BẾN KHÔNG CHỒNG
- DƯƠNG HƯỚNG I. TÁC GIẢ
1. Tiểu sử:
Dương Hướng sinh năm 1949 thôn An Lệnh (nay là thôn Trung An), xã
Thụy Liên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
Tháng 9 năm 1965, ơng tình nguyện đi cơng nhân quốc phịng làm
nhiệm vụ vận chuyển hàng hóa lương thực trên tuyến khu 4 nhằm phục vụ
cho chiến trường miền Nam 4
Năm 1971, ông vào bồ đội, chiến đấu tại chiến trường Quân khu 5.
Năm 1976, ông ra quân chuyển về Cục Hải quan Quảng Ninh và đã
nghỉ hưu năm 2008. Hiện nay, ông đang làm biên tập báo Hạ Long tại
Quảng Ninh.
Dương Hướng bắt đầu viết văn từ năm 1985. Ông là một trong những
gương mặt tiêu biểu của văn học Việt Năm thời kỳ đổi mới.
2. Những tác phẩm tiêu biểu:
Gót son (tập truyện ngắn 1989)
Bến Khơng Chồng (tiểu thuyết 1990)
Trần gian đời người (tiểu thuyết 1991)
Người đàn bà trền bãi tắm (tập truyện ngắn)
Tuyển chọn Dương Hướng (1997)
Dưới chin tầng trời (tiểu thuyết 2007)
II. TÁC PHẨM:
Bến không chồng được viết vào năm 1990. Tác phẩm được giải thưởng Hội
Nhà Văn năm 1991 và đưa Dương Hương lên một vị trí cao trong thành tựu
văn học đổi mới.
1. Tóm tắt:
PHẦN 1
Nguyễn Vạn ở làng Đông. Tên đầy đủ là Nguyễn Văn Vạn, một người lính
Điện Biên oai hung. Trở về từ chiến trường Điện Biên khốc liệt với những
tấm huy chương rung rinh lấp lánh trên ngực và vết thương trên bả vai cùng
với một ống chân bị gãy, làm bước đi của Vạn cứ tập tễnh. Nguyễn Vạn về
làng Đông. Ngôi làng vẫn mang đậm nét dân dã của làng quê Bắc Bộ. Các cụ
trong làng kháo nhau rằng, đã là người làng Đơng khơng biết tích làng là
hỏng. Nào là chuyện “mắt tiên”, gị ơng Đổng, rồi ma mị hơn là chuyện con
ma ở gốc duối đầu cánh mả Rốt, ba ba thuồng luồng ngồi bến sơng trước
cửa từ đường họ Nguyễn. Bi thảm nhất vẫn là câu chuyện của hai dịng họ
Nguyễn và họ Vũ, nó đã để lại một mối thù hận ngấm ngầm đời đời không
quên. Cụ tổ họ Nguyễn đã khắc ghi lời nguyền độc rằng: “Nước sơng Đình
ngàn khơng cạn – Cầu Đá Bạc vạn kiếp trơ trơ – Bến tình cịn đẹp còn mơ –
Mối thù họ Vũ bao giờ mới ngi”. Lời nguyền độc đã dẫn tới khơng ít bi
kịch. Nhiều cặp trai gái hai họ phải lòng nhau đều phải ngậm ngùi lặng lẽ
chia tay, hoặc phải bỏ khỏi làng. Vạn là một ví dụ điển hình của lời nguyền
độc đốn đó. Nguyễn Vạn tần ngần nhìn ba đứa trẻ, hồi lâu anh nhận ra đấy
là con của chị Nhân thuộc dòng họ Vũ. Cả bốn đứa trẻ dẫn anh về làng vừa
hay nhà chị nhân hay tin chồng hy sinh khiến chị suy xụp tinh thần một thời
gian ngắn. Cụ Nguyễn Nghiên mất, con trai cụ là Nguyễn Khiên nên làm
trưởng Tộc họ Nguyễn, cái họ to nhất Làng Đơng. Hơm tổ chức chạp tổ, có
lão Xung qua phụ giúp. Lão có ba người con trai tên là Xeng, Xèng, Xình và
cơ con gái út tên Thao. Tên các con của lão cứ như là người gõ pheng pheng
xung trận. Cuộc tịch thu tài sản của địa chủ Hào diễn ra rầm rộ, nhốn nháo cả
lên. Vạn được chia ngơi nhà của địa chủ Hào. Đêm đó, lão xung bị bắt lên ủy
ban vì vi phạm lệnh giới nghiêm. Trớ trêu thay, hai đứa con trai của lão là
Xèng và Xình cũng bị bắt vì tội đặt mìn phá hoại Cống Linh. Nghĩa, con ông
Khiên bị chủ tịch Đột hỏi có dính líu gì tới bố con nhà lão Xung khơng?.
