Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Sự ảnh hưởng của đặc điểm địa lý và xã hội đối với văn hóa trang phục miền Bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.77 MB, 13 trang )

I.

Phía Bắc

Chia thành 2 khu vực riêng biệt là khu vực trung du miền núi và khu vực
đồng bằng
1. Khu vực trung du và miền núi phía Bắc
- Điều kiện tự nhiên
Có sự khác biệt giữa Tây Bắc và Đơng Bắc:
 Tây Bắc: có địa hình núi cao, hiểm trở. Khí hậu nhiệt đới ẩm có mùa
đơng lạnh.
 Đơng Bắc: địa hình núi trung bình và thấp với nhiều dãy núi hình cánh
cung. Khí hậu nhiệt đới ẩm và có mùa đông lạnh hơn
Đây là nơi bắt nguồn của các con sơng lớn như sơng Hồng và sơng Thái
Bình
- Điều kiện xã hội:
 Tây Bắc: là nơi sinh sống chủ yếu của các dân tộc Thái, Mông, Dao
 Đông Bắc: cư dân chủ yếu là người dân tộc Tày, Nùng
 Hoạt động kinh tế chủ yếu là làm nương rẫy, chăn ni gia súc, dệt
vải,….
- Về trang phục
 Với khí hậu lạnh nên trang phục có chất liệu bằng sợi bông, sợi lanh.
 Lối sử dụng màu chàm phổ biến, kết hợp cùng với các màu sắc khác để
tạo điểm nhấn.
 Do cây chàm mọc nhiều ở vùng núi phía bắc, là chàm mèo hoặc chàm
lá to. Dùng chàm nhuộm vải thì bền màu.
 Hoa văn trang trí nhiều họa tiết mang nhiều ý nghĩa, tùy từng dân tộc.
 Kết hợp cùng với phụ kiện trang sức bằng bạc. Trang sức bạc được gia
công tỉ mỉ. Dùng bạc để xua đuổi tà ma.
 Mỗi dân tộc lại có kiểu dáng, nét riêng trang phục khác nhau tạo sự
phong phú và đa dạng trong văn hóa trang phục miền núi.


Dân tộc Thái:
Có sự khác biệt giữa người Thái đen và Thái trắng, đặc biệt là trang phục
của phụ nữ. Nhìn chung phụ nữ Thái Trắng mặc áo ngắn hay còn gọi là
xửa cỏm màu trắng hoặc màu sáng, cổ áo chữ V khăn đội đầu k có hoa
văn thường là màu trắng cịn phụ nữ Thái Đen thì thường mặc áo màu tối,
cổ áo trịn, đứng và khăn đội đầu có hoa văn, đó là khăn “piêu”. Khăn
piêu là đặc trưng trang phục của dân tộc Thái Đen với với đường nét tinh
sảo và hoa văn mang đậm chất núi rừng hoang sơ cùng màu sắc sặc sỡ,
nó thể hiện tình u, sức mạnh nữ tính thật quyến rũ. Đó là màu xanh của


núi rừng, màu vàng của ánh nắng, nương lúa và màu trắng hồng của hoa
thơm. Mỗi một hoa văn như cách ứng xử của người Thái với thiên nhiên
và bản làng. Đúng như tinh thần của người dân tộc miền núi ln sống
hịa mình với thiên nhiên. Về kiểu dáng váy của phụ nữ Thái Đen và Thái
Trắng là như nhau, thường là màu đen hoặc màu chàm chỉ khác là Dịp lễ
tết, Thái Trắng mặc áo dài màu đen cịn Thái đen thì lại phong phú về
màu sắc và motip hơn.

Trang phục nam giới người Thái đơn giản hơn, k có sự khác biệt lắm giữa 2
nhóm.


Trang phục người H’Mông
Trang phục sặc sỡ, đa dạng giữa các nhóm. Chất liệu làm bằng sợi lanh. Vải dày
do dân tộc Mông đặc biệt sống trên các núi cao còn dân tộc Thái sống ở khu vực
trung du.
Nam giới mặc áo cánh ngắn, loại năm thân hoặc tứ thân. Loại tứ thân khơng
trang trí cịn loại năm thân lại có vằn ngang ở tay áo. Quần là loại chân què, ống
rộng.

