảng và nhà
nước. Đó cũng là lý do chúng em quyết định chọn đề tài “Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về tôn giáo và vận dụng vấn đề tôn giáo trong việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết
dân tộc Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu, để trước hết mỗi thành viên trong nhóm có
những hiểu biết nhất định về các tôn giáo trên thế giới và đặc biệt là các tôn giáo ở nước
ta. Đồng thời cũng nắm được các vấn đề và giải pháp giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt
Nam.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Tơn giáo là một hình thái ý thức xã hội ra đời và biến đổi theo sự biến động của
hồn cảnh lịch sử xã hội. Vì vậy, nhóm em muốn tìm hiểu và góp phần làm sáng tỏ bản
chất, nguồn gốc, và tính chất của tơn giáo. Đồng thời cũng tìm hiểu và nắm bắt tình hình
và giải pháp giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. Mặc khác, ở nước ta hiện
4
nay tơn giáo đang có xu hướng phát triển mạnh mẽ, vậy làm sao để vận dụng vấn đề tôn
giáo trong việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc Việt Nam? Trên đây là những mục
đích mà nhóm chúng em muốn hướng tới khi nghiên cứu đề tài: “Quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo và vận dụng vấn đề tôn giáo trong việc phát huy sức mạnh
đại đoàn kết dân tộc Việt Nam”.
3. Phương pháp nghiên cứu
Tra cứu tài liệu, tổng hợp và phân tích thơng tin, nghiên cứu và đưa ra những nhận
xét, đánh giá.
Vận dụng quan điểm toàn diện và hệ thống, kết hợp khái qt và mơ tả, phân tích,
tổng hợp.
5
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ TƠN GIÁO
1.1. Bản chất của tơn giáo
Quan điểm về tơn giáo trong các hệ tư tưởng ngồi chủ nghĩa Mác – Lênin:
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội ra đời rất sớm trong lịch sử nhân loại và tồn tại
phổ biến ở hầu hết các cộng đồng người trong lịch sử hàng ngàn năm qua. Nói chung, bất
cứ tơn giáo nào, với hình thái phát triển đầy đủ của nó, cũng đều bao gồm: ý thức tôn giáo
(thể hiện ở quan niệm về các đấng thiêng liêng cùng những tín ngưỡng tương ứng) và hệ
thống tổ chức tơn giáo cùng với những hoạt động mang tính chất nghi thức tín ngưỡng
của nó.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, "tất cả mọi tơn giáo chẳng qua chỉ là sự
phản ánh hư ảo – vào trong đầu óc của con người – của những lực lượng ở bên ngoài chi
phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế
đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế"1.
Tôn giáo là niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, vơ hình, mang tính thiêng liêng,
được chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại một cách hư ảo, nhằm lý giải
những vấn đề trên trần thế cũng như ở thế giới bên kia. Niềm tin đó được biểu hiện rất đa
dạng, tuỳ thuộc vào những thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh địa lý – văn hóa khác nhau, phụ
thuộc vào nội dung từng tôn giáo, được vận hành bằng những nghi lễ, những hành vi tôn
giáo khác nhau của từng cộng đồng xã hội tơn giáo khác nhau.
Ngồi các khái niệm trên cịn có các khái niệm của các nhà triết học duy vật trước
Mác, của các nhà xã hội học tư sản, của E.Durkheim, của M. Weber, của quan điểm phân
tâm học, của nhân loại học, văn hóa học,…
Tơn giáo theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin:
1 C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, t.20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.437.
6
Tôn giáo là một hiện tượng thuộc đời sống tinh thần của xã hội ra đời rất sớm trong
lịch sử nhân loại và chịu sự quy định của đời sống vật chất. Tôn giáo tồn tại phổ biến
trong hầu hết các cộng đồng người trong lịch sử. Trong các tác phẩm của mình, C. Mác và
P. Ăng – ghen đều xem sản xuất vật chất là cơ sở của sự hình thành và phát triển của các
hiện tượng mang tính lịch sử xã hội, trong đó có tơn giáo từ đó ta có thể suy ra ở đâu có
sản xuất vật chất thì ở đó có tơn giáo. Bất cứ tơn giáo nào, với hình thái phát triển đầy đủ
của nó cũng bao gồm: ý thức tơn giáo, hệ thống tổ chức tơn giáo và những hoạt động
mang tính chất nghi thức tín ngưỡng.
Tơn giáo là một sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện tự nhiên và lịch
sử cụ thể, xác định. Bản chất của tôn giáo là sự phản ánh bế tắc, bất lực của con người
trước tự nhiên, xã hội. Tôn giáo ra đời khi con người khơng thể giải thích được các hiện
tượng tự nhiên, ví dụ: việc tơn thờ thần sấm, thần rừng, thần mưa,…
Tơn giáo ngày càng biến đổi và có sự phát triển không ngừng cùng với sự phát triển
của các điều kiện kinh tế – xã hội, văn hóa, chính trị của lịch sử. Trước đây khi chưa giải
thích được các hiện tượng tự nhiên thì người ta thường dùng tơn giáo để giải thích, sau
này khi khoa học kỹ thuật phát triển đã có khả năng giải thích các hiện tượng tự nhiên thì
tơn giáo lại góp phần bù đắp những hụt hẫng trong cuộc sống, xoa dịu những nỗi đau tâm
hồn trong con người thời hiện đại.
1.2. Nguồn gốc tơn giáo
V.I.Lênin gọi đó là tồn bộ những ngun nhân và điều kiện tất yếu làm nảy sinh
niềm tin tôn giáo là những nguồn gốc tôn giáo. Nguồn gốc đó bao gồm: nguồn gốc kinh tế
– xã hội, nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc tâm lý.
Nguồn gốc kinh tế – xã hội là toàn bộ những nguyên nhân và điều kiện khách quan
của đời sống xã hội tất yếu làm nảy sinh và tái hiện những niềm tin tơn giáo. Trong xã hội
ngun thủy, do trình độ lực lượng sản xuất thấp kém con người cảm thấy yếu đuối và bất
lực trước thiên nhiên rộng lớn và bí ẩn, vì vậy họ đã gắn cho tự nhiên những sức mạnh,
quyền lực to lớn, thần thánh hóa những sức mạnh đó. Từ đó, họ xây dựng nên những biểu
7
hiện tôn giáo để thờ cúng. Khi xã hội phân chia thành giai cấp đối kháng, con người cảm
thấy bất lực trước sức mạnh của thế lực giai cấp thống trị. Họ khơng giải thích được
nguồn gốc của sự phân hóa giai cấp và áp bức, bóc lột, tội ác,… tất cả họ quy về số phận,
định mệnh và cam chịu. Từ đó, họ đã thần thánh hóa một số người thành những thần
tượng có khả năng chi phối suy nghĩ và hành động người khác mà sinh ra tôn giáo.
