Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Lịch sử nhà nước và pháp luật Trung Quốc cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (55.71 KB, 10 trang )

LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
I. Nhà nước
1. Quá trình hình thành nhà nước
Trung Quốc là một trong 4 trung tâm văn minh lớn của phương
Đông cổ đại. Cũng như Ai Cập, Lưỡng Hà và Ấn Độ, ở đây có hai dịng
sơng lớn chảy qua, Hồng Hà ở phía bắc, Trường Giang ở miền nam.
Lịch sử cổ đại của Trung Quốc kéo dài gần 2000 năm (khoảng thế
kỷ XXI trước công nguyên - năm 221 TCN). Trong thời gian đó, lãnh thổ
Trung Quốc từ lưu vực sơng Hồng Hà đã dần dần được mở rộng nhưng
đến cuối thời Chiến Quốc (thế kỉ III TCN), lãnh thổ Trung Quốc chưa
vượt quá dãy Trường Thành, phía tây mới đến miền Đơng Nam tỉnh Cam
Túc ngày nay, phía Nam chỉ bao gồm một dải đất nằm dọc theo hữu ngạn
Trường Giang.
Thời xưa, ở Trung Quốc, tên nước được gọi theo tên triều đại. Đồng
thời người Trung Quốc cổ đại cho rằng nước họ là quốc gia văn minh ở
giữa xung quanh là các tộc lạc hậu gọi là Man, Di, Nhung, Địch. Vì vậy,
họ dùng chữ Trung Hoa hay chữ Trung Quốc để chỉ vùng lãnh thổ của họ
nhằm phân biệt với các vùng xung quanh chứ chưa phải là tên nước. Đến
mãi năm 1912, triều Thanh bị lật đổ, tên nước Đại Thanh bị xóa bỏ, chữ
Trung Hoa mới trở thành tên nước chính thức, thơng thường người ta
quen gọi là Trung Quốc.
Vào khoảng thiên niên kỉ III TCN, cư dân lưu vực Hoàng Hà lần
lượt chuyển sang chế độ công xã thị tộc phụ hệ. Theo truyền thuyết, ở đây
có nhiều bộ lạc nổi tiếng như Hồng Đế, Thiếu Hiệu, Thái Hiệu. Đế Cốc,


Đế Chí, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, Hạ Vũ... Qua quá trình đấu tranh và
liên hiệp giữa các bộ lạc cuối cùng, hình thành một liên minh bộ lạc lớn
mạnh do Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, Hạ vũ kế tiếp nhau được bầu làm
thủ lĩnh.


Trong thời kì này, kinh tế phát triển rõ rệt. Công cuộc lao động vẫn
là đá, gỗ, xương, nhưng do đất đai lưu vực sơng Hồng Hà màu mỡ, tơi
xốp, do các cơng trình thủy lợi được xây dựng nên nghề nông phát triển
hơn trước nhiều. Đến thời Hạ Vũ, người Trung Quốc đã biết đến nghề
làm đồ gốm, nghề đúc đồng (lúc đó mới chỉ là đồng đỏ và đồng đỏ không
thể làm công cụ sản xuất)
Do kinh tế phát triển, sự phân hóa tài sản, phân hóa xã hội diễn ra
mạnh hơn. Thời Hạ, tầng lớp quốc tộc thị tộc đã chiếm dụng nhiều ruộng
đất của công xã. Thế lực và uy quyền của họ ngày càng lớn. Dần dần,
tầng lớp quý tộc thị tộc hình thành một giai cấp - Giai cấp quý tộc chủ nô.
Đến thời Hạ, số lượng nô lệ ngày càng nhiều lên với nguốn chính từ bên
chiến tranh.
Nơng dân cơng xã vẫn là lực lượng xã hội đông đảo lúc bấy giờ.
Thời Hạ Vũ, mặc dù trong xã hội đã diễn ra sự phân hóa giai cấp , nhưng
vẫn là thời kì dân chủ quân sự đang tan rã, sau khi Vũ chết, các quý tộc
thân cận nhà Hạ trong liên minh bộ lạc đã ủng hộ con của Vũ là Khải lên
thay. Việc bầu cử thủ lĩnh liên minh bộ lạc đến đây là chấm dứt, từ đó về
sau việc cha truyền con nối được coi là đương nhiên, hợp tập qn và đạo
lí. Khải trở thành ơng vua có quyền hành rất lớn mà những người kkhác
phải phục tùng, sự kiện trên đánh dấu sự hình thành nhà nước ở Trung
Quốc.
2. Lịch sử các triều đại
• Triều đại nhà Hạ (Thế kỉ 21 – 16 TCN)