Nghĩa vơ tình tiếp tay cho bọn Quốc Dân Đảng khi kéo cái thuồng từ đoạn
đường về nhà Xình. Phiên tịa đấu tố diễn ra, ở sân đình Đơng chi chít người
dân giương cờ, biểu ngữ khẩu hiệu. Vạn về nhà gặp Tốn con trai của mụ Hơn
con dâu địa chủ Hào đang bị bọn trẻ con bắt nat, đánh sưng hết cả mặt mũi.
Mụ Hơn quỳ lạy rối rít xin Vạn giúp đỡ 2 mẹ con khỏi bị dân làng ghét bỏ,…
Miễn cưỡng Vạn đồng ý. Người ta dong kẻ phạm tội đi xử bắn ở cánh mả
Rốt. Những người xung quanh sửng sôt ngạc nhiên khi nghe tiếng hô to:
Đảng lao động Việt Nam muôn năm! Hồ Chủ Tịch mn năm! Phát ra từ
miệng Xình, người bị cho là tội phạm phản động. Cuộc đấu trường kết thúc.
Thì có tiếng hét: “Cháy! Cháy từ đường nhà họ Nguyễn. Ba gian từ đường
nhà họ Nguyễn cháy trụi chỉ còn lại đúng gian hậu cung. Chủ tịch Đột và cơ
Tì Hin bị dân đuổi đánh may sao có Nguyễn Vạn ra can ngăn. Lão xung thì
nhìn trân trân lên trời và thét “Trời” rồi bỗng cười khục khặc điên dại…
PHẦN 2
Bảy năm trôi qua. H đây nghĩa trở thành chàng trai cường tráng, khỏe mạnh.
Cậu và bố cùng nhau xây lại nhà trên nền từ đường năm xưa bị cháy. Mối
nghi ngờ quan hệ của chị Nhân với Vạn đã dịu đi thì giờ lại đến lượt mối
quan hệ mới. Nghĩa với Hạnh yêu nhau, hai đứa muốn tiến tới với nhau mặc
kệ dư luận, mặc kệ hai bên họ ngăn cấm. Chiến tranh nổ ra, Giặc Mỹ điên
cuống ném bom phá hoại miền Bắc. Nghĩa cùng các thanh nên làng Đông lên
đường nhập ngũ vào Nam mặc kệ ơng Khiên căn ngăn. Ơng khiên vì chuyện
của Nghĩa mà đau buồn mà mất. Được tin bố mất, nghĩa xin về phép. Trên
đường về cùng với anh Biền, Biền mời Nghĩa về nhà mình chơi và giới thiệu
Thủy cho Nghĩa. Sáng ra, Nghĩa về tới làng Đơng ịa khóc khi thấy mộ bố.
Nghĩa được nghỉ phép bảy ngày, anh đi thăm các nhà xung quanh, qua nhà
lão Xung. Từ ngày xử tử Xèng, Xình lão đâm ra điên điên dại dại. Có người
nó đó là do Nghĩa và Vạn phạm điều cấm của lời nguyền năm xưa.
PHẦN 3
Từ ngày máy bay mỹ ném bom, tối đến làng Đông không ai dám thắp đèn,
mặc áo trắng, đội nón trắng…Học sinh phải đội mũ rơm, đeo lá ngụy trang…
Người dân sống nơm nớp lo sợ..Hạnh được chú Vạn báo tin rằng anh Hà đã
hi sinh anh dũng. Hạnh có nén cảm xúc để thông báo cho mẹ. Nguyễn Vạn
xách súng, đèn pin ra bắt cá rơ lóc từ mép nước ngoi lên lách vào cỏ. Về tới
đầu làng, Vạn mang cho chị Nhân một nửa. Nhân mở cửa cho Vạn vào thay
áo khỏi bị cảm lanh. Đêm đến, Nhân thấy Vạn ngủ sau, trong cô rạo rực và
ngượng ngập. Chị run rẩy nắm tay Vạn, ôm xiết Vạn. Vạn ú ớ trong giây
phút, hai bàn tay Vạn lướt nhẹ khắp cơ thể Nhân. Nhân hổn hển giãy giụa
khỏi vòng tay Vạn. Cả hai hoảng hốt vùng dậy nhảy ra khỏi giường. Vạn lập
cập bước ra ngõ.
