Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Vai trò của thiên địch trong việc hạn chế dịch hại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (31.27 KB, 4 trang )

Vai trò của thiên địch trong việc hạn chế dịch hại.

Trên đồng ruộng có nhiều lồi sinh vật là thiên địch của dịch hại, góp phần rất lớn trong
việc hạn chế sự phát triển của dịch hại trong tự nhiên, giữ thế cân bằng trong hệ sinh thái
đồng ruộng. Thực tế đã chứng minh có rất nhiều trường hợp dịch hại bị tiêu diệt bởi
thiên địch mà con người không cần dùng bất kỳ biện pháp nào.Trên ruộng lúa có nhiều
khi phát hiện tỷ lệ trứng sâu đục thân lúa bị ong ký sinh tới trên 90%. Sức ăn của các
loài thiên địch bắt mồi cũng rất lớn. Một con nhện Lycosa trưởng thành mỗi ngày ăn từ 5
- 15 con rầy nâu, một con sâu non của bọ rùa 8 chấm mỗi ngày ăn từ 5 - 10 con mồi.
Một con kiến vàng mỗi ngày ăn từ 5 - 10 con rệp hại cam

Ong đen kén trắng (Apenteles Plutellea) ký sinh sâu non, tơ thường xuất hiện ngay từ
đầu vụ và kéo dài tới cuối vụ vào vụ Đông Xuân. Tỷ lệ ký sinh đạt 9,4 – 14,6% (Từ
Liêm – Hà Nội). Mật độ của bọ rùa đỏ (Micraspis discolor) tăng cao trên ruộng cải đã
hạn chế số lượng rệp muội một cách rõ rệt (Phạm Thị Nhất, 2000) [4].

Vùng phía đơng nam của Canada, Godin et al (1998) qua 2 năm nghiên cứu 1993 - 1994
trên cây trồng vụ sớm đã phát hiện có 6 lồi kí sinh sâu xanh bướm trắng. Ở vụ muộn,
sâu xanh bướm trắng có tỷ lệ bị kí sinh 43%.

Ở Trung Quốc, trong các lồi ong kí sinh sâu xanh bướm trắng lồi Pteromalus
puparium có cao điểm kí sinh trong tháng 5 và 6, tỷ lệ nhộng bị ký sinh khoảng 60% ở
Hàng Châu, 35 – 60% ở Quỳ Châu và lên đến 70% ở An Huy. Ong A. glometarut là ký
sinh quan trọng ở thung lũng sông Trường Giang gây tỷ lệ ký sinh lên tới 70% (Dẫn theo
Lê Văn Trịnh, 1999)
2..
Thiên địch là các lồi cơn trùng có lợi trong tự nhiên gồm nhiều loài khác nhau, thể hiện
sự đa dạng sinh học trong môi trường tự nhiên.


Thành phần và số lượng của thiên địch có vai trò rất quan trọng trong cân bằng sinh thái,


giúp giữ cân bằng cho hệ sinh thái một cách tự nhiên theo mối quan hệ của các loài
trong quần xã.

Trong mỗi hệ sinh thái nơng nghiệp có những nhóm thiên địch nhất định giữ vai trò
quan trọng trong điều hòa số lượng sâu hại. Nhờ hoạt động tích cực của các loài thiên
địch mà mật độ quần thể gây sâu hại bị khống chế dưới ngưỡng gây hại kinh tế. Sự hiện
diện của thiên địch với thành phần đa dạng và phong phú đặc trưng cho mơi trường
khơng hoặc ít ơ nhiễm do sự thay đổi mơi trường về nhiều khía cạnh khác nhau.
Thiên địch là các loài sinh vật sống bằng ăn cơ thể các loài sinh vật hại cây, là kẻ thù tự
nhiên của các loài dịch hại. Thiên địch gồm nhiều lồi động vật (như cơn trùng, nhện,
chim, rắn...) và vi sinh vật (nấm, vi khuẩn, virut). Bao gồm các loài gây bệnh,
Thành phần và số lượng của thiên địch cũng cho thấy vai trò rất quan trọng trong hệ sinh
thái. Các cơn trùng có lợi có sẵn trong tự nhiên sẽ giúp kiểm sốt dịch hại, cơn trùng bất
lợi cho hệ thống canh tác.
Ngày nay, khi diện tích đất nơng nghiệp giảm, chủ yếu với hệ thống canh tác thâm canh
sử dụng nhiều phân bón, thuốc trừ sâu,và canh tác nhiều vụ trong 1 năm... đã gây ô
nhiễm môi trường và ảnh hưởng trực tiếp tới các thiên địch, làm giảm mật số, giảm
thành phần loài. Sự ô nhiễm cũng làm ảnh hưởng các thủy sinh động thực vật trong nước
và các hệ động vật trong đất và chuỗi thức ăn của nhiều động vật bậc cao.
3… Thiên địch là gì? Phân loại thiên địch theo nhóm? Kể một số thiên địch ở mỗi
nhóm?
Đáp án : Thiên địch là những sinh vật có ích, chúng ăn hoặc gây bệnh cho những sinh
vật gây hại cho sản xuất nơng nghiệp.
Thiên địch được chia ra làm 3 nhóm:
- Nhóm thiên địch bắt mồi ăn thịt. Ví dụ: dế nhảy ăn trứng sâu, bọ cánh cứng ăn sâu, bọ
rùa ăn rệp, bọ ngựa bắt sâu, rắn bắt chuột, mèo bắt chuột...
- Nhóm thiên địch ký sinh. Ví dụ: ong ký sinh nhộng, ong ký sinh sâu cuốn lá, ong ký
sinh sâu đục quả, ong ký sinh sâu đo...