Nối chức thủ lĩnh của cha, Khải sau khi trở thành ông vua đầu
tiên ở Trung Quốc, phải đương đầu với nhiều cuộc chống đối.
Trải qua mấy thế kỉ, đến thời Kiệt, mâu thuẫn xã hội phát triến tới
mức gay gắt. Kiệt là một bạo chúa nổi tiếng, áp bức bóc lột nhân
dân thậm tệ. Nhân đó, nước Thương mới thành lập đã tấn cơng

nhà Hạ, nhà Hạ diệt vong.
• Triều đại nhà Thương (Thế kỉ 16 -12 TCN)
Sau khi tiêu diệt nhà Hạ, nhà Thương chính thức được thành lập.
Lúc đầu, nhà Thương đóng đơ ở Bạc (phía Nam Hoàng Hà, thuộc
Hà Nam ngày nay). Đến thể kỉ 14, nhà Thương dời đô sang đất
Ân, gọi là nhà Ân. Cũng từ đó, nhà Thương phồn thính một thời
gian dài. Công cụ và đồ dung bằng đồng thau được sử dụng phổ
biến, Việc trao đổi, buôn bán cũng đã phát triển. Quan hệ nô lệ đã
phát triển nhưng chỉ làm việc trong gia đình nhà chủ.
Trụ là ơng vua cuối cùng nhà Thương nổi tiếng tàn bào trong lịch
sử Trung Quốc. Vua dùng nhiều hình phạt tàn khốc để đàn áp
nhân dân, gây chiến tranh với các bộ lạc xung quanh khiến nhân
dân vơ cùng ốn hận. Nhà Chu, vốn là một nước phụ thuộc nhà
Thương đem quân tấn công, nhà Thương diệt vong.
• Triều đại Tây Chu (thế kỉ XI – 771 TCN)
Sau khi đem quân tiêu diệt triều Thương, nhà Chu đóng đơ ở Cảo
Kinh (Phía Tây Tây An), nên thời kì này gọi là Tây Chu.
Chính sách nổi bất trong thời Tây Chu là chế độ phong hầu. Tất
cả đất đai trong nược thuộc quyền sở hữu của vua Chu. Vua vắt
đất phân phong cho con cháu, thân thuộc, khi phong đất còn kèm
theo phong tước. Những người được phong đất và tước trở tành
những chư hầu của nhà Chu. Hệ quả về chính trị của chế độ phân


phong là triều Chu tạo nên một hệ thống thống trị dựa trên đẳng
cấp quý tộc huyết thống và sử dụng hệ thống các nước chư hầu
để cai trị trong nước và bành trướng ra bên ngồi.
• Triều đại Đơng Chu (770 – 221 TCN) (Thời Xuân Thu Chiến
– Quốc)
Năm 770 trước công nguyên, nhà Chu phải dời đô về Lạc Ấp

(Lạc Dương – Hà Nam ngày nay) nên gọi là Đông Chu. Thời
Đông Chu được chia ra làm 2 thời kì: Xn Thu (770 – 475 trước
cơng ngun) và Chiên Quốc (475 – 221 TCN).
Thời Xuân Thu – Chiến Quốc là thời nhà Chu ngày càng suy yếu.
Cuối thể kỉ 6 TCN, Trung Quốc có 5 nước lớn là Tề, Tần, Sở,
Ngơ, Việt, đó là cục diễn “Ngũ bá”. Sang thời Chiến Quốc, có 7
nước chủ yếu tranh quyền, tranh bá là Tề, Sở, Yên, Hàn, Triều,
Ngụy, Tấn, gọi là cục diện “Thất Hùng” – đây là thời kì chiến
tranh lien miene, quy mơ rộng lớn, tính chất ác liệt gấp nhiều lần
so với thời Xuân Thu.
Nổi bật trong nhiều nước lúc bấy giờ là các cuộc cải cách về các
mặt, trong đó nổi tiếng và mang lại hiệu quả nhất là cuộc cải cách
do Thương Ưởng đề xướng và thực hiện ở Tần năm 359 TCN,
chủ yếu tập trung ở tăng cường trật tự trị an; khuyến khích việc
sản xuất nơng nghiệp, khuyến khích lập quận cơng; ruộng đất
được tự do mua bán; thống nhất đơn vị đo lường.
Qua cuộc cải cách ở nước Tần và các cuộc cải cách ở nhiều nước khác, cơ
sở kinh tế và đặc quyền chính trị của tầng lớp quý tộc cũ dần dần bị phá
vỡ, tầng lớp địa chủ mới từng bước chiếm ưu thế về kinh tế và chính trị.
Quan hệ sản xuất phong kiến bắt đầu được hình thành. Năm 221 TCN,


