Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (80.33 KB, 4 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>PHÒNG GD – ĐT KRÔNG NÔ TRƯỜNG THCS NÂM NUNG -------. CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc --------------. BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ NHẬN XÉT VỀ TRƯỜNG HỌC MỚI Thực hiện công văn số 20/TB-PGD ĐT và công văn số 23/TB-PGD ĐT ngày 14/4/2016 của Lãnh đạo Phòng Giáo Dục và Đào Tạo huyện Krông Nô tỉnh Đắk Nông về việc tổ chức hội nghị đánh giá việc thực hiện thí điểm theo mô hình trường học mới lớp 6 tại trường THCS TT Đắk Mâm. Nay trường THCS Nâm Nung xin có một số ý kiến đánh giá nhận xét như sau: A. Những thuận lợ và khó khăn chung. I. Thuận Lợi. - Ở huyện Krông Nô mô hình trường học mới– gọi tắt là VNEN đã được áp dụng từ năm học 2011 - 2012 ở bậc tiểu học, còn ở bậc THCS thì được áp dụng thí điểm ở 6 tỉnh từ năm học 2014 – 2015, năn học 2015-2016 ở huyện Krông Nô trường THCS TT Đắk Mâm áp dụng thí điểm 2 lớp là lớp 6a1 và 6a2. Theo tôi nghĩ đây kiểu mô hình nhà trường hiện đại, tiên tiến và phù hợp với mục tiêu đổi mới và đặc điểm giáo dục Việt Nam. Chính mô hình VNEN đã mang lại cơ hội to lớn để từng học sinh tự nhận ra khả năng của chính mình. Bản thân tôi được nhà trường cử đi tập huấn tại trường THCS TT Đắk Mâm và trực tiếp chủ trì hội nghị đánh giá nhận xét các ưu khuyết điểm do các giáo viên trực tiếp dự giờ tại trường THCS TT Đắk Mâm trong HKI năm học 2015-2016 đóng góp ý kiến. Qua tập huấn, các ý kiến của các GV và qua xem các video clip bài giảng trên mạng tôi thấy một số vấn đề cần chia sẻ như sau: 1. Về mô hình dạy học: - Mô hình dạy học của VNEN chuyển cơ bản từ hoạt động dạy của giáo viên sang hoạt động của học sinh. Tức là chuyển từ phương pháp dạy học truyền thống sang phương pháp dạy học tích cực của học sinh. Với mô hình này thì lớp học được chia theo nhóm, gồm có : CTHĐTQ và các PCTHĐTQ và các ban bệ phù hợp với nhu cầu từng lớp và chính các em là người bầu ra dưới sự hướng dẫn của giáo viên nhằm mục đích phục vụ tốt cho công việc học tập. - Và bên cạnh đó lớp học của các em được trang bị và trang trí rất cẩn thận như gồm có: góc học tập, góc thư viện, góc cộng đồng, hộp thư bạn bè, bảng nội quy lớp … 2. Mô hình trường học mới – VNEN dựa trên các nguyên tắc sau: - Học sinh là trung tâm của quá trình dạy học. - Học sinh tự học theo từng bước, được giao quyền tự quản trong quá trình tổ chức hoạt động học, tăng cường sự hợp tác, tôn trọng và việc theo nhóm. - Học sinh tự tìm tòi, suy nghĩ và chủ động nắm bắt kiến thức mới và vận dụng chúng. - Giáo viên chỉ có vai trò là người hướng dẫn và hỗ trợ học sinh trong quá trình học tập mà thôi. - Nhà trường thiết lập mối liên hệ chặt chẽ với cha mẹ học sinh.