Chúng ta có thể thấy rằng, sự thống trị của tự nhiên đối với con người khơng phải do
thuộc tính và quy luật của bản thân tự nhiên chi phối mà do tính chất mối quan hệ của con
người với tự nhiên, nghĩa là sự yếu kém về trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Như vậy, không phải bản thân tự nhiên sinh ra tôn giáo mà là mối quan hệ đặc thù của tự
nhiên với con người do trình độ sản xuất quyết định, sự bần cùng về kinh tế, áp bức, bóc
lột về chính trị, bất lực trước những bất công của xã hội là nguồn hốc sâu xa của sự hình
thành tơn giáo.
Nguồn gốc nhận thức của tơn giáo là sự tuyệt đối hóa, chủ quan trong nhận thức của
con người. Ở những giai đoạn lịch sử nhất định, nhận thức của con người về tự nhiên, xã
hội và bản thân mình cịn có giới hạn. Mặt khác, trong tự nhiên và xã hội có nhiều điều
khoa học chưa khám phá và giải thích được nên con người lại tìm đến tơn giáo. Sự nhận
thức của con người khi xa rời hiện thực, thiếu khách quan dễ rơi vào ảo tưởng, thần thánh
hóa đối tượng.
Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo không chỉ bao gồm sự sợ hãi, lo âu của con người
trước sức mạnh của tự nhiên và xã hội mà vẫn dẫn đến việc sinh ra tơn giáo mà cả những
tâm lý tích cực như lịng biết ơn, sự kính trọng cũng có khi được thể hiện qua tơn giáo.
1.3. Tính chất của tôn giáo
Tính lịch sử của tôn giáo:
Con người sáng tạo ra tơn giáo. Mặc dù nó cịn tồn tại lâu dài, nhưng nó chỉ là một
phạm trù lịch sử. Tơn giáo chỉ xuất hiện khi khả năng tư duy trừu tượng của con người đạt
tới mức độ nhất định.
8
Tôn giáo là sản phẩm của lịch sử. Trong từng giai đoạn lịch sử, tơn giáo có sự biến
đổi cho phù hợp với kết cấu chính trị và xã hội của thời đại đó. Thời đại thay đổi, tơn giáo
cũng có sự thay đổi, điều chỉnh theo.
Đến một giai đoạn lịch sử nhất định, khi con người nhận thức được bản chất các
hiện tượng tự nhiên, xã hội, khi con người làm chủ được tự nhiên, xã hội, làm chủ được
bản thân mình và xây dựng được niềm tin cho mỗi con người thì tơn giáo sẽ khơng cịn.
Tính q̀n chúng của tôn giáo:
Tôn giáo là nơi sinh họat văn hóa, tinh thần của một số bộ phận quần chúng nhân
dân lao động. Hiện nay, số lượng tín đồ của các tôn giáo chiếm tỷ lệ khá cao trong dân số
thế giới.
Tuy tôn giáo phản ánh hạnh phúc hư ảo, song nó phản ánh khát vọng của những con
người bị áp bức về một xã hội tự do, bình đẳng, bác ái,… Bởi vì, tơn giáo thường có tính
nhân văn, nhân đạo hướng thiện. Vì vậy, cịn nhiều người ở trong các tầng lớp khác nhau
của xã hội.
Tính chính trị của tơn giáo:
Tính chính trị của tơn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai cấp, các giai
cấp thống trị đã lợi dụng tôn giáo để phục vụ lợi ích của mình.
Trong nội bộ tơn giáo, cuộc đấu tranh giữa các dòng, hệ, phái nhiều khi cũng mang
tính chính trị. Trong những cuộc đấu tranh ý thức hệ, thì tơn giáo thường là một bộ phận
của đấu tranh giai cấp.
Ngày nay, tơn giáo đang có chiều hướng phát triển, đa dạng, phức tạp không chỉ ở
quốc gia mà cịn cả phạm vi quốc tế. Đó là sự xuất hiện các tổ chức quốc tế của tôn giáo
với thế lực lớn đã tác động đến nhiều mặt, trong đó có chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Vì vậy, cần nhận thức rõ: đa số quần chúng đến với tôn giáo nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh
thần; song trên thực tế đã và đang bị các thế lực chính trị – xã hội lợi dụng để thực hiện
mục đích ngồi tơn giáo của họ.
9
1.4. Nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Khi giải quyết vấn đề tôn giáo cần nắm vững các nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất, cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo, bởi vì:
ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trị, tác động của từng tơn giáo đối với đời sống xã
hội không như nhau. Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh
vực của đời sống xã hội ln có sự khác biệt. Vì vậy cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể
khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối với những vấn đề có liên quan đến tơn giáo.
Thứ hai, khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tơn giáo phải gắn liền với q
trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Điều đó nói lên rằng: muốn thay đổi ý thức
xã hội, trước hết cần phải thay đổi bản thân tồn tại xã hội; muốn xóa bỏ ảo tưởng nảy sinh
trong tư tưởng con người, phải xóa bỏ nguồn gốc sinh ra ảo tưởng ấy. Đấu tranh chống
những biểu hiện tiêu cực trong tôn giáo là gián tiếp đấu tranh với cái thế giới đang cần có
ảo tưởng. Điều cần thiết trước hết phải xác lập được một thế giới hiện thực khơng có áp
bức, bất cơng, nghèo đói và thất học,… cùng những tệ nạn nảy sinh trong xã hội.
Thứ ba, tôn trọng, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo và khơng tín ngưỡng
tơn giáo của nhân dân. Các tơn giáo hoạt động trong khn khổ pháp luật, bình đẳng
trước pháp luật. Quyền ấy không chỉ thể hiện về mặt pháp lý mà còn được thực hiện trên
thực tiễn một cách nhất quán, xuyên suốt, lâu dài của các Đảng. Tuy nhiên, đi đôi với việc
tôn trọng, đảm bảo quyền tự do tính ngưỡng phải chống lại những kẻ lợi dụng tự do tín
ngưỡng để chống phá cách mạng.