Dâu và Hạnh hớn hở đi đám cưới cái Thắm. Thắm lấy Huy, anh chàng thợ
ảnh thọt chân phố Huyện. Cả làng khen Huy khéo chọn vợ, lấy được cô đẹp
nhất làng. Đã mấy năm, không nhận được thư của Nghĩa. Bà khiên mẹ chồng
Hạnh càng ngày héo hắt đi. Hành đành nhờ Thành lính thương binh vừa bị
cúc hủy hôn bịa chuyện gặp Nghĩa ở chiến trường và lên chức Tá để bà vui
lịng. Bão về làng Đơng, mọi người hối hả gọi nhau chằng lại nhà cửa, đi cứu
đề khỏi bị vỡ thồ rơm cứu đói. Lão Xung vừa khỏi bệnh điên thì thằng con
lớn nhà thímXeng lại ngã vào hố vôi phải đi cấp cứu, chú Xeng thì cũng lăn
ra ốm. Người ta cho rằng đó là quá báo mà nhà lão Xung phải chịu khi lão
đốt Từ Đường, con lão ăn cắp tiền của bố Nghĩa.
Hòa bình trở lại. Đất nước thống nhất. Nhưng tiếc rằng Hiệp anh của Hạnh
lại hy sinh anh dũng. Làng Đông chỉ có mỗi Tốn và Nghĩa là được về. Nghĩa
về hẳn bằng xe jeep. Chuyện mà Hạnh bịa anh được chức Tá ai dè thành sự
thật.
PHẦN 4
Lần đầu làng Đông có ngơi nhà hai tầng. Điều đáng nói đấy là nhà của Tốn
cháu lão Hào địa chủ xưa. Nghĩa đưa quân về sửa sang lại cái hậu cung từ
đường thành ngôi từ đường to nhất làng Đông, mặc kệ nhà lão Xung can
ngăn là sẽ gặp tai họa. Cả nhà Nghĩa mong chờ Hanh sẽ sinh con, khiến Hạnh
cảm thấy lo sợ và áp lực. Trên đường họp, Nghĩa gặp Biền, hai anh em kéo
nhau về nhờ Biền chơi. Nghĩa cũng gặp lại thủy, Thủy bây giờ đã là bác sỹ
của tỉnh. Đêm đó, Thủy đã ăn nằm cũng Nghĩa. Mấy ngày sau, thủy về Làng
Đơng để tìm hiểu rõ hơn về Nghĩa. Hạnh cảm thấy mình là người cơ đơn
trong căn nhà của Nghĩa, mọi việc giờ đây đã có Thủy lo liệu. Hạnh làm đơn
ly hơn, xin mẹ chồng được phép về bên nhà. Trong đêm mưa gió, có người
đàn bà chạy vù ơm ghì lấy Nguyễn Vạn sẵn có men rượu, Vạn bng thả cho
thân xác tự do gây tội lỗi, tự do rên xiết trên cơ thể người đàn bà lạ đố. Hồi
sau, Vạn mới nhận ra đó là Hạnh. Mọi sự xấu hổ, tội lỗi ấp đến trong đầu
Vạn. Hạnh rời làng Đông trong màn tối đen dày đặc. Vạn nhận ra tội ác của
mình còn lớn hơn nhiều.
Thủy chấp nhận lừa dối nghĩa, lừa dối gia đình chồng để gây lại niềm tin cho
gia tộc nhà Nghĩa là mình có con. Thủy nhận thấy mình nhục nhã hơn cả con
điếm, sợ hãi chính mình. Thủy nói chuyện xin con với nghĩa. Đến bây giờ
Nghĩa mới nhận ra mình có tội với Hạnh, với Thủy. Chiến tranh đã cướp đi
khả năng sinh con của anh.
Bà Khiên mất, Nghĩa lập tức ly hôn với Thủy. Trở về làng Đông, Hạnh dẫn
con gái về thăm quê. Lão Xung thấy mình có lỗi với Hạnh, lão dặn Nghĩa
phải xóa bỏ lời thề, xóa bỏ hận thù. Hạnh dẫn con đến trước mặt Nguyễn
Vạn. Vạn lặng đi khi thấy đứa trẻ. Sáng hôm sau người ta thấy xác của
Nguyễn Vạn dưới chân cầu Đá. Cái chết của Vạn đã làm thức tỉnh làng Đơng
một điều gì đó.
III. Giá trị của tác phẩm
Dương Hướng viết không nhiều. Trong những đề tài ơng tâm huyết và thành
cơng hơn cả đó là về người lính và nơng thơn. Bến Khơng Chồng có đầy đủ
cả hai nội dung đó.