Phụ nữ mặc áo bốn thân, xẻ ngực. Váy phụ nữ Hmơng là loại váy kín, nhiều nếp
gấp, rộng, khi xịe ra có hình trịn. Có sự phân biệt màu sắc giữa các nhóm
người. Họ thường Mặc váy mang thêm chiếc tạp dề. Phụ nữ thường để tóc dài
quấn quanh đầu, có một số nhóm đội khăn quấn thành khối cao trên đầu. Đồ
trang sức bao gồm khuyên tai, vòng cổ, vòng tay, vòng chân, nhẫn.


Người H’Mông Trắng

Người H’Mông Hoa

Người H’Mông Xanh

Người H’Mông Đen

Trang phục người Dao
Chất liệu là vải bông, nhuộm chàm, xanh, đỏ, đen, tím than hoặc để trắng.


Trang phục nam giới đơn giản hơn nữ giới, giống nhau hầu hết giữa các nhóm.
Gồm 2 loại: áo ngắn mặc thường ngày và áo dài mặc trong các dịp lễ. Cổ tay áo
và gấu áo thêu nhiều hoa văn bằng chỉ màu. Giữa hai bả vai được thêu ấn của
Bàn Vương. (do tín ngưỡng người Dao thờ Bàn Vương). Quần của đàn ông Dao
đồng màu chàm hoặc đen với áo, cắt may theo kiểu chân què, cặp lá bằng vải
mộc hoặc nhuộm chàm.

Cổ áo của người phụ nữ Dao được trang trí bằng núm bơng hoa đỏ như nắm tay
nổi bật trên nền áo chàm xanh đằm thắm.



Trang phục phụ nữ Dao Tiền, họ đeo nhiều vòng cổ
Trang phục người Tày


Chất liệu là vải sợi bông nhuộm chàm. Nam giới mặc áo bốn thân và năm thân
vào ngày lễ, là loại xẻ tà, có cài cúc vài. Quần cắt kiểu đũng chéo, dài tới mắt cá
chân.

Y phục của nữ thường gồm áo cánh, áo dài năm thân, quần váy, thắt lưng, khăn
đội đầu, hài vải. Phụ nữ Tày thường để tóc dài, đội khăn. Khăn là loại khăn
vng gấp chéo kiểu “mỏ quạ”, đội lên đầu, thắt ở sau gáy, tương tự như kiểu
đội khăn mỏ quạ của phụ nữ Kinh. Áo của phụ nữ thường là loại áo năm thân,
trong đó bốn thân dài và một thân hụt nằm ở phía ngực bên phải, xẻ chéo từ
dưới cổ sang nách bên phải, áo phụ nữ Tày thường dài đến quá bắp chân, thân
áo và tay bó hẹp lấy người.


Trang phục người Nùng
Khá giống người Tày trong việc sử dụng màu chàm khá phổ biến. Về tổng thể,
trang phục của dân tộc Nùng hoa văn không cầu kỳ mà thiên về tạo dáng.

Cả nam và nữ đều mặc một loại quần cạp to, ống rộng, dài tới tận mắt cá chân.
Nam giới người Nùng thường mặc áo dài ngang hông, tứ thân, may áo gần sát
người, tay áo dài và rộng. Phụ nữ Nùng thường mặc cả loại áo 5 thân và 4 thân.
Áo ngắn 4 thân có cổ áo tròn, xẻ ngực, nẹp và gấu áo rộng. Chiếc váy của phụ
nữ dân tộc Nùng trơng tựa như hình chóp cụt, khi mặc vào ơm trịn lấy eo, thân
váy hơi bồng lên tạo sự duyên dáng, trẻ trung cho trang phục.
Trang sức của người Nùng là một phần rất quan trọng của bộ trang phục.