Thứ tư, cần phân biệt hai mặt nhu cầu tín ngưỡng, tơn giáo và lợi dụng tín ngưỡng
tơn giáo. Vì có sự phân biệt được hai mặt đó mới tránh khỏi khuynh hướng tả hoặc hữu
trong quá trình quản lý, ứng xử với những vấn đề nảy sinh từ tín ngưỡng, tơn giáo. Nhu
cầu tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần chính đáng của đồng bào có đạo sẽ cịn tồn
tại lâu dài, phải được tôn trọng và bảo đảm. Mọi biểu hiện vi phạm quyền ấy là trái với tư
tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin.
10
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TƠN GIÁO Ở VIỆT NAM
2.1. Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam
Tôn giáo tại Việt Nam khá đa dạng, gồm có các nhánh Phật giáo như Đại thừa, Tiểu
thừa, Hòa Hảo,… một số nhánh Kitô giáo như Công giáo Roma, Tin Lành, tôn giáo nội
sinh như Đạo Cao Đài, và một số tơn giáo khác. Nền tín ngưỡng dân gian bản địa cho tới
nay vẫn có ảnh hưởng nhất định tại Việt Nam. Nhiều người dân Việt Nam xem họ là
những người khơng tơn giáo, mặc dù họ có đi đến các địa điểm tôn giáo vào một vài dịp
trong năm. Theo tác giả Trần Đình Hượu, người Việt Nam được cho là ít có tinh thần tơn
giáo, các tơn giáo thường được tập trung ở mặt thờ cúng, còn mặt giáo lý, tinh thần lại ít
được quan tâm2. Theo số liệu cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2019 thì
cả nước có hơn 13,162 triệu người xác nhận theo một trong những tôn giáo được đăng ký
chính thức. Năm tơn giáo lớn nhất là Cơng giáo, Phật giáo, Hịa Hảo, Tin Lành, và Cao
Đài; các tơn giáo khác chiếm tỷ trọng nhỏ3. Cùng với đó, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là
một loại hình sinh hoạt tôn giáo phổ biến, được thực hành bởi đa số dân cư. Để quản lý
nhà nước về tơn giáo, Chính phủ Việt Nam đã thành lập Ban Tơn giáo Chính phủ để phục
vụ việc quản lý hoạt động của các tơn giáo, tín ngưỡng. Việt Nam thời cổ đã có các hình
thức thực hành tơn giáo đối với các đối tượng tự nhiên. Các hình trang trí trên trống đồng
Đơng Sơn đã phản ánh các nghi lễ tôn giáo thời ấy, trong đó mơ tả rất nhiều về hình ảnh
một loài chim, mà cụ thể là chim Lạc, khiến các sử gia tin rằng, chúng là đối tượng được
người Việt cổ tin thờ. Ngoài ra, con Rồng cũng được xuất hiện nhiều trong các sản phẩm
nghệ thuật, mỹ thuật Việt Nam, phát sinh từ việc thờ kính Lạc Long Quân, một huyền
thoại về người được cho là cha đẻ của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, các đối tượng tự
nhiên khác như động vật, núi, sông, biển,... cũng được người Việt tôn làm thần bảo vệ,
chúc phúc cho con người. Tơn giáo tại Việt Nam có mối liên hệ với nền văn minh Trung
Hoa và văn minh Ấn Độ nhưng người Việt còn kết hợp yếu tố truyền thống đạo đức dân
tộc mình vào đó để hình thành tơn giáo mang bản sắc riêng. Trong thời quân chủ tại Việt
Nam, Nho giáo được chính quyền khuyến khích, được xem là nền tảng của chế độ khoa
2 Trần Đình Hượu, Đến hiện đại từ truyền thống. 1994, trang 35.
3 Tổng cục Thống kê (2019). "Kết quả toàn bộ Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019".
11
cử, nhiều văn miếu được xây dựng trong cả nước. Tuy nhiên trong các Triều đại như nhà
Lý, nhà Trần và các chúa Nguyễn Phật giáo cũng có vai trị quan trọng trong triều đình và
được các chính quyền phong kiến khuyến khích. Các tơn giáo có mặt lâu đời tại Việt Nam
là Khổng giáo, Lão giáo và Phật giáo (gọi chung là tam giáo). Sau năm 1954, khi người
cộng sản cầm quyền tại miền Bắc, họ xem vấn đề tâm linh như là một đối tượng đấu tranh
tư tưởng, thậm chí là đấu tranh bằng ý thức hệ. Họ cố gắng bài trừ mê tín dị đoan đến
mức mọi chuyện liên quan đến tâm linh đều bị đả phá Đền Hùng cũng bị phá vì bị cho
rằng đó là mê tín dị đoan. Họ xóa đi tất cả, trong khi đáng lẽ tín ngưỡng tơn giáo là thuộc
về nhu cầu, quyền cơ bản của con người. Ở miền Bắc, từ năm 1954 cho đến đầu những
năm 1980 hầu như khơng tồn tại các hoạt động thực hành tín ngưỡng nữa thì trong
khoảng thời gian đó, trong miền Trung và miền Nam vẫn duy trì. Việc ngắt quãng trong
một thời gian dài, từ 1954 đến đầu những năm 80 đã khiến cho hệ thống lễ hội bị phá vỡ.
Từ năm 1986 đến nay, gần 8.000 lễ hội đã được phục hồi và hình thành mới, được quan
tâm nhiều nhất là lễ hội dân gian. Việc phục hồi lễ hội đang được phản chiếu dưới nhãn
quan là văn hóa tinh thần mà qn đi mất phần trình diễn, phơ bày nghi thức, biểu hiện
của người dân đối với thần linh. Hiện nay, nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam chủ trương tự do tín ngưỡng, nhưng có một số nguyên tắc khiến việc thực hành đôi
khi lại bị ngăn cản bởi một vài cá nhân thiếu hiểu biết. Ông Nguyễn Quốc Tuấn, Viện
trưởng Viện nghiên cứu tôn giáo, nhận xét "dường như những chính sách về tơn giáo
nghiêm trọng và sai lầm trước đây mà cả hiện nay nữa đã tạo ra một q trình sa mạc hóa
về tâm linh ở Việt Nam, để giờ đây tâm hồn của người Việt đã biến thành một bãi hoang
có thể chấp nhận các loại bụi gai xương rồng và không thể trồng được loại cây có hoa
thơm, quả ngọt ". Theo ông, đây là bài học về việc đừng nên tạo ra những sa mạc nhận
thức như đã từng làm, vì khơng ai khác, chính các thế hệ người Việt sau này sẽ phải gánh
chịu hậu quả.