1. Nội Dung
1.1. Bức tranh làng quê và những biến cố lịch sử:
- Dương Hướng dành một tình cảm thương mến nồng hậu đặc biệt cho làng
quê. Trong Bên Không Chồng ta thấy được: “Làng Đơng có nhiều cái nhất:
Đình làng Đơng to nhất; cây quéo làng Đông cao nhất; Cầu đá làng Đông đẹp
nhất; nước sông cũng mát nhất…Đất làng Đông nằm trên mình con rồng.
Con rồng đó chính là dịng sơng Đình bắt nguồn từ cống Linh chảy qua làng
Đông uốn lượn như một con rồng. Nước sơng như dịng sữa mẹ làm tươi tốt
đất và người làng Đông”. “Làng Đông là thế giới huyền diệu , lũy tre làng
xanh mượt, những thân cau cao vút, dịng sơng đình lung linh in bóng cây
quéo và nhịp cầu Đá Bạc”. Có những trang văn viết về làng quê thực sự làm
người đọc bất ngờ như đứng trước một bức tranh thủy mặc. Thiên nhiên thôn
dã trong con mắt nhà văn bao giờ cũng thật đẹp, hiền hòa dẫu vẫn là cây đa,
bến nước, mái đình quen thuộc từ ngàn đời nay đã ăn sâu vào tâm thức mọi
tâm hồn Việt. Bối cảnh nông thôn trong tất cả những sáng tác của Dương
Hướng đều lấy từ nguyên mẫu làng quê của ông. Và những bức tranh thiên
nhiên đó bao giờ cũng được nhà văn đặt trong một bầu khơng khí huyền
thoại, gắn với những huyền thoại, những câu chuyện thấm đẫm vẻ kì ảo. Đó
là sự tích “rốn mắt tiên” trong “Bến khơng chồng”: “Ngày xửa ngày xưa, hồi
ấy cái hồ nước ở giữa cánh đồng cịn tanh hơi như một vũng trâu đằm. Nơi
của lau sậy um tùm, cá rúc, cuốc lủi hôi xì, đỉa bơi cung quăng, ếch nhảy
chịm chõm. Dạo ấy có cơ gái tên Ngần đẹp nhất làng Đơng. Cặp mắt cô
Ngần trịn xoe lóng lánh như hạt nhãn mới bóc. Da cơ Ngần trắng mịn, tóc
dài và mượt như tơ. Vào tuổi trăng trịn, cơ Ngần bị bố mẹ ép gả cho người
mình khơng u. Đêm tân hơn cơ Ngần trốn ra hồ nước giữa đồng tự vẫn.
Thế là cỏ lau bỗng lụi tàn, cú, cuốc cũng lủi sạch. Đỉa cũng mất tăm. Nước
hồ trở nên trong vắt quanh năm. Từ đó đàn bà con gái làng Đơng có nỗi oan
khuất đều trốn ra hồ nước tắm để được giải oan”; chuyện gị ơng Đổng:
“Ngày xửa ngày xưa một người trai làng Đông đi đánh giặc mười năm chiến
thắng trở về vẻ oai phong lẫm liệt mắt sắc mày ngài kiếm cung thao lược.
Người chiến binh vừa về tới cánh đồng làng nghe tin người vợ ở nhà bạc tình
liền nhảy phốc lên gò đất cạnh đấy hét lên một tiếng vang trời, máu từ miệng
hộc ra chết tươi. Từ đó người làng Đơng đi qua đều ném lên đấy một nắm
đất để tưởng niệm người chiến binh dũng cảm khơng chết nơi trận mạc mà
lại chết vì tình. Ngơi mộ mỗi ngày một to cao lên mãi. Người ta bảo trai làng
Đơng có chí khí khác người vì được mang dòng máu của người chiến binh
năm xưa” vv….
- Những huyền thoại gắn với các địa danh chở nặng đời sống tâm linh: “chỉ
có mắt tiên mới trong như thế. Chỉ có mắt tiên mới nhìn thấu mọi sự và nước
mắt là nỗi lòng của người phụ nữ”. Ngòi bút Dương Hướng giúp ta cảm nhận
được thấm thía một cái gì như là linh hồn đất nước trong những phong cảnh
thân thuộc, những mái đình cây đa, dịng sơng bến nước, câu hò điệu hát,
những gương mặt con người…
Nhưng trong bức tranh thiên nhiên làng quê của Bến không Chồng, người
đọc cịn nhận ra hình ảnh bến nước. “Bến sơng ở đây có vẻ quyến rũ lạ. Mùa
đơng con nước sơng cạn phơi ra dải cát trắng phau lấp lố dưới nắng. Nước
sông trong veo lặng lẽ trôi, mùa lũ nước sông dềnh lên xăm xắp đôi bờ cỏ
cây xanh tốt”, hình ảnh bến sơng gắn với khơng gian làng quê, gắn với sinh
hoạt con người; là nơi hò hẹn, nhân chứng cho bao cuộc tình lãng mạn, nồng
nàn của người làng Đông; là nơi ra đi và cũng là nơi trở về của bao số
phận. Bến sông quê cũng là nơi chứng kiến bao thăng trầm của lịch sử; bao
khao khát, chờ đợi và những bi kịch của con người.