nước Tần thống nhất Trung Quốc. Trung Quốc bước sang chế độ phong
kiến.
3. Tổ chức bộ máy nhà nước:
Bộ máy nhà nước Trung Quốc cổ đại được xác lập hoàn thiện từng
bước.
Thời Hạ - Thương: Bộ máy nhà nước còn đơn giản, mang đậm nét
tàn dư của tổ chức thị tộc. Thời Tây Chu, bộ máy nhà nước đã được hồn
thiện cả về quy mơ và cơ cấu tổ chức, tàn dư công xã thị tộc phai nhạt

dần. Sang thời Xuân Thu – Chiến Quốc, tổ chức bộ máy nhà nước đã
được kế thừa và phát triển cách thức tổ chức của nhà Tây Chu.
Đứng đầu nhà nước cổ đại Trung Quốc là Vua. Thời Hạ - Thương
gọi là đế, đời Chu gọi là Vương hay Thiên tử. Thời Xuân Thu – Chiến
Quốc, ở các nước lớn, vua xưng vương. Vua quyết định mọi việc trọng
đại của đất nước. Ý chí và lời nói của vua là pháp luật. Vua cịn tự thần
thánh hóa bản thân.
Bộ máy bạo lực bao gồm hệ thống quan lại, quân đội, nhà tù… được
thiệp lập và từng bước được tăng cường.
Bộ máy quan lại Trung ương: thời Hạ - Thương mới chỉ có một số
chức vụ quản lí các cơng việc như mục chính, xa chính; bảo chính…
Dưới vua có chức Vu sử có quyền lớn nhất giúp vua quản lí chung cơng
việc triều đình.
Thời Tây Chu, bộ máy quan lại triều đình đã đi vào quy củ. Vua thiệt
lập Tam công giúp vua quan triều đình, gồm ba chức quan lớn: Thái sư,
Thái phó, Thái bảo. Về sau lại bỏ Tam Cơng lập ra sáu chức quan cao cấp
trong triều gồm:
• Thái tể: quyền hành như Tam công


• Tư đồ: quản lí cơng việc lao động cua rnơ lên, cơng viếc chính
phạt và mở rộng đất đai, hoạch định địa giới của các chủ hầu.
• Tịng bá: trơng coi việc tế lễ, chiêm tinh, giáo dục
• Tư mã: coi việc qn chính trong triều và đối ngoại
• Tư khấu: coi việc hình pháp
• Tư khơng: coi việc sẩn xuất thủ cơng nghiệp và thủy lợi
• Song song với lục khanh, có thái sử liêu gồm:
• Tả sử: ghi chép lời nói của vua
• Hữu sử: ghi chép lại những sự kiện lớn của quốc gia
Thời Chiến Quốc xuất hiện chức quan cao cấp nhất trong bộ máy

quan lại, chức này tùy từng nước có những tên gọi khác nhau như Lệnh
doãn, Thái doãn, Thái tể, Tướng quốc, Thừa tướng. Sau này nhà Tần gọi
Thừa tướng là Tể tướng.
Bộ máy quan lại địa phương bao gồm:
• Cấp hành chính trực tiếp dưới trung ương: Thời Hạ - Thương
bao gồm các vùng thuộc địa bàn của những bộ lạc trong lien
minh bộ lạc trước đây. Đứng đầu vốn là tù trưởng bộ lạc trước
đó hoặc là con cháu của họ.
• Thời Tây chu, thêm một cấp địa phương cao nhất là các nước
chư hầu địa phương cao nhất. Thời Xuân Thu – Chiến Quốc,
chiến tranh giữa các nước đã khiến cho các nước chư hầu trở
thành các quốc gia độc lập với nhà Chu và vì thế, bộ máy
chínhq uyền địa phương chư hầu trờ thành bộ máy chính
quyền trung ương một nước.
• Chính quyền cấp cơ sở: Thừoi Hạ - Thương, đơn vị hành
chínhc ơ sở là cơng xã nông thôn (thôn), do tộc trưởng (thôn
trưởng) đứng đầu. Thôn trưởng do công xã bầu ra. Thời Tây
Chu, thôn trưởng vẫn do công xã bầu ra nhưng phải được