12
2.2. Thực trạng giải quyết các vấn đề tôn giáo ở Việt Nam
2.2.1. Ưu điểm
Phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hóa, đạo đức của tơn giáo. Do tơn giáo có sự
đồng hành lâu dài với con người trong lịch sử, nên có thể xem nó như một phần tài sản
văn hóa của nhân loại. Trong q trình phát triển, lan truyền trên bình diện thế giới, tơn
giáo không chỉ đơn thuần chuyển tải niềm tin của con người, mà cịn có vai trị chuyển tải,
hồ nhập văn hóa và văn minh, góp phần duy trì đạo đức xã hội nơi trần thế. Nó có ảnh
hưởng mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của con người. Với tư cách một bộ phận của ý
thức hệ tôn giáo đã đem lại cho cộng đồng xã hội, cho mỗi khu vực, mỗi quốc gia, mỗi
dân tộc những biểu hiện độc đáo thể hiện trong cách ứng xử, lối sống, phong tục, tập
quán, trong các yếu tố văn hóa vật chất cũng như tinh thần.
Điều dễ nhận thấy là, những hệ thống đạo đức của tôn giáo rất khác nhau về niềm
tin, rất xa nhau về địa lý vẫn có một mẫu số chung là nội dung khuyên thiện. Điểm mạnh
trong truyền thống đạo đức tơn giáo là ngồi những điều phù hợp với tình cảm đạo đức
của nhân dân, nó được thực hiện thơng qua tình cảm tín ngưỡng, niềm tin vào giáo lý. Do
đó, tình cảm đạo đức tơn giáo được tín đồ tiếp thu, tạo thành đức tin thiêng liêng bên
trong và chi phối hành vi ứng xử của họ trong các quan hệ cộng đồng. Họat động hướng
thiện của con người được tơn giáo hóa sẽ trở nên mạnh mẽ hơn, nhiệt thành hơn.
Là hình thức phản ánh đặc thù, phản ánh hư ảo thế giới hiện thực, tơn giáo đã góp
phần chế ngự các hành vi phi đạo đức. Do tuân thủ những điều răn dạy về đạo đức của
các tơn giáo, nhiều tín đồ đã sống và ứng xử đúng đạo lý, góp phần làm cho xã hội ngày
càng thuần khiết. Đặc biệt, đạo đức tơn giáo được hình thành trên cơ sở niềm tin vào cái
siêu nhiên (Thượng đế, Chúa, Thánh Ala) và sau này, Đức Phật cũng được thiêng hóa,
nên các tín đồ thực hành đạo đức một cách rất tự nguyện, tự giác. Song, suy cho cùng,
việc thực hiện những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức ấy cũng là để phục vụ cho niềm tin
siêu nhiên. Sự đan xen giữa hy vọng và sợ hãi, giữa cái thực và cái thiêng đã mang lại cho
tơn giáo khả năng thuyết phục tín đồ khá mạnh mẽ. Trên thực tế, chúng ta thấy nhiều
13
người cung tiến rất nhiều tiền của vào việc xây dựng chùa chiền, làm từ thiện,… vốn là
những tín đồ tôn giáo.
Đạo đức tôn giáo hướng con người đến những giá trị nhân bản, góp phần tích cực
vào việc hồn thiện đạo đức cá nhân. Bất kỳ tôn giáo nào cũng đề cập đến tình yêu. Tinh
thần “từ bi” trong Phật giáo khơng chỉ hướng đến con người, mà cịn đến cả mn vật, cỏ
cây Phật giáo kêu gọi lịng nhân đạo, yêu thương và bảo vệ sự sống. Đặc biệt, trong quan
hệ giữa con người với con người, Phật giáo muốn tình yêu thương ấy phải biến thành
hành động “bố thí”, cứu giúp những người đau khổ hoặc “nhẫn nhục” để giữ gìn đồn kết.
Muốn giải thốt khỏi đau khổ, con người phải tự hoàn thiện đạo đức cá nhân, diệt
trừ tham, sân si, xố bỏ vơ minh, chặt đứt cây “nghiệp” để vượt qua biển khổ luân hồi.
Đạo đức của Kitơ giáo cũng đề cập đến tình u: yêu thương bản thân mình, yêu tha nhân
và yêu thiên nhiên, trong đó, yêu tha nhân là trọng tâm của quan niệm đạo đức về tình
yêu. Những chuẩn mực của đạo đức Kitơ giáo giúp conngười hồn thiện đạo đức cá nhân
trong quan hệ với cộng đồng. Tình yêu tha nhân ở đây khơng đơn thuần là tình u trong
tâm tưởng mà được cụ thể hóa: cho kẻ đói ăn, cho kẻ rách mặc, chăm sóc người ốm đau,
bệnh họan, khuyên can người lầm lỗi,… Tóm lại, đây là những hành vi đạo đức rất cụ thể,
rất thiết thực khi trong xã hội còn nhiều cảnh khổ cần được cứu vớt, giúp đỡ.
Tuy nhiên, tình u, lịng từ bi mà đạo đức tơn giáo đề cập đến cịn chung chung,
trừu tượng. Các tôn giáo đều muốn san bằng mọi bất công, mâu thuẫn trong xã hội bằng
đạo đức ý tưởng đó dù tất đẹp, nhưng khó có thể hiện thực hóa trong cuộc sống trần thế.
Song, có thể nói, việc hồn thiện đạo đức cá nhân mà đạo đức tơn giáo đề ra nhằm hướng
đến mục đích siêu nhiên, hướng đến chốn Thiên đường của Chúa hay cõi Niết bàn của
Phật, dẫu sao vẫn có những tác động tích cực đến đạo đức cá nhân và xã hội.
Tất cả các tơn giáo như: Phật Giáo, Kitơ Giáo, Tin Lành, Hịa Hảo, Cao Đài,…đều
hướng thiện, muốn con người hoàn hảo hơn, tôn giáo nào cũng dạy con người làm việc
tốt không gây oán thù, tu dưỡng rèn luyện đạo đức và giúp con người hiểu hơn về nhận
thức cũng như bản chất con người.