Những biến cố lịch sử:
- Bến không chồng của Dương Hướng khơng thiên về phong tục, nhưng rõ
rang ta nhìn ra số phận của rất nhiêu người nông dân đã bị chi phối, đè nặng
bởi những hủ tục và tập tục. Hóa ra làng q nhỏ bé khơng hề bình n. Ở đó
cuộc sống ln bị khuấy đảo, sơi lên vì những quan hệ, những mâu thuẫn,
những định kiến làm điêu đứng bao người. Đọc “Bến không chồng” mới thấy
hết mối thù giữa hai dòng họ Vũ và Nguyễn đã làm cho con đường đi đến
hạnh phúc của Hạnh và Nghĩa gian nan biết chừng nào. Vì lời nguyền quyết
liệt “Nước sơng đình ngàn năm khơng cạn. Cầu đá bạc vạn kiếp trơ trơ. Bến
tình còn đẹp như mơ. Mối thù họ Vũ bao giờ mới nguôi”, Hạnh lấy chồng
không được về nhà chồng ở bởi cả họ Nguyễn coi việc đó chẳng khác nào
“rước voi về giày mả tổ”. Và có lẽ chẳng có câu chuyện tình nào từ cổ chí
kim trên thế giới miêu tả đêm tân hôn đặc biệt như đêm tân hôn của vợ chồng
Hạnh: “Đám cưới tan. Làng Đông chợt lặng đi. Cô dâu chú rể lại dắt nhau
ra bờ sông” .Hạnh và Nghĩa quyết tâm bước qua lời nguyền để đến với nhau,
chấp nhận làm hai kẻ bất hiếu. Cho nên, đám cưới của họ chỉ có thanh niên
nam nữ trong làng, các cụ khơng ai có mặt. Khổ nhất cho đôi bạn trẻ là cưới
nhau rồi, nhà cửa có nhưng khơng được về ở. Vậy là đêm tân hôn diễn ra nơi
bờ sông.
- Dương Hướng cũng đặt người nông dân trước những biến thiên của lịch sử
để cho người đọc cái nhìn tồn diện hơn vai trị nhào nặn con người của hồn
cảnh sống. Đó là cơng cuộc cải cách ruộng đất và hợp tác hóa nơng thơn. Cải
cách ruộng đất được coi là một thắng lợi vĩ đại của công cuộc Cách mạng dân
tộc - dân chủ. Cải cách ruộng đất đã giúp đa số nông dân thốt khỏi áp bức
của giai cấp địa chủ bóc lột. Nhưng với những cá nhân cụ thể cuộc cải cách
ruộng đất đã gây nên bi kịch đau xót, làm tan nát nhiều giá trị văn hóa làng xã
“Bến khơng chồng” đã dựng lại khá chân thực và sinh động không khí của
cơng cuộc cải cách.
Điều đau xót là vì sao nhân tính con người đã trở nên méo mó đến thế khi mà
Cách mạng ln đặt mục đích trên hết là đem lại hạnh phúc cho mọi người?
- Cảnh đấu tố địa chủ hoặc đem địa chủ ra xử tội là một cơn bão mà tác động
của nó đến nhân tính, đến văn hóa tinh thần hết sức to lớn. Cái được nhiều,
nhưng cái mất khơng phải ít, nhất là nó làm khủng hoảng văn hóa làng quê.
Phong trào đấu tranh giai cấp này thay đổi ngôi vị của nhiều người, đảo lộn
nhiều giá trị. Bản chất người nông dân là hiền lành, sống nghĩa tình. Nhưng
khi họ q khích, họ dễ mù quáng tàn bạo. Người đọc hôm nay khơng khỏi
bàng hồng khi đọc cảnh đấu tố trong “Bến không chồng”: “Tùng - tùng tùng - tiếng trống dậy lên khắp các nẻo đường làng. Từ cụ già lọm khọm
chống gậy đến các chị con thơ tay bồng tay bế dắt díu nhau cơm đùm cơm
nắm đổ dồn về sân đình Đơng. Thanh thiếu niên giương cờ, biểu ngữ khẩu
hiệu đi trong dịng người ln miệng hơ vang:
- Đả đảo địa chủ Hào gian ác đầu sỏ
- Đả đảo - đả đảo - đả đảo!