<span class='text_page_counter'>(2)</span> 3. Cấu trúc của bài học thiết kế theo mô hình VNEN bao gồm các bước: - Mục tiêu bài học. - Các hoạt động ( trong các hoạt động thì gồm có 5 hoạt động sau:) + Hoạt động khởi động. + Hoạt động hình thành kiến thức mới. + Hoạt động thực hành(Luyện Tập). + Hoạt động ứng dụng(Vận Dụng). + Hoạt động bổ sung(tìm tòi mở rộng). * Một điểm khác biệt của mô hình VNEN so với mô hình hiện hành là việc tổ chức kiểm tra, đánh giá: - Ở đây kiểm tra, đánh giá theo quá trình học của học sinh thông qua các hoạt động học do giáo viên tổ chức. - Đánh giá năng lực, phẩm chất của học sinh. - Và học sinh tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau – Và đánh giá có sự tham gia của cha mẹ học sinh. 4. Về tài liệu: - Tài liệu hướng học được xây dựng dưới dạng 3 trong 1 ( nghĩa là dung chung cho Học sinh, giáo viên và cha mẹ học sinh). - So với quy định hiện hành thì số lượng các môn học theo mô hình VNEN giảm đi, có các môn được tích hợp lại thành nội dung hoạt động giáo dục như: + Môn Toán: HDH môn Toán. + Môn Ngữ văn: HDH môn Ngữ văn. + Môn KHTN : gồm môn Lý, Hóa, Sinh. + Môn KHXH: gồm môn Sử, Địa. + Môn Công dân : HDH môn GD công dân. + Môn HDH Công nghệ và Tin học ứng dụng. + Hướng dẫn các hoạt động giáo dục: gồm môn Âm nhạc, Mĩ thuật và Thể dục. - Tài liệu có kênh hình, kênh chữ rõ ràng và các lô gô chỉ dẫn, các câu lệnh thì ngắn gọn, dễ hiểu và thống nhất nhằm giúp học sinh tự đọc, tự học thuận tiện và làm đúng theo mục tiêu bài học. - Học tập theo mô hình VNEN giúp học sinh phát huy tính tự học, sáng tạo, tính tự giác, tự quản, sự tự tin, hứng thú trong học tập. Với phương pháp dạy học mới còn giúp cho các em phát huy tốt các kỹ năng: như kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hợp tác, kỹ năng tự đánh giá lẫn nhau trong giờ học, ngoài ra giúp các em hiểu biết nhiều hơn, có trách nhiệm và biết phấn đấu làm chủ quá trình học tập của mình. - Còn đối với giáo viên thì giúp cho thầy cô được nâng cao hơn việc phối hợp các PP trong quá trình dạy học, nâng cao hơn các kỹ năng trong đó có kỹ năng điều hành các hoạt động dạy học. - Đối với cha mẹ học sinh thì có trách nhiệm tham gia với nhiều hoạt động và hỗ trợ nhà trường nhiều hơn. Đồng thời cha mẹ học sinh còn được tiếp nhận, bổ sung tri thức từ nhà trường thông qua học sinh. II. Khó khăn. Bên cạnh những thuận lợi mà chương trình đã mang lại thì cũng còn rất nhiều khó khăn cần phải được tháo gỡ như: - Vì đây là chương trình thử nghiệm nên còn thiếu tài liệu cho học sinh học ( như sách hoạt động giáo dục) ..
<span class='text_page_counter'>(3)</span> - Học sinh thuộc vùng địa bàn là nông thôn nên khả năng giao tiếp vẫn còn hạn chế. - Việc trang trí lớp học, đồ dùng học tập theo mô hình này cũng đòi hỏi nhà trường phải đầu tư kinh phí nhiều hơn so với các lớp học bình thường. - Việc chuyển đổi từ phương pháp truyền thống sang phương pháp học tập tích cực 1 cách đột ngột, nên không khỏi gây cho giáo viên, học sinh và phụ huynh tâm lý hoang mang, sợ học sinh không tiếp thu được kiến, nhất là đối tượng học sinh trung bình, yếu. - Việc học theo nhóm nên đó là điều kiện tạo cho 1 bộ phận nhỏ học sinh có cơ hội nói chuyện riêng và còn ỷ lại vào những bạn khá, giỏi. B.Thuận lợi và khó khăn ở trường THCS Nâm Nung. I. Thuận lợi. - Nhà trường có đội ngũ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn, có trình độ, năng lực, trẻ, nhiệt huyết trong công tác giảng dạy. Có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin thành thạo - Cơ sở vật chất trường lớp tương đối khang trang. Lớp học có đầy đủ hệ thống bóng đèn điện, quạt máy, cửa sổ, cửa chính cung cấp đủ ánh sáng