14
Hầu hết các tôn giáo đều hướng tới con người tới cái thiện cái tốt đẹp khuyên răn
con người làm điều hay lẽ phải và nhân từ với đồng loại.
2.2.2. Hạn chế
Bên cạnh mặt ưu điểm tôn giáo ở Viêt Nam hiện nay cịn có những hạn chế của đạo
đức tôn giáo. Một khi đã thâm nhập vào ý thức con người (các tín đồ, các giáo dân và
quần chúng chịu ảnh hưởng của tơn giáo), nó sẽ làm cho con người lãng quên hiện thực,
đặt tất cả tinh thần, tâm tưởng vào thần thánh hư ảo mà họ tin đó là giá trị đích thực. Chức
năng thế giới quan của tơn giáo dẫn dắt các tín đồ theo một triết lý sống không hành
động, không đấu tranh trong thực tại, lấy tu dưỡng tâm tính làm điều cốt yếu để mau
chóng được giải thốt ở bên ngồi thực tại, nơi Thiên đường của Chúa hay Niết bàn của
Phật. Theo cách nhìn của tơn giáo, cuộc đời là nơi đầy những cám dỗ, lành ít, dữ nhiều,
đầy những cạm bẫy, những cái ác, những sự ô uế, vẩn đục làm vấy bẩn linh hồn. Muốn
sớm được đến gần Chúa và trở về nơi nước Chúa, các con chiên phải tránh xa qủy dữ.
Muốn chứng được Niết bàn (đạt đến giải thốt), các tín đồ phật tử phải từ bỏ mọi ham
muốn dục vọng, diệt trừ tham, sân, si. Tất cả những quan niệm, những triết lý sống đó cho
thấy mặt tiêu cực của thế giới quan tôn giáo. Hạnh phúc trong đạo đức tôn giáo là hạnh
phúc hư ảo. Tôn giáo không đề cao cuộc sống trần gian. Mặt khác, nó khun con người
nhẫn nhục trước tình cảnh nơ lệ, biết sợ hãi trước sức mạnh siêu nhiên. Chính vì vậy, tôn
giáo trở thành công cụ phục vụ đắc lực cho lợi ích của giai cấp thống trị (dù rằng, lúc đầu
tôn giáo không phải là của giai cấp thống trị). Tơn giáo làm cho nhân dân đắm chìm vào
đam mê, làm tê liệt ý chí đấu tranh giai cấp. K. Marx gọi “tôn giáo là thuốc phiện của
nhân dân” theo nghĩa đó và cũng vì vậy đạo đức tơn giáo đối lập với đạo đức chân chính.
Về mặt nào đó, đạo đức tơn giáo đã tạo cho con người thế giới quan và nhân sinh quan sai
lệch, làm hạn chế tính tích cực, chủ động và sáng tạo của con người. Đạo đức tôn giáo
hướng con người tới khát vọng hạnh phúc, song đó là thứ hạnh phúc hư ảo, hảo huyền.
Tinh thần nhẫn nhục mà các tôn giáo đề ra thể hiện thái độ cực đoan, thủ tiêu đấu tranh.
Nó tạo cho các tín đồ thái độ bàng quan trước thế giới hiện thực, bằng lòng với số phận
khơng tích cực đấu tranh chống lại những cái xấu, cái ác, an ủi và ru ngủ con người
trong niềm tin rằng kẻ gây tội ác sẽ phải chịu “quả báo” hoặc bị trừng trị ở kiếp sau.
15
Chính tâm lý đó đã ngăn cản con người đi đến hạnh phúc thực sự của mình nơi trần thế.
Một số phần tử xấu lợi dụng hoặc cuồng tín việc bảo vệ tôn giáo để gây nhiều chiến
tranh, bất ổn làm ảnh hưởng đến hịa bình thế giới gây nhiều tệ nạn xã hội như mê tín dị
đoan, bói tốn, chữa bệnh bằng bùa phép, nhập hồn lên đồng lên cốt và một số lý thuyết
của tôn giáo cản trở nhận thức của con người cũng như khiến họ có nhận thức sai lệch về
một số vấn đề của tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
Thêm nữa, đạo đức tôn giáo quá chú trọng đến việc hoàn thiện đạo đức cá nhân
nhưng lại bỏ quên các mối quan hệ xã hội của con người. Với tính cách một hình thái ý
thức xã hội, đạo đức cũng phản ánh tồn tại xã hội, cũng có q trình phát sinh, phát triển
và biến đổi cùng với điều kiện sinh sống của con người. Do vậy, muốn hồn thiện đạo đức
cá nhân, khơng thể tách nó khỏi những điều kiện sinh họat vật chất cùng các quan hệ xã
hội khác của con người. K. Marx đã khẳng định rằng, “bản chất con người là tổng hoà
những quan hệ xã hội” và nhân cách con người cũng chỉ có thể được hồn thiện trong các
mối quan hệ xã hội mà thôi. Như trên đã phân tích, đạo đức tơn giáo có nhiều điểm tích
cực, phù hợp với xã hội ta hiện nay. Song, cũng sẽ là khơng khoa học, nếu chúng ta tuyệt
đối hóa đạo đức tơn giáo, thổi phồng vai trị của nó. F. Engels từng khẳng định rằng, ngay
cả một số yếu tố tiến bộ của đạo đức tôn giáo cũng chỉ giống với đạo đức mới của chúng
ta về mặt hình thức mà thơi. Vì vậy, mặc dù tơn giáo “là sự phản kháng chống lại sự
nghèo nàn của hiện thực” nhưng rất cuộc nó vẫn chỉ là một sự phản kháng mang tính tiêu
cực, thụ động của con người mà thơi. Có thể nói, trong điều kiện hiện nay, việc phân tích
vai trị của đạo đức tơn giáo để khẳng định một cách khách quan, khoa học những đóng
góp, đồng thời chỉ ra những ảnh hưởng tiêu cực của nó trong đời sống xã hội là điều cần
thiết. Chúng ta hy vọng rằng, những giá trị nhân văn, hướng thiện, những chuẩn mực đạo
đức tiến bộ trong tôn giáo sẽ giúp phần làm phong phú hệ giá trị đạo đức của dân tộc và
hữu ích trong cơng cuộc xây dựng xã hội mới. Tôn giáo làm cho con người bằng lòng với
thực tế họ trở nên thụ động làm mất tính sáng tạo của con người, tơn giáo dễ làm cho
con người mê tín tâm lí sợ hãi chờ đợi nhờ cậy vào Thần Thánh, Phật mỗi khi gặp khó
khăn, tôn giáo dễ bị lợi dụng bởi các thế lực khác điều đó thường dẫn đến những hậu quả
xấu, ảnh hưởng đến xã hội.