Những cánh tay giơ lên răm rắp theo những tiếng hơ đầy phẫn nộ.`….kì đài
dựng cao ngất đỏ rực khẩu hiệu và biểu ngữ….Khoảng giữa kì đài và dân
chúng có một khoảng trống người ta đào một cái hố tròn như hố tăng xê sâu
đến ngực địa chủ Hào. Địa chủ Hào đứng dưới hố, tóc trắng phơ, mặt già
khọm cúi gằm xuống đất.”.
- Có những gia đình địa chủ bị truy bức đến cả trẻ nít cũng trở thành nạn
nhân của đấu tranh giai cấp như cu Tốn (Bến khơng chồng).
- Ngay chính người hăng hái nhất trong cuộc cuộc đấu tranh này cũng có lúc
khơng tránh khỏi cảm giác bất nhẫn: “Vạn lau súng. Trong đời Vạn đã không
biết bao lần lau súng. Nước thép khẩu súng Vạn giữ vẫn đen bóng. Vạn có
cảm giác là lạ. Cái khó là mũi súng của Vạn lần này lại nhằm vào đầu hai
thằng con trai ông Xung. Mới hôm nào Vạn còn ngồi cùng mâm ở từ đường
họ, cùng véo chung một đĩa xơi gấc đỏ au”. Thậm chí lúc hành quyết, người
ta đã “sững sờ về tiếng hô của tên tội phạm nào đấy :
- Đảng lao động Việt Nam muôn năm!
- Hồ Chủ tịch muôn năm!”
1.2. Bi kịch.
a. Bi kịch người phụ nữ.
- “Bến khơng chồng” nói về nỗi đau những “người gái nhỏ hậu phương”.
Chồng hi sinh, họ thầm lặng cực nhọc ni con, gặp tình u mới lại thêm bất
hạnh mới. Như chị Nhân, (mẹ Hạnh) một lần đau nỗi mất chồng, lại thêm bao
tháng ngày khổ sở vì một tình yêu phải che giấu. Như Hạnh, tan nát tình
dun vì mối thù dịng họ. Cái bến sơng đẹp đẽ lại có tên “bến khơng chồng”
như chính số phận của những người đàn bà khổ đau ở đây. Hạnh đã chịu bao
cực nhục để đến với Nghĩa. Hạnh dám chống lại lời nguyền để yêu thương
Nghia, Hạnh hi sinh tuổi xuân chờ chồng nuôi mẹ. Vượt qua được định kiến
của dịng họ thì chiến tranh một lần nữa lại phủ bóng đen xuống cuộc đời
Hạnh khi cướp khả năng đàn ông của chồng chị. Hạnh sống trong đau đớn
nhưng vẫn không thôi khát vọng được làm mẹ. Trong một cảnh ngộ đặc biệt,
Hạnh đã được bù đắp. Chị có thai với chú Vạn - người bạn đồng ngũ của bố
Hạnh, người đã yêu nhưng không dám đi đến hôn nhân với mẹ Hạnh. Niềm
vui muộn mằn buộc chị phải xa xứ để bảo vệ danh dự cho người đàn ơng ấy.
Cái hạnh phúc bình dị ngỡ như người phụ nữ nào cũng có quyền hưởng,
nhưng với Hạnh, đó là cả một hành trình nhọc nhằn, cay đắng, vật lộn.
- Chiến tranh xộc đến từng gia đình, cướp đi hạnh phúc chính đáng của hàng
triệu người. Đâu chỉ người ngoài tiền tuyến hàng ngày đối mặt với cái chết
mới phải chịu đựng sự khốc liệt của chiến tranh mà những người vợ, người
mẹ ở hậu phương cũng mỏi mòn, nhức nhối với bao nỗi đau.