1. Khu vực đồng bằng

- Điều kiện tự nhiên


 Địa hình núi xen kẽ đồng bằng hoặc thung lũng, thấp và bằng phẳng.
 Mạng lưới sơng ngịi dày đặc với các con sông lớn là sông Hồng và sơng
Thái Bình
 Khí hậu gió mùa, mùa đơng lạnh, khơ: mù hè nóng ẩm. Nhìn chung thì 4
mùa vẫn rõ nét.
- Điều kiện xã hội
 Dân cư chủ yếu là người dân tộc Kinh
 Hoạt động kinh tế là trồng lúa nước. Phát triển đánh bắt thủy sản.
 Người dân cũng trồng các loại rau, chăn nuôi, làm đồ thủ công như đồ
gốm, dệt, luyện kim, đúc đồng,….
- Về trang phục:
 Từ thời Hùng Vương, tùy vào từng ngừa, từng dịp, từng cơng dụng thì
sẽ cầu kì hoặc phức tạp. Thường ngày nữ giới mặc 2 kiểu váy là váy chui
hoặc váy quấn, ngắn đến đầu gối, có miếng đệm ở trước bụng và sau
mơng. Nam giới thì đóng hố. Vào ngày lễ, phụ nữ mặc váy xịe làm bằng
lơng vũ hoặc lá cây ken kết lại và đội những chiếc mũ làm bằng lơng vũ
cao trên đầu và phía trước cài thêm những bông lau.


 Trang phục thời phong kiến: Có sự khác biệt giữa dân thường với
tầng lớp quý tộc, quan lại. Kiểu áo phổ biến ở giai đoạn này là áo giao
lĩnh. Áo giao lĩnh còn được gọi là áo vạt chéo, thường có 4 vạt chính
và 1 vạt phụ, đối với áo giao lĩnh tay rộng dùng cho tu sĩ Phạt Giáo thì
có đến 7 vạt. Phụ nữ mặc áo này bên ngồi, bên trong mặc yếm. Đàn
ơng cũng mặc áo ra ngoài quần hay khố. Vạt bên trái được kéo chéo
qua ngực và bụng rồi buộc vào dưới nách áo bên phải, phân biệt với
áo cổ thìa có gút buộc nằm ngang xương mỏ ác. Chất liệu vải thường

là từ tơ tằm. Mùa hè trời nóng thì dùng vải sa/the, vải thanh cát (vải tơ
thân cây chuối); mùa đông dùng gấm, đoạn
 Thời Lý – Trần được coi là giai đoạn phục hưng của nền văn hóa Việt
cổ bản địa (văn minh Văn Lang – Âu Lạc) trên nền tảng khôi phục độc
lập dân tộc và giữ vững chủ quyền quốc gia qua những cuộc kháng
chiến của Đại Việt chống Tống, Nguyên thắng lợi. Vị thế độc lập về
chính trị – dẫn đến ý thức độc lập về văn hóa “Nam Bắc đều chủ nước
mình, khơng phải noi nhau” (lời Trần Nghệ Tơng). văn hóa Đại Việt
thời Lý – Trần đã pha trộn và hỗn dung giữa những yếu tố Nam Á và
Đông Á trong một vị thế cân bằng văn hóa. Khơng dùng gấm vóc triều
Tống để may lễ phục mà dùng vải vóc trong nước.
 Phân biệt tầng lớp xã hội bằng… chất liệu
 Thời Trần có thể thấy rõ tục đi chân đất, nhuộm răng đen của người
nước ta vẫn tiếp tục tồn tại
 Thời nhà Lê, thời kỳ thăng hoa của trang phục, tuy nhiên chịu ảnh
hưởng của Trung Hoa nhiều nên trang phục có nhiều nét tương đồng.
Phổ biến là áo giao lĩnh, áo tấc, áo viên lĩnh dành cho tầng lớp vua,
quan.
 Đến thế kỉ 17
Để tiện hơn trong việc buôn bán hay làm đồng áng, chiếc áo giao lãnh
được thu gọn thành kiểu áo tứ thân với 2 vạt trước rời nhau (có thể buộc
lại) còn 2 vạt sau may liền thành một tà áo. Vì là trang phục của tầng lớp
bình dân, áo tứ thân thường có màu tối để tiện cho công việc. Người dân
thời ấy dùng củ nâu, lá bàng giã nhỏ hay bùn dẻo dưới ao để nhuộm màu
tự nhiên cho bộ áo tứ thân.
Từ thế kỉ 18-20, Phụ nữ thành thị ít phải lao động thường mặc áo ngũ
thân để phân biệt mình với tầng lớp lao động nghèo. Áo ngũ thân có bốn
vạt như áo tứ thân. Vạt con thứ năm được may dưới tà trước như một
mảnh áo lót kín đáo. Áo có cổ và phom rộng, được mặc rộng rãi đến đầu
thế kỷ 20.