chính quyền cấp trên phê chuẩn. Thời Xuân Thu – Chiến
Quốc, chính quyền cấp cơ sở có những thay đổi quan trọng.
Chẳng hạn, ở nước Tần, cấp cơ sở là xã, một xã gồm một thôn
hoặc vài công xã hợp lại, viên quan đừng đầu xã là do chính
quyền cấp trên bổ nhiệm.
Về quân đội: Giái cấp thống trị rất chú ý xây dựng lực lượng quân
dội. Từ đời Thương, quân đội đã chia làm 3 sư gồm hữu, trung, tả. Quý
tộc địa phương và các chư hầu cũng có lực lượng vũ trang riêng. Thời
Xuân Thu – Chiến Quốc là thời kì các nước tranh hùng, tranh bá nên
quân đội càng được tăng cường về số lượng và chất lượng.

Như vậy, Trung Quốc cổ đại dù có thời kì bị phân chia thành nhiều
quốc gia, thì các nước đó đều là những nhà nước quân chủ chuyên chế.
Chế độ quân chủ chuyên chế đó dựa trên những cơ sở kinh tê, chính trị xã hội sau:
Về kinh tế: hầu hết ruộng đất trong cả nước thộc về sở hữu của nhà
vua. Công xã nông thôn tồn tại bền vững và được quyền sở hữu thực tế
ruộng đất của nhà vua. Đó là cơ sở và tiềm lực kinh tế của chế đọ quân
chủ chuyên chế.
Về chính trị - xã hội: Hệ thống quan lại Trung Quốc cổ đại được
hình thành, củng cố theo chế độ tông pháp và chế đồ cha truyền con nối.
Hầu hết các chức vụ quan trọng từ triều đình đến địa phương đều do
những người thuộc họ hàng nhà vua nắm giữ. Phẩm tước cao hay thấp là
phụ thuộc vào quân hệ thân tốc gần hay xa. Do đó có thể nói đấy alf
chính thể quân chủ chuyên chế quý tộc (chủ nô), là điểm đặc biẹt của nhà
nước Trung Quốc cổ đại.
Đồng thời suốt 2000 năm lịch sử cổ đại, ở Trung Quốc đều thiết lập
một chính quyền Trung ương tập quyền.

II. Pháp luật:


1. Pháp luật:
Ở Trung Quốc cho đến nay chưa tìm thấy một bộ luật cổ đại nào.
Thời Hạ - Thương: hình thức pháp luật chủ yếu là lệnh miệng của
nhà vua như cáo, huấn… hoàn toàn phù hợp với tập qn một xã hội vừa
thốt khỏi chế độ cơng xã nguyên thủy. Hình pháp được giai cấp thống trị
đặc biệt chú ý. Từ thời nhà Thương đã có nhà tù, có nhiều hình phạt hà
khắc như đóng dâu nung đỏ, cắt mũi, gơng cùm… và xử tử bằng các hình
thức: chôn sống, mổ bụng, xẻo từng mảnh bỏ vào nước sôi, bỏ vào cối
giã…
Đến thời Tây Chu, nhà Chu đặt lễ bên cạnh hình pháp vì cơ chế

chính trị của nnahf Chu là sự điền hình cho cơ chế dựa trên quan hệ đẳng
cấp quyết thống (chế độ tông pháp). Lễ đến thời Tây Chu trờ thành một
thể chế chính trị. Hình trừng trị những cái gì mà lễ khơng cho phép, tức là
bị pháp cấm đốn. Hình phạt của nhà Chu cũng rất tàn bạo gồm 5 thang
bậc, gọi là phép “Ngũ hình” (gồm 3000 điều): thích chữ vào trán (1000
điều), cắt mũi, chặt chân (500 điều), thiến (300 điều), chém đầu (200
điều).
Thời Xuân Thu, nước Trịnh soạn ra “Hình thư” và kahức lên đỉnh.
Đây là sự mở đầu việc công bố luật pháp thành văn.
Thời Chiến Quốc, các nước ban hành một loạt các bộ luật, nước Hàn
có “Hình phù”, nước Sở có “Hiến lệnh”, nước Tề có “Thất pháp”, nước
Việt có “Quốc luật”. Sau đó, quan Tư khấu của nước Hàn là Lsi Khôi,
tổng hợp kinh nghiệm lập pháp của các nước soạn ra bộ “Pháp kinh”.
Pháp kinh đã thất truyền nhưng theo sử sạch, đây là bộ luật hoàn chỉnh và
nổi tiếng của Trung Quốc cổ đại, gồm 6 chương:
• Đạo pháp: Quy định về tội trộm cướp
• Tặc pháp: Quy định các tội giả mạo
• Tư pháp: Quy định về tố tụng xét xử