- Với Thủy, yêu, hạnh phúc là được hi sinh. Khi lấy Nghĩa, Thủy hiểu nỗi
khao khát của chồng muốn có con đã liều mình với người đàn ơng xa lạ, để
rồi cơ tự dằn vặt mình là kẻ xấu xa tồi tệ. Dường như nhà văn đã sống, đã
trăn trở vô cùng với những khao khát tận đáy lòng của những người vợ,
người mẹ. Cịn đó biết bao người phụ nữ xứng đáng có hạnh phúc nhưng rồi
đành để tuột mất trong âm thầm tiếc nuối. Những người phụ nữ như Dâu,
Thắm, Cúc, Nhài…mỗi người mang trong mình những nỗi đau khơng gọi
thành tên. Thắm không hạnh phúc trong hôn nhân, để trái tim đi theo tiếng
gọi của tình yêu mới. - Thắm đem lòng yêu chàng pháo thủ, nhưng khi chiến
tranh kết thúc, anh chàng của Thắm đã đi lấy vợ mà khơng hề biết rằng mình
có con với Thắm, đang là niềm chờ mong mòn mỏi của cả hai mẹ con. Niềm
an ủi với cô là đứa con. Dâu, Cúc, Thao…chịu cảnh “không chồng” bởi
những dữ dằn, khốc liệt của chiến tranh. Dâu chờ đợi anh trai của Hạnh,
nhưng cái cô nhận được là mảnh giấy báo tử. Dâu nói trong chua chát: “tao
đang sung sướng…vì bỗng nhiên tao trở thành gái tân. Rõ ràng về giá trị phụ
nữ tao hơn hẳn mày….Trai thời loạn, gái thời bình. Hịa bình rồi! ha ha…Đàn
ông lại sẽ đầy ra”.. Cúc trả lễ cho Thành vì khơng thể chấp nhận khn mặt
bị chiến tranh hủy hoại đến mức ghê sợ. Thao cũng trả lễ vì người u đảo
ngũ, khơng thể sống trong tủi nhục, cay đắng…Tất cả đều do chiến tranh.
Hóa ra móng vuốt của chiến tranh len lỏi mọi ngóc ngách ở cuộc đời này.
- Số phận của họ - những người phụ nữ bị đè nặng bởi nỗi đau. Có nỗi đau
do ngoại cảnh đưa đến. Có nỗi đau xuất phát từ chính tâm hồn quá nhạy cảm
và sự nhẫn nhịn của họ. Nhưng người phụ nữ trong con mắt nhà văn dù chịu
thiệt thòi đến thế nào, dù gánh những bi kịch nặng nề, họ vẫn ln đẹp về cả
hình thể lẫn tâm hồn, cái đẹp như thách thức tất cả, và cũng cô đơn xiết bao ở
cuộc đời nhiều đen bạc vơ thường.
b. Bi kịch của người lính.
- Người lính bước ra từ chiến tranh đều ít nhiều mang thương tật về tâm hồn.
Họ bị cầm tù bởi quá khứ khủng khiếp, có khi đánh mất cảm giác về hiện tại.
Nguyễn Vạn trong “Bến không chồng” trở về làng Đông trong hình ảnh một
vị anh hùng lấp lánh huân huy chương trên ngực áo nhưng đằng sau vẻ rạng
rỡ ấy vẫn là một tính cách hằn in di chứng chiến tranh. Nguyễn Vạn sống
lặng lẽ, cô đơn, lấy sự lãnh đạm, khô khan, cứng nhắc để che giấu những nỗi
niềm, khao khát riêng tư, không dám “bước qua lời nguyền” giữa hai dịng họ
để có được chút hạnh phúc muộn mằn sưởi ấm quãng đời còn lại. Nếp sống
thời chiến, lối tư duy thời chiến ngấm sâu vào Vạn, biến anh thành một khối
ý chí rắn đanh. Anh xa lạ với những buồn vui thường tình của cõi người:
“Điều dáng sợ nhất với Vạn là để mất lòng tin với với Đảng. Từ một việc nhỏ
Vạn cũng phải cân nhắc xem có phải đấy là lịng dân ý Đảng. Lâu nay Vạn
xét lại lịng mình và thấy rằng Vạn đã yêu thương chị Nhân. Đấy là do những
giây phút yếu hèn khơng kìm nén được. Lí trí khơng cho phép Vạn làm điều
ấy. Điều ấy là lỗi lầm đáng tiếc không xứng đáng với người chiến sĩ cách
mạng, khơng xứng đáng với lịng ngưỡng mộ của dân, làng họ mạc. Thời trai
trẻ của vạn đã qua, Vạn sống với niềm kiêu hãnh Vạn đã có ”.