cho các em học tập. Môi trường học tập sạch sẽ, thân thiện. - Đội ngũ giáo viên trẻ, khỏe, nhiệt tình, hết lòng vì học sinh thân yêu. - Đa số học sinh chăm ngoan, có ý thức học tập tốt. - Tài liệu học tập được thiết kế theo kiểu “3 trong 1”, nhìn vào tài liệu rất thuận tiện cho cả giáo viên và học sinh trong quá trình dạy và học. Mặc khác tài liệu học tập cung cấp về được in màu và tranh ảnh rất đẹp nên gây hứng thú học tập của học sinh, phụ huynh có thể đọc hiểu được. Sách hướng dẫn cụ thể dễ hiểu. Ở nhà bố mẹ có thể nhìn sách và hướng dẫn cho con em mình được. - Thời gian dạy không nhất thiết phải đúng như qui định mà giáo viên có thể linh động tùy theo tình hình lớp và bài học(có thể không hết bài thì tiết au có thể tiếp tục). - Đa số phụ huynh nhiệt tình, đã quan tâm đến việc học tập của con em mình, mua sắm đồ dùng học tập cho học sinh. Thường xuyên phối kết hợp với giáo viên trong công tác giảng dạy cũng như trang trí lớp. II. Khó khăn. - Trường THCS Nâm Nung là trường thuộc xã đặc biệt khó khăn, Học sinh đa số là con em đồng bào dân tộc thiểu số, khả năng đọc viết của các em còn chưa tốt, việc tự học còn rất nhiều hạn chế. Phụ huynh chưa quan tâm đúng mức đến việc học của các em ở nhà. - Học lực của học sinh không được đồng đều, ý thức học tập của một số học sinh chưa tốt. - Việc sưu tầm tài liệu của học sinh gặp nhiều khó khăn vì học sinh đa số là con em gia đình khó khăn. - Đây là mô hình trường học kiểu mới cho nên giáo viên vừa trải nghiệm, vừa rút kinh nghiệm, giáo viên của nhà trường đa số còn trẻ nên chưa có nhiều kinh nghiệm nên chắc chắn không tránh khỏi bỡ ngỡ, lúng túng với phương pháp giảng dạy mới. - Tuy không soạn bài nhưng giáo viên mất rất nhiều thời gian vào việc chuẩn bị đồ dùng học tập như: phiếu bài tập (cá nhân, nhóm, phiếu thống nhất), … Và do kinh tế gia dình của đại đa số các em học sinh còn khó khăn nên việc góp tiền để mua vật dụng trang trí góc học tập chưa thật sự phong phú, chưa thu hút được học sinh..
<span class='text_page_counter'>(4)</span> - Do đặc thù dạy theo mô hình trường học mới là “dạy theo nhóm”, khi phân chia nhóm giáo viên phải chia đều các đối tượng học sinh chậm tiếp thu đều các nhóm. Vì thế trong một tiết dạy giáo viên phải đi lại thường xuyên và giảng giải nhiều cho từng cá nhân học sinh nên rất vất vả trong cả tiết dạy. - Trong mỗi lớp học còn có nhiều học sinh chưa chăm, không có ý thức tự học, phụ huynh không quan tâm, các em không ôn bài ở nhà nên đến lớp làm bài chậm, không hoàn thành được các bài tập như sách yêu cầu. - Đối với học sinh được phân công làm nhóm trưởng, nhiều em năng lực còn hạn chế nên nhiều lúc không biết bạn mình làm như vậy đúng hay sai dẫn đến đánh giá chắc chắn sẽ còn sai lệch. - Trong hoạt động luyện tập, đa số các bài tập được sách chỉ định hoạt động cá nhân. Chính vì vậy mà nhiều em chậm hiểu sẽ phải đưa thẻ “cứu trợ”. Giáo viên sẽ phải đi đến từng nhóm để giảng giải cho từng em rất tốn thời gian và sẽ phải nói rất nhiều lần và rất vất vả. - Vì lực học của nhiều em còn yếu nên khả năng đánh giá đúng/sai của nhiều em chưa tốt, có nhiều bài tập theo suy nghĩ của các em là đúng nên các em không cần đưa thẻ cứu trợ dẫn đến giáo viên không kịp thời trợ giúp nên ảnh hưởng đến việc nắm kiến thức ở một số em. Trên đây là 1 số nhận xét của trường THCS Nâm Nung khi tiếp cận với chương trình dạy học mới, rất mong quý thầy cô giáo, lãnh đạo các trường và PGD cho thêm ý kiến. Cuối cùng xin chúc quý vị đại biểu sức khỏe, chúc hội nghị thành công tốt đẹp! Xin cảm ơn! Nâm nung, ngày 19 tháng 4 năm 2016 TM. BGH NHÀ TRƯỜNG P. HIỆU TRƯỞNG. TRỊNH HUY LIÊM.
<span class='text_page_counter'>(5)</span>