• Bộ phạp: Quy đinh về việc bắt bớ giam cầm
• Tạp pháp: Tạp luật
• Bối pháp: Quy định những nguyên tắc chung
Pháp kinh là một công cụ bảo vệ chính quyền chuyên chế, phàm
những hành vi xâm phạm đến sự tơn nghiêm của q vường và nguy hại
đến chính quyền quân chủ đều bị coi là trọng tội. Pháp kinh cịn bảo vệ
quyền tư hữu. Kẻ nào ngồi đường nhặt được của rơi mà không trả lại
người mất (mà bị bắt gặp) thì sẽ bị chặt chân. Thậm chí mới có ý định
trộm cướp cũng sẽ bị pháp nặng.
2. Thuyết pháp trị

Trung Quốc cổ đại, đã sớm xuất hiện và phát triển nhiều xu hướng
tư tưởng chính trị - pháp lí, đặc biệt là thời Xuân Thu – Chiến Quốc, đáng
chú ý nhất là thuyết chính trị - pháp lí của Nho giáo và thuyết pháp trị của
phái Pháp gia.
Thuyết pháp trị đáp ứng được tình hình chính trị lúc bấy giờ nên
được giai cấp thống trị sử dụng và thể chế thành nội dung đường lối,
chính sách và pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là nước Tần.
Thuyết pháp trị chủ trương đề cao vai trò của pháp luật, dùng pháp
luật để cai trị, để củng cố quyền lực của chính quyền trung ương, thiết lập
chế dộ quân chủ tập quyền chuyên chế.
Phái pháp gia bắt nguồn từ các nhà cải cách phương thức cai trị thời
Xuân Thu mà đại biểu nổi tiếng vào loại sớm nhất là Quản Trọng. Đến
thời Chiến Quốc, số người thuốc phái này ngày càng nhiều như Thương
Ưởng, Thân Bất Hại, Thận Đáo… nhưng có đóng góp nhiều nhất là Hàn
Phi.
Hàn Phí (khoảng 280 – 230 TCN) là một công tử nước Hàn. Theo
ơng, sở dĩ dùng pháp luật mệnh lệnh, hình phạt để cai trị là phương pháp


có hiệu q nhất vì “dân vốn nhớn với lịng thương mà chỉ tuân theo uy
lực”. Những bài viết của ông được tập hợp lại thành sách Hàn Phi Tử.
Tóm lại, nội dung của thuyết pháp trị bao gồm 3 yếu tố: “Pháp”,
“Thế”, “Thuật”.
• Pháp: là pháp luật, mệnh lệnh, chiếu chỉ, xuất phát từ ý chí
của nahf vua để thần dân tuân thủ. Mục đích của pháp luật là
để trừng trị, răn đe cho dân sợ.
• Thế: Muốn pháp được thi hành, thì vua phải có thế, tức là phải
có đầy đủ uy quyền.
• Thuật: Muốn cai trị được tốt, thì ngồi pháp và thế cịn phải
chú ý đến thuật, tức là phương pháp điều hành nghệ thuật

quản lí con người. Thuật bao gồm 3 mặ: bổ nhiệm, khảo hạch
và thưởng phạt. Thuật bổ nhiệm là khi đề bạt quan lại chỉ căn
cứ vào tài năng chứ không cần kể đến dòng dõi. Thuật khảo
hạch và thuật thường phạt là căn cứ vào trách nhiệm để kiểm
tra hiệu quả cơng việc, làm tốt thì thưởng, làm khơng tốt thì
phải chịu phạt, kể cả xử tử.
Với ba yếu tốt pháp, thế, thuật, vua có thể trở thành một kẻ chuyền
quyền độc đốn, chỉ dùng hình phạt nghiêm khắc, nặng nề để trị nước chứ
không cần đến nhân nghĩa, không cần trí tuệ, hâm mộ hay trung tín.
Tóm lại , chỉ có đường lối cai trị thực dụng của phái pháp gia đáp
ứng được yêu cầu của xã hội đương thời nên được áp dụng ở một số
nước, nhất là ở nước Tần. Sau khi thống nhất Trung Quốc, nhà Tần tiếp
tục dùng đường lối cảu phái pháp gia để trị nước.



×