16
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO HIỆN NAY
3.1.
Quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề tôn giáo
Cùng với sự nghiệp đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, Đảng Cộng sản Việt Nam
(CSVN) đã từng bước đổi mới nhận thức về vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo. Bước
ngoặt trong sự đổi mới tư duy lí luận của Đảng CSVN về vấn đề tôn giáo được đánh dấu
bằng sự ra đời Nghị quyết số 24 của Bộ Chính trị, ngày 16/10/1990 về tăng cường cơng
tác tơn giáo trong tình hình mới.
Về nhận thức lí luận, Nghị quyết 24 nêu lên “Ba luận đề” cơ bản về vấn đề tơn
giáo, tín ngưỡng: Một là, tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân; hai là, tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài và ba là, đạo đức tơn giáo có nhiều điều
phù hợp với cơng cuộc xây dựng xã hội mới. Để có được những tư tưởng đổi mới có tính
“đột phá” nêu trên, Đảng CSVN tìm tịi, trăn trở trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tơn giáo vào tình hình tơn giáo ở Việt Nam.
Trong q trình đổi mới, tư duy lí luận của Đảng CSVN về vấn đề tôn giáo tiếp tục được
bổ sung, hồn thiện. Điều đó được thể hiện ở các nội dung cơ bản sau đây:
Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đây
là khâu đột phá đầu tiên trong nhận thức tư duy lí luận của Đảng CSVN về vấn đề tôn
giáo. Quan điểm này đã đi vào vấn đề có tính “bản thể luận” của tơn giáo vì đã nêu lên và
trả lời cho câu hỏi: Tơn giáo là gì? Trước đây, tơn giáo thường được tiếp cận từ hai góc độ
tư tưởng triết học và chính trị với hai định nghĩa mang tính kinh điển: “tơn giáo là hình
thái ý thức xã hội” và “tơn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. Đây là hướng tiếp cận
đúng, nhưng chưa đủ theo quan điểm mới của Đảng CSVN về vấn đề tơn giáo. Bởi vì, tơn
giáo khơng chỉ là triết học (một bộ phận của thượng tầng kiến trúc, phản ánh thế giới
17
quan, nhân sinh quan), khơng chỉ là vấn đề chính trị (bị các thế lực chính trị xấu lợi
dụng), mà tơn giáo cịn là lịch sử (phản ánh tiến trình lịch sử của nhân loại), là nhận thức
(giải thích về thế giới và con người), là văn hóa (góp phần hình thành nên những nền văn
minh và nếp sống văn hóa của lồi người), là đạo đức (góp phần điều chỉnh hành vi của
con người hướng tới những giá trị chân, thiện, mĩ), là lối sống (góp phần hình thành lối
sống của những người có đạo) và tơn giáo là một thực thể xã hội (có lực lượng tín đồ
hùng hậu, có tổ chức giáo hội, tơn giáo chân chính góp phần vào củng cố cộng đồng và sự
ổn định xã hội), v.v...
Hai là, từ việc khẳng định tôn giáo cịn “tồn tại lâu dài” đến xác định rõ tơn giáo,
tín ngưỡng “đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta”. Nếu như luận đề thứ nhất của Nghị quyết 24 đi vào vấn đề có tính “bản thể
luận” của tơn giáo, thì luận đề thứ hai này lại đề cập tới “nguồn gốc và sự tồn tại” của tôn
giáo. Trước đây, khi giải thích về sự ra đời, tồn tại và phát triển của tôn giáo, chúng ta
thường chỉ nhấn mạnh đến hai nguồn gốc: tự nhiên và xã hội. Về nguồn gốc tự nhiên, do
trình độ hiểu biết của con người cịn hạn chế, khơng giải thích được thế giới tự nhiên, bất
lực, sợ hãi trước thiên nhiên nên con người gán cho những hiện tượng tự nhiên là thần
thánh, như Lênin đã chỉ rõ: sự sợ hãi đẻ ra thần thánh. Về nguồn gốc xã hội, khi xã hội
hình thành đối kháng giai cấp và có sự áp bức bóc lột, thì “Sự bất lực của giai cấp bị bóc
lột trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào cuộc đời tốt đẹp
hơn ở thế giới bên kia, cũng giống y như sự bất lực của người dã man trong cuộc đấu
tranh chống thiên nhiên đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma quỷ, vào những phép màu” 4, tức
là người ta tìm đến với tơn giáo để được che chở và cứu vớt. Với quan điểm nhìn nhận
mới, nguồn gốc tự nhiên và xã hội của tôn giáo vẫn đúng, nhưng chưa đủ. Vì tơn giáo ra
đời, tồn tại và phát triển cịn có những ngun nhân khác nữa, trong đó có ngun nhân
nhận thức, tâm lí,… gắn với con người. Nhìn chung, các tơn giáo đều tập trung lí giải về
những vấn đề cơ bản của triết học: con người từ đâu đến, con người đang đứng ở đâu, đặc
biệt con người sau khi chết sẽ đi về đâu, mối quan hệ giữa con người khi sống và con
4 V.I.Lênin: Tồn tập, t.12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.169-170.
18
người sau khi chết ra sao? Ở những góc độ khác nhau, các tơn giáo đều nhìn nhận thế giới
sau cái chết với những lời giải thích rất hấp dẫn.
3.2.