- Trong tiểu thuyết “Bến khơng chồng”, ngồi Vạn được nhà văn khắc họa
nổi rõ bi kịch của người lính sau chiến tranh, người đọc cũng nhận ra nhiều bi
kịch không gọi thành tên của những người lính trở về từ chiến trường như
Nghĩa, Thành…Với Nghĩa, quân hàm thiếu tá không giúp anh hạnh phúc
hơn. Trái lại, bước ra từ chiến trường máu lửa, cuộc đời Nghĩa đi qua biết bao
ngã rẽ mà anh không thể lường trước được: cuộc chia tay đau đớn với Hạnh người vợ anh rất mực yêu thương; cuộc kì ngộ với Thủy và một cuộc hơn
nhân chóng vánh như trốn chạy quá khứ cũng không làm cho quãng đời còn
lại của anh sáng sủa hơn chút nào. Nhưng đau đớn hơn cả là chiến tranh đã
cướp đi của anh khả năng làm cha, khiến cả hai người đàn bà gắn bó với anh
thành dang dở. Thành mang bộ mặt ghê sợ tới mức quái dị do bị bỏng bom
Napan trong chiến trường. Gương mặt ám ảnh anh cả trong giấc mơ. Gương
mặt ấy đã hủy hoại cuộc đời Thành vì khơng một cơ gái nào dám nhìn vào
khuôn mặt biến dạng ấy dù biết rằng sau khuôn mặt đó là một tâm hồn vơ
cùng đẹp đẽ. Có những sự thật nghiệt ngã vẫn xảy ra trong cuộc sống muôn
màu muôn vẻ này và con người buộc phải chấp nhận. Những người lính cịn
sống trở về sau chiến tranh nhưng họ mất quá nhiều thứ : tình yêu, hạnh
phúc, niềm tin, cả niềm kiêu hãnh lớn lao trong mình.
2. Nghệ thuật
2.1. Cốt truyện
- Ở Bên khơng chồng ta thấy cốt truyện tương đối đơn giản. Tất cả các sự
kiện, biến cố của các nhân vật như Vạn, Hạnh, Nghĩa đều được miêu tả trong
các chương. Và chúng không gắn kết được với nhau. Cốt truyện trong tác
phẩm Bến Không Chồng là một cấu trúc mở. Tác phẩm kết thúc nhưng khơng
hề khép lại. Nó vẫn gợi cho người đọc những ám ảnh về những nỗi đau dang
dở, những băn khoăn trăn trở, những dự định chưa thành. Tạo cho người đọc
cảm giác câu chuyện dường như vẫn đang tiếp diễn.
2.2. Nhân vật
- Vạn trong “Bến không chồng” là một điển hình. Một người chiến sĩ với
niềm tin và niềm kiêu hãnh về một quá khứ oanh liệt, hào hùng nơi chiến
trường trở về, Vạn luôn cố gắng phấn đấu sống như một biểu tượng cho cả
làng Đơng: “Cứ nhìn chú đây mà sống”. Nhưng trong tiềm thức sâu xa, Vạn
không tránh khỏi cảm giác cô độc: “Nguyễn Vạn cứ ngỡ như mình được sang
một thế giới khác. Tâm tính Vạn cũng thay đổi. Về đêm Nguyễn Vạn cảm
nhận thấy nơi đây hồn tồn hoang dã khơng một ai trên đời này cịn biết đến
Nguyễn Vạn. Người làng Đơng hầu như đã quên mất Nguyễn Vạn…”. Vạn
nuối tiếc cái thời huy hồng đó. Vạn đau khổ vì khơng ai cịn nhớ tới Vạn
ngày xưa, ngực lấp lánh huân chương quay trở về. Và ngay chính Vạn cũng
có lúc qn mình từng là một quân nhân: “Ngày tháng trôi đi. Giờ đây nhiều
khi Vạn quên béng mất mình đã từng là một quân nhân. Cái thời oanh liệt
trên chiến trường Điện Biên và cái thời đêm đêm một mình vác súng ra nằm
trên trốc lò gạch săn máy bay Mĩ bay thấp đã xa lắc xa lơ, nhưng có lúc nào
nghĩ đến, nó vẫn sáng lóe trong tâm trí Vạn như ngôi sao trong trời đêm. Kỉ
vật duy nhất của thời ấy còn lại là những tấm huân chương nằm im lìm trong
chiếc túi bạt treo ở góc nhà và một chiếc áo lính đã rách nhưng Vạn vẫn cố
giữu lấy nó vá đi vá lại khơng biết bao nhiêu lần. Đi đâu Vạn cũng thích
khốc chiếc áo lính ấy như muốn nhắc nhở người làng Đông hãy nhớ tới Vạn
là ai…”.
2.3. Giọng điệu
- Giọng điều suồng sã, hài hước:
Nội dung tiểu thuyết Bến Không Chồng đều xoay quanh cuộc sống ở nơng
thơn, giọng văn cũng bình dị, mộc mạc như lời ăn tiếng nói của người dân
lam lũ suốt đời chân lấm tay bùn vậy. Điều đó thể hiện ngay qua cách gọi tên
nhân vật, những cái tên rất mộc mạc: lão Xung, chú xeng xèng xình,… và cái
cử chỉ, giọng điệu của họ hiện lên cũng rất hồn nhiên, chân thật.