- Nhóm vi sinh vật gây bệnh hại cơn trùng, làm sâu bị bệnh và chết. Ví dụ: nấm gây
bệnh cho sâu cuốn lá, nấm gây bệnh cho rệp.
4..tên một số loại thiên địch
các loài thiên địch sau đây, chúng có tác dụng diệt sâu hại trên cánh đồng lúa và nhiều
cây trồng khá
- Nhện nước: Tên khoa học là Lycosa psseudoannulata, có 8 chân cao như gọng vó, trên
lưng có màu xám hoặc xanh đen, có hình cái nĩa màu trắng trên lưng. Khi ruộng lúa xuất
hiện bướm sâu đục thân, sâu cuốn lá hoặc rầy nâu, chúng tìm đến dùng vòi hút chất dinh
dưỡng bên trong con mồi. Gặp trứng của rầy nâu, chúng ăn từ 5-15 trứng/ngày. Mật độ
nhện càng tăng khi số sâu hại tăng, khống chế được sâu hại không tăng quá lớn để phá
hại
-Kiến ba khoang: Tên khoa học là Coleoptera spp., có màu nâu đỏ, giữa lưng có một
vạch lớn màu đen chạy ngang qua tạo thành một khoang đen cây trồng.
Khi ruộng lúa xuất hiện sâu cuốn lá hay rầy nâu, chúng tìm đến, chui vào những tổ sâu,
ăn thịt từng con. Trung bình mỗi con kiến ba khoang có thể ăn từ 3 - 5 con sâu non/ngày.
Sự xuất hiện của kiến ba khoang đã làm cho mật số của sâu hại giảm đáng kể và bảo vệ
lúa không bị phá hại, giảm bớt việc dùng thuốc hoá học, giảm chi phí, bảo vệ mơi
trường.
-Ruồi xám: Tên khoa học là Diptera spp., có màu xám, xen những sọc trắng, to hơn ruồi
nhà, thân có nhiều lơng (gai), đầu to, màu hồng hơi xám. Khi ruộng lúa xuất hiện sâu
cuốn lá lớn tấn cơng là chúng thường xuất hiện, tìm đậu lên lưng và đẻ trứng lên lưng ký
chủ là sâu cuốn lá lớn. Trứng nở thành giòi và ăn thịt bên trong thân ký chủ.
-Bọ đi kìm: Tên khoa học là Eborellia spp., có màu đen bóng, giữa các đốt bụng có
khoang trắng và có điểm trắng đầu râu. Chúng chui vào các rãnh do sâu đục thân đục để
tìm sâu non hoặc trèo lên lá tìm sâu cuốn lá. Chúng có thể ăn 20 - 30 con mồi/ngày.
-Bọ xít nước: Tên khoa học là Veliide spp., là lồi bọ xít nhỏ, có vạch trên lưng, có nhiều
trên ruộng lúa nước. Đối tượng của chúng là những con rầy non. Chúng ăn rầy non rơi
xuống nước. Mỗi con bọ xít nước ăn từ 4 - 7 con bọ rầy/ngày.
-Bọ xít mù xanh: Tên khoa học là Cytorbinus spp, màu xanh và đen.
Chúng thích ăn trứng và sâu non của các lồi rầy. Chúng tìm trứng rầy ở bẹ lá và thân,

dùng vòi nhọn hút kho trứng. Mỗi con ăn hết 7-10 trứng/ngày hay 1 - 5 con bọ rầy/ngày.


-Bọ rùa đỏ: Tên khoa học là Micraspis sp. có hình ơ van, màu đỏ nhạt hoặc chói. Bọ rùa
đỏ hoạt động vào ban ngày, trên ngọn cây lúa, tìm ăn bọ rầy, sâu non và trứng rầy.



×