Phương hướng và giải pháp giải quyết của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với vấn
đề tôn giáo hiện nay
Thực tiễn cho thấy, các thế lực thù địch lợi dụng hoạt động tôn giáo, vấn đề tôn
giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị - xã hội là vì họ
cịn có những môi trường, điều kiện nhất định. Môi trường, điều kiện đó xuất phát từ tính
chất nhạy cảm của tơn giáo, từ những phức tạp trong hoạt động của các tôn giáo, cũng
như hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên lĩnh vực này của các cơ quan chức năng. Do
đó, làm tốt cơng tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tơn giáo là một trong những phương
pháp hữu hiệu để tạo lòng tin của giáo dân đối với chính quyền và đường lối, chính sách
về tơn giáo của Đảng, Nhà nước; thu hẹp mưu đồ lợi dụng tôn giáo để hoạt động chống
phá. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, cần thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp sau:
Một là, tuyên truyền, nâng cao nhận thức của xã hội về tôn giáo và công tác tôn
giao. Tăng cường công tác tuyên truyền về hoạt động tôn giáo và đường lối, chính sách
đúng đắn về tơn giáo của Đảng, Nhà nước, nhất là Luật Tín ngưỡng, tơn giáo và Nghị
định số 162/2017/NĐ-CP, ngày 30-12-2017, của Chính phủ, về “Quy định chi tiết một số
điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo”, để cán bộ, người dân và tổ chức,
cá nhân theo tôn giáo hiểu, nâng cao nhận thức và chủ động thực hiện đúng. Đẩy mạnh
công tác đối ngoại về tôn giáo, chủ động tham gia các diễn đàn tôn giáo quốc tế và khu
vực để cộng đồng quốc tế hiểu đúng đường lối, chính sách về tơn giáo của Đảng và Nhà
nước Việt Nam, lên tiếng ủng hộ Việt Nam trên các diễn đàn song phương và đa phương;
cung cấp thơng tin chính thống phục vụ đấu tranh nhân quyền với các thế lực thù địch vu
cáo Việt Nam về vấn đề “tự do tôn giáo”.
Hai là, tăng cường công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tơn giáo, đẩy mạnh
hướng dẫn các tổ chức tôn giáo hoạt động theo hiến chương, điều lệ đã được Nhà nước
công nhận và theo quy định của pháp luật. Siết chặt kỷ cương, tăng cường hiệu lực, hiệu
19
quả cơng tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo. Lồng ghép nội dung, nhiệm vụ
công tác tôn giáo với các chỉ tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng có
đơng đồng bào tơn giáo ở địa phương.
Tập trung giải quyết có hiệu quả vấn đề nhà, đất liên quan đến tôn giáo. Các địa
phương giải quyết dứt điểm các vụ khiếu kiện, tranh chấp đất đai có liên quan đến tơn
giáo kéo dài nhiều năm và đã có ý kiến kết luận của Thủ tướng Chính phủ, hạn chế cơ hội
để các thế lực thù địch lợi dụng tuyên truyền xuyên tạc. Hoàn thành quy hoạch đất đai và
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các cơ sở tín ngưỡng, tơn giáo; chấn chỉnh
việc phê duyệt các dự án văn hóa du lịch tâm linh gắn với các cơ sở thờ tự tôn giáo để bảo
đảm thực hiện quản lý nhà nước theo quy định của pháp luật. Đẩy mạnh công tác vận
động chức sắc, chức việc, nhà tu hành tôn giáo nâng cao trách nhiệm xã hội trong hoạt
động tôn giáo. Các cấp chính quyền cần thường xuyên gặp gỡ, tiếp xúc, đối thoại với
chức sắc, chức việc, nhà tu hành để nắm tâm tư, nguyện vọng và kịp thời giải quyết các
nhu cầu chính đáng, vấn đề phát sinh trong hoạt động tôn giáo.
Ba là, kiên quyết đấu tranh với các hoạt động lợi dụng tôn giáo để chống phá Đảng
và Nhà nước Việt Nam. Các lực lượng chức năng triển khai các phương tiện, biện pháp,
nhất là đẩy mạnh cơng tác vận động quần chúng tín đồ, tranh thủ chức sắc, cũng như vận
dụng có hiệu quả biện pháp ngoại giao để kiên quyết đấu tranh với các hoạt động lợi dụng
tôn giáo chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam của các thế lực thù địch. Kịp thời định
hướng dư luận trước các vấn đề “nổi cộm”, nhất là các vấn đề liên quan đến tôn giáo, thu
hút sự quan tâm sâu sắc của chức sắc, tín đồ tôn giáo. Đẩy mạnh đấu tranh phản bác các
luận điệu xun tạc về tình hình tơn giáo ở Việt Nam, hịng chia rẽ khối đại đồn kết tồn
dân tộc. Nêu gương điển hình tiên tiến đối với các cá nhân, tổ chức tôn giáo thực hiện tốt
phương hướng hoạt động “sống tốt đời, đẹp đạo”; tích cực tham gia các phong trào thi
đua yêu nước ở các địa phương. Đẩy mạnh công tác đấu tranh đối ngoại đối với các hoạt
động lợi dụng nhân quyền tôn giáo. Chủ động trong công tác tuyên truyền đối ngoại về
tôn giáo, quan tâm hỗ trợ sinh hoạt tôn giáo của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài,
20
tránh để các thế lực xấu lợi dụng, chia rẽ đồng bào; hướng kiều bào về quê hương, đất
nước.
Bốn là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở, củng
cố bộ máy làm cơng tác tơn giáo đủ mạnh, có tính ổn định cao, được giao đủ thẩm quyền
để làm tốt công tác quản lý các hoạt động tín ngưỡng, tơn giao, phát huy vai trị của các
đồn thể nhân dân, thu hút, tập hợp chức sắc, tín đồ tơn giáo tham gia sinh hoạt trong các
đồn thể đó. Chủ động nghiên cứu, nắm vững thông tin và kịp thời tham mưu trong công
tác tôn giáo. Xây dựng cơ chế phối hợp trong công tác tôn giáo giữa các cấp, các ngành
và các cơ quan trong hệ thống chính trị để nâng cao trách nhiệm trong giải quyết vấn đề
phát sinh tôn giáo, nhất là công tác đấu tranh chống lợi dụng tôn giáo để chia rẽ khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị - xã hội.
Như vậy, có thể nói, ổn định tình hình tín ngưỡng, tơn giáo là một trong những yếu
tố quan trọng góp phần vào thành công của công cuộc đổi mới đất nước, phát triển kinh
tế, xã hội, đoàn kết dân tộc và bảo đảm an ninh - quốc phịng. Do vậy, cơng tác quản lý
nhà nước về tín ngưỡng, tơn giáo và công tác bảo đảm an ninh trên lĩnh vực tôn giáo là
những nhiệm vụ quan trọng, vừa bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo, nâng cao đời
sống tinh thần của người dân, vừa hạn chế sự chống phá của các thế lực thù địch, góp
phần tạo sự ổn định và phát triển bền vững đất nước.