Bốn thân áo bên ngoài tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu. Thân áo thứ
năm tượng trưng cho địa vị của người mặc trong xã hội. Áo dài ngũ thân


có 5 cúc cài tượng trưng cho đạo lý làm người của người Việt là: Nhân –
Lễ – Nghĩa – Trí – Tín.

Nói về yếm thì Phụ nữ lớn tuổi mặc áo yếm màu đen, màu trắng hay màu
thắm đỏ hoa cho các cơ gái trẻ. Yếm xưa có cổ rất cao và ơm rất kín,
khơng để lộ xương cổ và hai bên eo như một số kiểu yếm ngày nay, khi
khốc áo vào thì khơng lộ vai. Cổ yếm có 2 loại phổ biến: Cổ nhạn và cổ
xây.
Cổ nhạn cịn được gọi là cổ xẻ,có dạng chữ V, ở viền cịn có khâu nổi 3
gạch như vết chân chim, vừa để yếm không bị bục rách, vừa để trang trí.


Cổ xây là cổ tròn.
 Đầu thế kỉ 20, Vào khoảng các giai đoạn thế kỉ 18-20, Các khái niệm và
tiêu chuẩn Âu phục tân thời đã trở nên quen thuộc với tầng lớp thượng
lưu, trung lưu và giới trí thức, văn-nghệ sĩ ở Việt Nam. Ban đầu, chỉ một
bộ phận quan lại, địa chủ, thương nhân Hoa Việt (hầu hết là đàn ông) làm
việc và phục vụ dưới chế độ của người Pháp dần làm quen với những bộ
âu phục, đồng hồ, giày tây và cả những mái đầu chải chuốt. Tiếp theo đó
là một tầng lớp trí thức sinh ra vào đầu thế kỷ XX và trưởng thành trong
môi trường giáo dục đã đi vào nề nếp của Pháp.
 Có thể kể đến một số ví dụ như
 Sự ra đời của áo dài Le Mur khởi xướng bởi họa sĩ Nguyễn Cát Tường
"Le Mur" chính là cách dịch sang tiếng Pháp của Cát Tường – một họa sĩ
tên Le Mur Nguyễn Cát Tường vào năm 1939 khi ông đã thực hiện một
cải cách quan trọng trên chiếc áo ngũ thân để biến nó chỉ cịn lại hai vạt

trước và sau mà thôi.
Khác với phom dáng rộng truyền thống, áo dài Le Mur ôm sát đường
cong cơ thể với nhiều chi tiết Âu hóa như tay phồng, cổ kht hình trái
tim, đính nơ… Đến năm 1943 thì kiểu áo này dần bị lãng quên.
 Những năm 1960, áo dài chít eo thách thức quan điểm truyền thống trở
thành kiểu dáng thời thượng.
Gần cuối thập kỷ 60, áo dài mini trở nên thịnh hành trong giới nữ sinh vì
sự thoải mái, tiện lợi của nó. Tà áo hẹp và ngắn đến gần đầu gối, áo rộng
và khơng chít eo nhưng vẫn may theo đường cong cơ thể.
Sau những năm 1970, đời sống đổi mới đã khiến chiếc áo dài dần vắng
bóng trên đường phố. Tuy nhiên, từ năm 2000 đến nay, chiếc áo dài đã trở
lại với nhiều kiểu dáng, chất liệu khác nhau từ lụa đến voan, gấm…qua
các bộ sưu tập đầy sáng tạo và phá cách của các nhà thiết kế.
Thậm chí, áo dài cịn được biến thành áo cưới, áo tà ngắn để mặc với
quần jeans. Nhưng dù biến hóa thế nào, áo dài vẫn giữ được sự duyên
dáng, uyển chuyển, hồn cốt của nó, vừa gợi cảm vừa kín đáo mà khơng
trang phục nào mang lại được.
Đó là với áo dài của nữ giới, cịn đối với nam giới thì Áo dài nam truyền
thống nguyên vẹn ban đầu có 5 thân và 5 cúc nên thường được gọi là áo
dài ngũ thân. Đặc biệt nói đến 5 thân phải nói đến chắp tà bào gồm 2 tà
trước, 2 tà sau, và 1 tà ở giữa. Tà áo phải rộng và tay phải nhỏ búp. Đến
sau này, tà áo dài được cải biên rất nhiều trên sân khấu.


Miền Bắc, nam giới phổ biến với áo sơ mi, áo kaki



×