21
PHẦN KẾT LUẬN
Như vậy, kế thừa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dựa trên phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác-Lênin và dựa trên đặc điểm, tình hình tơn giáo ở Việt Nam, Đảng ta đã
nhìn nhận vấn đề tơn giáo với tư duy mới và nhờ đó đã đưa lại những cách làm mới trong
việc giải quyết vấn đề tơn giáo ở Việt Nam. Điều đó chứng tỏ nhận thức của Đảng ta về
vấn đề tơn giáo có sự vận động, phát triển rõ nét, đồng thời nó cũng chứng tỏ bản lĩnh và
sự trưởng thành vượt bậc của Đảng ta. Sự đổi mới nhận thức của Đảng ta về vấn đề tơn
giáo nói chung, về vai trị của tơn giáo nói riêng hồn tồn khơng xa rời những nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tơn giáo. Hơn nữa,
sự đổi mới nhận thức này còn là sự tiếp tục những công việc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
lúc đương thời đã từng trăn trở, đó là cần phải bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác
và củng cố chủ nghĩa Mác bằng dân tộc học phương Đông.
Từ nhận thức đúng đắn về nhu cầu tơn giáo của quần chúng, về vai trị của tơn giáo,
tín ngưỡng trong đời sống xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã thường xuyên chăm lo nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu tín ngưỡng chân
chính của đồng bào có đạo. Đảng, Nhà nước cũng luôn quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi
để đồng bào các tôn giáo phát huy giá trị nhân văn, nhân bản của tôn giáo trong xây dựng
cuộc sống; động viên đồng bào các tôn giáo sống “tốt đời, đẹp đạo”; đồng thời cũng kiên
quyết đấu tranh chống các biểu hiện vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, đấu tranh
với các hành vi lợi dụng tơn giáo, phá hoại khối đại đồn kết tồn dân tộc, chống phá sự
nghiệp cách mạng của dân tộc.
Thực tế cho thấy, khi vai trị tích cực của tơn giáo được thừa nhận và khuyến khích
phát huy đã đem lại những hiệu quả thiết thực trong đời sống xã hội. Chủ trương, chính
22
sách của Đảng, Nhà nước trong thời kỳ đổi mới đã được đơng đảo nhân dân đồng tình ủng
hộ, tạo được niềm tin, sự phấn khởi lớn trong đồng bào có đạo. Khối đại đồn kết tồn
dân tộc ngày càng được tăng cường, củng cố vững chắc hơn. Đồng bào có đạo trên khắp
các vùng miền cả nước đã và đang tích cực hưởng ứng phong trào thi đua yêu nước, sống
tốt đời, đẹp đạo, hăng hái tham gia vào các phong trào phát triển kinh tế – xã hội, góp
phần xây dựng q hương, đất nước. Nhiều gia đình tín đồ tơn giáo từ nghèo đói triền
miên đã vươn lên thốt nghèo. Nhiều vùng đồng bào có đạo từ nghèo đói đã trở nên giàu
có và trở thành điển hình của cả nước. Hàng chục vạn gia đình tín đồ, hàng ngàn làng, xã,
khu dân cư của đồng bào có đạo được cơng nhận là gia đình văn hóa, làng xã văn hóa,
khu dân cư an tồn.
Những năm qua, đồng bào các tơn giáo cũng có những đóng góp rất tích cực vào các
hoạt động xã hội. Rất nhiều phịng khám chữa bệnh, cơ sở ni dưỡng người già, trẻ em,
người khuyết tật của các tôn giáo đã và đang góp phần chia sẻ những khó khăn với Nhà
nước trong công tác an sinh,... là những minh chứng rõ nhất cho thấy các tôn giáo ở Việt
Nam đã và đang phát huy vai trị tích cực của mình trong đời sống xã hội.
Tuy nhiên, trong bối cảnh mới, tôn giáo vẫn còn những vấn đề nảy sinh tiêu cực
trong đời sống chính trị - xã hội. Sự phát triển của đạo Tin Lành với nhiều vấn đề phức
tạp về chính trị - xã hội trong khu vực đồng bào các dân tộc thiểu số ở khu vực Tây Bắc,
Tây Nguyên, Tây Nam Bộ; vấn đề mâu thuẫn trong nội bộ Phật giáo với âm mưu phục
hồi hoạt động của hệ phái giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất; vấn đề lợi dụng tôn
giáo gắn với sắc tộc để kích động tư tưởng ly khai tự trị trong cộng đồng người Mông,
người Chăm, người Khmer và trong đồng bào các dân tộc thiểu số ở khu vực Tây
Nguyên; những hoạt động khó quản lý của các hiện tượng tơn giáo mới, “đạo lạ” ở nhiều
địa phương trên cả nước và gần đây nhất là những điểm nóng của Cơng giáo liên quan
đến vấn đề đất đai, cơ sở thờ tự,… là những dấu hiệu cho thấy, nếu chúng ta khơng có
được những chủ trương, chính sách đúng đắn, kịp thời thì tơn giáo có thể sẽ có những tác
động rất tiêu cực tới sự ổn định của xã hội. Vì vậy, vận dụng và phát triển sáng tạo quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc hoạch định và thực thi đường lối, chính sách
23
đối với tôn giáo trong điều kiện mới của dân tộc và thời đại nhằm củng cố khối đại đoàn
kết toàn dân, giữ vững độc lập dân tộc, đưa đất nước phát triển theo đúng định hướng là
việc làm thực sự có ý nghĩa hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin,
Nxb. Chính trị quốc gia, 2009, 2010
Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb. Chính trị quốc gia,
2007
Wikipedia (sửa đổi lần cuối vào ngày 16 tháng 5 năm 2021). Bách khoa toàn thư. Truy
cập ngày 21/5/2021. Đường dẫn:
/>%87t_Nam
/>%2Fprint%2F&showPrintDialog=1
/>%E1%BB%A7a-t%C3%B4n-gi%C3%A1o-l%C3%AAn-con-ng%C6%B0%E1%BB
%9Di-v%C3%A0-x%C3%A3-h%E1%BB%99i.php
/>
24
25